Tải bản đầy đủ (.pdf) (202 trang)

Marketing nghệ thuật của các nhà hát trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.78 MB, 202 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI






LÊ THANH HUYỀN



THƯ VIỆN VIỆT NAM
THỜI KỲ PHÁP THUỘC










LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÔNG TIN - THƯ VIỆN








HÀ NỘI - 2014
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI





LÊ THANH HUYỀN





THƯ VIỆN VIỆT NAM
THỜI KỲ PHÁP THUỘC



Chuyên ngành: Khoa học Thông tin - Thư viện
Mã số: 62 32 02 03


LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÔNG TIN - THƯ VIỆN


Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Trần Thị Minh Nguyệt
2. TS. Vũ Thị Minh Hương




HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả. Các
kết quả nghiên cứu và các kết luận trong luận án này là trung thực, không sao
chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo
các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo
đúng quy định./.

Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận án


Lê Thanh Huyền





2

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
MỞ ĐẦU 6

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯ VIỆN VÀ
BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI KỲ PHÁP THUỘC 16
1.1. Những vấn đề chung về thư viện 16
1.1.1. Định nghĩa thư viện 16
1.1.2. Cấu trúc thư viện 20
1.1.3. Vai trò của thư viện 21
1.1.4. Tổ chức và hoạt động thư viện 22
1.1.5. Tiêu chí đánh giá thư viện 29
1.2. Thư viện Việt Nam trong bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc 36
1.2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc 36
1.2.2. Khái quát sự hình thành và phát triển của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc 45
1.3. Tiểu kết 47
Chương 2. THỰC TRẠNG THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI KỲ PHÁP THUỘC 49
2.1. Thư viện Việt Nam giai đoạn 1858 - 1917 49
2.1.1. Tổ chức thư viện 49
2.1.2. Hoạt động thư viện 53
2.2. Thư viện Việt Nam giai đoạn 1917 - 1945 59
2.2.1. Tổ chức thư viện 60
2.2.2. Hoạt động thư viện 75
2.3. Đánh giá thực trạng thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc 116
2.3.1. Tổ chức thư viện 116
2.3.2. Hoạt động thư viện 117
2.4. Tiểu kết 120
Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC 122
TRONG SỰ NGHIỆP THƯ VIỆN VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM 122
3.1. Ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc tới sự nghiệp

thư viện Việt Nam 122
3.1.1. Chuyển đổi mô hình thư viện phong kiến sang mô hình thư viện hiện đại 122
3.1.2. Đặt nền móng lý luận và thực tiễn cho thư viện Việt Nam hiện đại 133
3.2. Ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc tới văn hóa
Việt Nam 137
3.2.1. Môi trường thuận lợi cho giao lưu, tiếp biến văn hóa Đông - Tây 137
3.2.2. Bảo tồn di sản văn hóa thành văn của dân tộc 143
3.2.3. Công cụ phục vụ mục tiêu khai thác thuộc địa và nô dịch 144
3.3. Tiểu kết 146

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ
AGGI
:
Amiraux Gouvernement Général de l’Indochine
(Thống đốc toàn quyền Đông Dương)
EFEO
:
École Française d’Extrême-Orient (Trường Viễn
Đông bác cổ)
Phông
:
Fond

GGI
:
Gouvernement Général de l’Indochine (Toàn quyền
Đông Dương)
Impr.
:
Imprimerie (Nhà in)
IDEO
:
Imprimerie d’Extrême-Orient (Nhà in Viễn Đông)
Nxb.
:
Nhà xuất bản
RST
:
Résidence Supérieure au Tonkin (Thống sứ Bắc Kỳ)
RST – NF
:
Résidence Supérieure au Tonkin - Nouveau fonds
(Thống sứ Bắc Kỳ - Phông mới)






4

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2-1: Ngân sách Đông Dương dành cho lưu trữ và thư viện (1929-1945) 66

Bảng 2-2: Ngân sách Đông Dương dành cho 3 lĩnh vực: Phúc lợi xã hội, kinh tế
và khai thác công nghiệp (1929-1945) 66
Bảng 2-3: Bảng qui định cấp bậc và lương của các vị trí việc làm của viên chức
người Âu trong Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương 71
Bảng 2-4: Bảng qui định cấp bậc và lương của các vị trí việc làm của viên chức
bản xứ trong Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương 71
Bảng 2-5: Thống kê so sánh tỉ lệ các lĩnh vực trong vốn tài liệu 77
Bảng 2-6: Số lượng sách lưu chiểu trên toàn Đông Dương từ 1928 đến 1935 từ
1928 đến 1935 79
Bảng 2-7: In ấn phẩm định kỳ của Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Đương 80
Bảng 2-8: Số lượng ấn phẩm định kỳ bằng các ngôn ngữ nộp lưu chiểu năm
1943-1944 80
Bảng 2-9: Vốn tài liệu bổ sung của Thư viện Trung ương Đông Dương 81
Bảng 2-10: Số lượng sách mua, biếu tặng của Thư viện Trung Kỳ và Nam Kỳ 82
Bảng 2-11: Kinh phí mua sách và đóng sách của Thư viện Trung ương
Đông Dương 1918-1937 83
Bảng 2-12: Vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương và Thư viện Sài Gòn 85
Bảng 2-13: Lượt người đọc tại Hà Nội, Sài Gòn, Phnompenh 104
Bảng 2-14: Lượt bạn đọc tại Phòng đọc và Phòng mượn tại Thư viện 107
Bảng 2-15: Sử dụng vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương 108
Bảng 2-16: Số lượt người đọc ở phòng đọc thiếu nhi của thư viện Sài Gòn 110
Bảng 2-17: Sử dụng vốn tài liệu của thư viện lưu động Nam Kỳ 112
Bảng 2-18: Hiệu suất hoạt động của thư viện lưu động Nam Kỳ 113

5

DANH MỤC BIỂU
Hình 2-1: Ngân sách Đông Dương dành cho cho 3 lĩnh vực: Phúc lợi xã hội,
kinh tế và khai thác công nghiệp (1929-1945) 67
Hình 2-2: So sánh tỉ lệ các lĩnh vực trong vốn tài liệu của Thư viện Trung ương

Đông Dương 76
Hình 2-3: Kinh phí mua sách và đóng sách của Thư viện Trung ương Đông Dương 84
Hình 2-4: Biểu đồ so sánh lượt người đọc tại Hà Nội, Sài Gòn, Phnompenh 105
Hình 2-5: Số lượt bạn đọc tại Phòng đọc và Phòng mượn 106
Hình 2-6: Sử dụng vốn tài liệu của Thư viện Trung ương Đông Dương 109













6

0. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thư viện ra đời do nhu cầu của xã hội và phát triển dưới những điều kiện lịch
sử nhất định. Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thư viện xuất hiện ở Việt Nam từ thời Lý
(thế kỷ 11) và thăng trầm cùng những biến động của lịch sử dân tộc. Dù trong hoàn
cảnh nào, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện niềm tự tôn dân tộc, tiếp thu có sáng
tạo tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác. Sự phát triển của thư viện Việt Nam là một
minh chứng cho khát vọng vươn đến những tầm cao tri thức nhân loại của người Việt Nam.
Thời kỳ Pháp thuộc là một giai đoạn lịch sử phức tạp của Việt Nam. Pháp là
một đế quốc phát triển có nhiều thuộc địa, có nền công nghiệp hiện đại và phát triển

ở phương Tây. Với nền đế chế thứ hai (một hình thái chuyên chế của giai cấp tư sản
Pháp), đế quốc Pháp bên trong ra sức đàn áp và bóc lột nhân dân, bên ngoài ráo riết
đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa. Việt Nam, với vị trí địa lý thuận lợi, đất đai màu mỡ,
nhân công rẻ mạt, là mục tiêu của thực dân Pháp trong việc mở rộng thuộc địa làm
giàu cho chính quốc. Thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã phân Việt
Nam thành ba kỳ với các chế độ cai trị khác nhau dẫn đến sự khác biệt về xã hội, kinh
tế và văn hóa giữa các vùng miền. Sự đô hộ của thực dân Pháp đã làm thay đổi cơ
cấu kinh tế, xã hội và văn hóa Việt Nam.
Bối cảnh lịch sử phức tạp thời kỳ Pháp thuộc đã tác động mạnh đến sự phát
triển của thư viện Việt Nam. Thư viện là cơ quan văn hóa nhằm mục đích phục vụ bộ
máy cai trị, gây ảnh hưởng văn hóa Pháp trên toàn lãnh thổ Đông Dương.
Đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu sâu sắc về kinh tế, thương mại, văn hóa, xã
hội…của Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu tổ chức hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ này, trên cơ sở xem xét
các phương diện lịch sử và văn hóa.
Với mong muốn đóng góp vào việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của thư
viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc; đánh giá những đóng góp về lý luận và thực tiễn
7

của thư viện Việt Nam thời kỳ này đối với sự phát triển của sự nghiệp thư viện và
tiến trình văn hóa Việt Nam; rút ra những bài học về tổ chức và hoạt động của thư
viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc cho sự nghiệp thư viện ngày nay, tôi lựa chọn đề
tài “Thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc,
đánh giá vai trò của thư viện Việt Nam thời kỳ này trong lịch sử sự nghiệp thư Việt
Nam nói riêng và tiến trình phát triển văn hoá dân tộc nói chung.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Xác định những nhân tố lịch sử, kinh tế, xã hội văn hóa, giáo dục tác động

lên sự hình thành và phát triển của các thư viện thời kỳ Pháp thuộc.
+ Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của mạng lưới thư viện Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc;
+ Phân tích, đánh giá thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trong lịch sử sự
nghiệp thư viện Việt Nam;
+ Đánh giá vai trò của thư viện thời kỳ Pháp thuộc trong tiến trình phát triển
văn hoá Việt Nam.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Luận án chọn đối tượng nghiên cứu là tổ chức và hoạt động của mạng lưới thư
viện Việt Nam do chính quyền thuộc địa Pháp thành lập và vận hành trong thời kỳ từ
năm 1858 đến 1945.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết một cách toàn diện vấn đề nghiên cứu, luận án sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời quán triệt quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác văn hóa và thư viện trong quá trình
nghiên cứu.
8

Bên cạnh phương pháp chung, luận án sử dụng các phương pháp cụ thể như:
lịch sử, lôgic, thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: với mong muốn góp phần lấp đầy khoảng trống về nghiên
cứu lịch sử ngành thư viện thời kỳ này, luận án hệ thống hóa và hoàn thiện cơ sở lý
luận về tổ chức và hoạt động thư viện; góp phần làm sáng tỏ ảnh hưởng của những
nhân tố lịch sử, văn hóa, xã hội tới sự vận động, phát triển của thư viện Việt Nam
thời kỳ Pháp thuộc.
- Về mặt thực tiễn: luận án làm sáng tỏ tổ chức và hoạt động của các thư viện
trong thời kỳ Pháp thuộc; làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học
tập về lĩnh vực thư viện nói riêng và những người nghiên cứu về văn hóa, giáo dục
Việt Nam nói chung.

6. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Để giải quyết các mục tiêu của luận án, tác giả sử dụng các nguồn tài liệu:
 Các tài liệu, công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, kinh tế Việt Nam
thời kỳ Pháp thuộc; các tài liệu liên quan đến tổ chức và hoạt động của
mạng lưới thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc.
 Khảo sát các thư viện, trung tâm lưu trữ được xây dựng trong giai đọan
này về tổ chức, cơ cấu vốn tài liệu, sản phẩm và dịch vụ thông tin, công
tác phục vụ bạn đọc…thông qua các tài liệu lưu giữ tại các thư viện và
trung tâm lưu trữ trong và ngoài nước.
Tài liệu sử dụng trong luận án chủ yếu được thu thập được từ những cuộc khảo
sát thực địa tại:
- Việt Nam:
 Trung tâm lưu trữ quốc gia I (thuộc Cục lưu trữ Nhà nước);
 Thư viện Quốc gia Việt Nam;
9

 Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội;
 Trường Viễn Đông bác cổ.
- Cộng hòa Pháp:
 Trung tâm lưu trữ hải ngoại tại Aix en Provence;
 Trường Viễn Đông bác cổ và Thư viện Quốc gia ở Paris;
 Phòng thương mại và công nghiệp Lyon;
 Phòng thương mại và công nghiệp Marseille.
6.1. Tài liệu liên quan đến bối cảnh lịch sử thời kỳ Pháp thuộc
Nghiên cứu bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, có khá nhiều công
trình, trong đó có 4 công trình nghiên cứu tiêu biểu như Đại cương lịch sử Việt Nam
tập II của Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ [15], Tiến trình lịch
sử Việt Nam của Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) [20], Việt Nam dưới thời Pháp đô
hộ của Nguyễn Thế Anh [1], Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám 1945 của Dương Kinh Quốc [22].

Nhìn chung các nhà sử học đều có quan điểm thống nhất trong nhận định về
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục của nước ta thời kỳ này. Các
tác giả đều nhất trí cho rằng những nguyên nhân bùng nổ cuộc chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp năm 1858 là triều đại phong kiến nhà Nguyễn đang đi vào giai
đoạn khủng hoảng và suy vong trầm trọng; cùng với sự du nhập thiên chúa giáo,
thương mại, tư tưởng và văn hóa phương Tây.
Thực dân Pháp đã chia Việt Nam thành ba kỳ nhằm thực hiện chính sách "chia
để trị". Chúng đã thiết lập ở mỗi kỳ một chế độ chính trị và thể chế khác nhau nhưng
quyền lực hoàn toàn nằm trong tay người Pháp. Sự khác biệt về chính trị giữa các kỳ
dẫn đến sự phức tạp trong xã hội nước ta. Đây chính là chiến lược trong chính sách
cai trị của thực dân Pháp mà mục đích cuối cùng là xâm lược toàn bộ xứ Đông Dương.
Các nhà sử học đều thống nhất nhận định: nền kinh tế nước ta thời kỳ Pháp
thuộc là nền kinh tế với mục đích phục vụ kinh tế của chính quốc. Bởi vậy, kinh tế
10

Việt Nam thời kỳ này què quặt, mất cân đối và phụ thuộc chịu ảnh hưởng kinh tế,
chính trị của Pháp. Các cuộc khai thác thuộc địa mà Pháp tiến hành ở những giai đoạn
và lĩnh vực khác nhau đều phục vụ việc khôi phục và phát triển nền kinh tế của chính
quốc. Việt Nam trở thành thuộc địa cung ứng cho chính quốc nguyên liệu và những
sản vật nhiệt đới.
Theo Nguyễn Thế Anh [1], Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Công Bình, Văn
Tạo [29], xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc vô cùng phức tạp. Chính sách kinh tế và
thể chế chính trị mà thực dân Pháp áp dụng ở Việt Nam dẫn đến những biến đổi xã
hội sâu sắc. Địa vị xã hội của người Việt Nam bị hạn chế. Địa vị hành chính không
công bằng giữa người Việt và người Pháp. Mọi quyền tự do nhân dân ta đều bị phế bỏ.
Sự phân hóa giai cấp diễn ra rõ nét. Giai cấp địa chủ ngày càng giàu có, câu
kết chặt chẽ với thực dân. Giai cấp nông dân ngày càng bị bần cùng hóa. Giai cấp
công nhân ra đời và phát triển mạnh mẽ. Những giai cấp mới ra đời từ một nền kinh
tế mang yếu tố tư bản như tầng lớp tiểu tư sản tăng nhanh ở các đô thị.
Các tác giả Nguyễn Thế Anh [1], Tạ Thị Thúy, Ngô Văn Hòa, Vũ Huy Phúc

[25], Trần Viết Nghĩa [16], Phan Ngọc [18], Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thành, Dương
Trung Quốc [8], Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ [15] đều
thống nhất xu hướng Âu hóa ở Việt Nam đã bắt đầu từ những năm giữa thế kỷ 17.
Một loạt các ảnh hưởng của văn hóa và tôn giáo của phương Tây đã tác động mạnh
mẽ lên văn hóa Việt Nam nói chung và hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp
thuộc nói riêng như sự du nhập của Thiên chúa giáo, sự ra đời của chữ Quốc ngữ;
chính sách văn hóa của thực dân Pháp, sự du nhập của văn hóa Pháp, sự ra đời của
báo chí, sự đổi mới của giáo dục và sự hình thành tầng lớp trí thức Tây học.
Mặc dù bị áp đặt những chính sách văn hóa đồng hóa và ru ngủ nhằm mục
đích cai trị về văn hóa, nhưng với tư tưởng tiến bộ và truyền thống văn hóa lâu đời,
nhân dân ta đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn minh phương Tây. Sự du
nhập báo chí, ấn phẩm nước ngoài, đặc biệt là tiểu thuyết, truyện ngắn cổ điển (một
hình thức văn học mới), làm thay đổi tư duy, lối sống và đời sống văn hóa của người
11

Việt Nam. Đây cũng là cơ sở làm giàu cho vốn tài liệu của các thư viện được thành
lập trong thời kỳ này.
Giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc có nhiều đổi thay lớn góp phần làm biến
đổi xã hội, văn hóa trong đó có thư viện. Nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục
của Việt Nam thời kỳ này, trong đó tiêu biểu là: Giáo dục Pháp Việt ở Bắc Kỳ của
Trần Thị Phương Hoa [8], Lịch sử Việt Nam, tập III 1919-1930 của Tạ Thị Thúy, Ngô
Văn Hòa, Vũ Huy Phúc [28], Giáo dục Việt Nam thời Cận đại của Phan Trọng Báu
[4], Trí thức Việt Nam đối diện với văn minh phương Tây của Trần Viết Nghĩa [19].
Các tác giả đều thống nhất nhận định: giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc chịu cả ảnh
hưởng tiêu cực và tích cực từ những cải cách giáo dục của thực dân Pháp.
Chính sách giáo dục thuộc địa, áp đặt một nền giáo dục phương Tây đã tạo ra
những ảnh hưởng tiêu cực. Chương trình giáo dục mang tính chất nhồi sọ, nô dịch và
ngu dân nhằm phục vụ mục đích cai trị. Cải cách giáo dục chủ yếu tập trung vào bậc
tiểu học với mục đích xóa nạn mù chữ, biết đọc, biết viết. Không phát triển rộng rãi
giáo dục ở bậc cao.

Tuy nhiên những cải cách giáo dục thời kỳ này cũng tạo những hiệu ứng tích
cực. Dù không được ưu tiên phát triển, nhưng những chương trình giáo dục bậc cao
đã chuyển từ phương pháp dạy và học thụ động sang phương pháp chủ động. Cách
học này đã làm thay đổi tư duy và lối sống của học sinh, sinh viên Việt Nam.
Nhìn chung, có thể thấy bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, giáo dục Việt
Nam thời kỳ này cũng có những ảnh hưởng tích cực, chuyển biến căn bản về phương
pháp giáo dục trên cơ sở tiếp thu nền giáo dục hiện đại phương Tây; tạo ra một lớp
trí thức mới tiến bộ; thúc đẩy quá trình tiếp biến và giao lưu văn hóa Đông - Tây.
6.2. Tài liệu về thư viện thời kỳ Pháp thuộc
Ở thời kỳ giao lưu hai nền văn hóa Đông - Tây, tình hình kinh tế, văn hóa, xã
hội Việt Nam có những biến động lớn, thư viện Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng và
có những thay đổi căn bản. Nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của mạng lưới
12

thư viện thời kỳ này có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả người
Việt và người Pháp.
Một số công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt như "Lịch sử sự nghiệp thư viện
Việt Nam trong tiến trình văn hóa dân tộc" của Dương Bích Hồng; luận án tiến sĩ của
Bùi Loan Thùy "Sự nghiệp thư viện và thư viện học Việt Nam lịch sử, hiện trạng và
triển vọng"; "Thư viện Quốc gia Việt Nam – 85 năm xây dựng và trưởng thành" do
Nguyễn Hữu Viêm, Lê Văn Viết chủ biên, và một số bài báo nghiên cứu về thư viện
thời Pháp thuộc như "Lịch sử thư viện và thư tịch Việt Nam" của Nguyễn Hùng Cường
[5], "Tìm hiểu lịch sử thư viện Việt Nam thời thuộc Pháp của Nguyễn Ngọc Mô"
[16], "Vài con số về các thư viện ở Đông Dương" của Phạm Mạnh Phan [23].
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu của các tác giả người Pháp như:
Những lưu trữ và thư viện ở Đông Dương (Les archives et les bibliothèque de
l’Indochine) của Paul Boudet đăng trong Tạp chí Đông Dương (Revue Indochinoise)
năm 1919 [45], Đông Dương trong quá khứ (L'Indochine dans le passé) do Hội người
bạn của Hà Nội cổ kết hợp với Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương xuất bản [48],
Các thư viện Đông Dương thuộc Pháp (Les bibliothèques de l’Indochine française)

của Rageau đăng trong Lịch sử các thư viện Pháp (Histoire des bibliothèques
françaises) [52]. Các công trình này chủ yếu giới thiệu tình hình hoạt động của thư
viện Việt Nam trước năm 1917; kế hoạch thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương, mạng lưới thư viện ở Đông Dương; mô tả một số hoạt động cụ thể của Nha
Lưu trữ và Thư viện Đông Dương như tổ chức triển lãm tư liệu về lịch sử, văn hóa
Đông Dương và châu Á.
Ngoài ra, một số công trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án
như "Thư viện Khoa học xã hội" của Hồ Sĩ Quí và Vương Toàn [24]; "Tìm hiểu lịch
sử ngành thư viện - lưu trữ hồ sơ Việt Nam của Nguyễn Ngọc Mô [16]. Những công
trình này giới thiệu lịch sử hình thành ngành thư viện và lưu trữ Việt Nam, những
yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của thư viện và lưu trữ thời Pháp thuộc; Thư viện
Trường Viễn Đông bác cổ (nay là Thư viện Viện Khoa học xã hội); những thay đổi
trong hoạt động của thư viện Việt Nam.
13

Luận án tiến sĩ của Đào Thị Diến "Lưu trữ thuộc địa ở Việt Nam (1858-1954)
" [46]; "Lịch sử Lưu trữ Việt Nam" của các tác giả Nguyễn Văn Thâm, Vương Đình
Quyền, Đào Thị Diến, Nghiêm Kỳ Hồng [26]; các bài báo của Vũ Thị Minh Hương
"Paul Boudet người sáng lập và những đóng góp cho lưu trữ Đông Dương" trên Tạp
chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam [12], "Paul Boudet người sáng lập cơ quan lưu trữ và
thư viện Đông Dương" trên Tạp chí Xưa và Nay [13]. Các công trình này tập trung
giới thiệu sự ra đời của lưu trữ và thư viện ở Đông Dương; trình bày tổng quát về hệ
thống tổ chức lưu trữ của triều đình nhà Nguyễn, về quá trình hình thành và phương
pháp sắp xếp tài liệu lưu trữ cũng như các biện pháp bảo quản tài liệu, hệ thống kho
tàng của triều đình; quá trình hình thành và phát triển của hoạt động lưu trữ Việt Nam
thời kỳ thuộc địa; những nỗ lực của người Pháp trong việc áp dụng mô hình tổ chức
và phương pháp sắp xếp tài liệu của Pháp vào cơ quan lưu trữ của triều đình; khẳng
định hệ thống lưu trữ Việt Nam tồn tại song song với hệ thống lưu trữ của chính
quyền thuộc địa; giới thiệu lịch sử lưu trữ của chính quyền thuộc địa từ năm 1917
đến năm 1945.

Trong các công trình nêu trên, các tác giả đều đánh giá thư viện Việt Nam
Thời kỳ Pháp thuộc có những bước phát triển mới về tổ chức và hoạt động so với thư
viện Việt Nam thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, có thể do thiếu nguồn sử liệu, những
đánh giá của các tác giả về hoạt động thư viện thời kỳ này chưa đầy đủ, mô tả các
khâu xử lý nghiệp vụ cũng như hoạt động thư mục còn rất khái quát, công tác đào tạo
và chính sách sử dụng nguồn nhân lực thư viện người Việt Nam cũng dừng lại ở mức
độ giới thiệu sơ lược.
Thư viện và lưu trữ do một cơ quan quản lý là Nha Lưu trữ và Thư viện Đông
Dương. Chính vì vậy, khối tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động của Nha Lưu
trữ và Thư viện Đông Dương là nguồn thông tin quan trọng phục vụ cho nghiên cứu
về thư viện thời kỳ Pháp thuộc. Các tài liệu hiện đang được bảo quản ở các Trung
tâm Lưu trữ quốc gia tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam) và Aix-en-
Provence (Pháp). Đây là những tài liệu có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của thư viện Việt Nam thời kỳ này.
14

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu những tài liệu về thư viện của Pháp thời kỳ này
giúp phân tích, đánh giá hoạt động của thư viện Pháp đương thời, mức độ ảnh hưởng
của thư viện Pháp tới sự nghiệp thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc. Liên quan đến
vấn đề này có 3 công trình bằng tiếng Pháp của các nhà thư viện học Pháp xuất bản
những năm giữa thế kỷ 19: “Sự hình thành và phát triển của thư viện công cộng
Pháp” của Lelièvre (Chánh Thanh tra thư viện Pháp) [51], Tổng tập các văn bản luật
(sắc lệnh, dụ, nghị định, thông tư,…) về các thư viện công cộng (huyện, đại học,
trường học và đại chúng xuất bản năm 1883 của Robert [53].
Qua nghiên cứu trên có thể thấy Pháp là một trong những nước có hệ thống
thư viện hình thành và phát triển sớm ở châu Âu. Các thư viện của Pháp thời cận đại
chủ yếu được hình thành từ các bộ sưu tập của tư nhân, các tu viện, các học giả, các
nhà quí tộc và vua chúa. Mạng lưới thư viện của Pháp hoạt động thống nhất theo
nguyên tắc chung về hoạt động tổ chức cũng như qui định về nghiệp vụ trên tinh thần
phục vụ rộng rãi công chúng tự học và nghiên cứu, đặc biệt là các nhà khoa học, tầng

lớp trí thức. Thời kỳ này, Pháp đã quan tâm đến phục vụ nhân dân ở vùng sâu vùng
xa hẻo lánh bằng hình thức thư viện lưu động.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, sự ra đời và phát
triển của thư viện Việt Nam thời Pháp thuộc đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, luận giải
rõ ràng, thuyết phục và tương đối thống nhất, làm cơ sở cho việc nhận định đánh giá
hoạt động thư viện thời kỳ này.
Tuy nhiên, có thể do thiếu tư liệu nên các công trình nghiên cứu về thư viện
Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc chưa phân tích, đánh giá được những điểm mạnh, yếu
của hoạt động của thư viện thời kỳ này. Đặc biệt, chưa có công trình nghiên cứu nào
làm rõ ảnh hưởng của thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc tới tiến trình phát triển
thư viện trong lịch sử nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, cũng như những bài
học rút ra từ tổ chức và hoạt động của thư viện thời kỳ này đối với sự phát triển sự
nghiệp thư viện Việt Nam ngày nay.
15

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về thư viện và bối cảnh lịch sử Việt Nam thời
kỳ Pháp thuộc
Chương 2. Thực trạng thư viện Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc
Chương 3. Ảnh hưởng của thư viện thời Pháp thuộc trong sự nghiệp thư viện
và văn hóa Việt Nam.

















16

1. CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯ VIỆN VÀ
BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA THƯ VIỆN VIỆT NAM
THỜI KỲ PHÁP THUỘC
1.1. Những vấn đề chung về thư viện
1.1.1. Định nghĩa thư viện

Thư viện là một hiện tượng xã hội xuất hiện và phát triển nhằm đáp ứng nhu
cầu tinh thần quan trọng của con người trong xã hội: nhu cầu đọc.
Cho đến nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thư viện. Một số định
nghĩa thiên về mô tả thuộc tính bản chất của thư viện: Thư viện là một tổng thể bao
gồm bộ sưu tập tài liệu đáp ứng nhu cầu đọc của xã hội với những điều kiện về tổ
chức và nhân sự. Từ điển giải nghĩa thư viện học và tin học ALA định nghĩa thư viện là
“Một sưu tập những tài liệu đã được tổ chức để đáp ứng nhu cầu một nhóm người mà
thư viện có bổn phận phục vụ, để cho họ có thể sử dụng cơ sở của thư viện, truy dụng
thư tịch, cũng như trau dồi kiến thức của họ. Thư viện có một ban nhân viên được
huấn luyện chuyên môn để cung ứng dịch vụ, chương trình liên quan đến sự truy tìm
thông tin của độc giả” [2, tr.118].
Một số định nghĩa khác tập trung vào thuộc tính thu thập tàng trữ tài liệu để

phục vụ nhu cầu của bạn đọc: thư viện là “cơ quan (hoặc một bộ phận của cơ quan)
thực hiện chức năng thu thập, xử lý, bảo quản tài liệu và phục vụ bạn đọc, đồng thời
tiến hành tuyên truyền giới thiệu các tài liệu đó” [30].
Tổ chức Giáo dục khoa học văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã định nghĩa
“Thư viện, không phụ thuộc vào tên gọi của nó, là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào
của sách, ấn phẩm định kỳ, hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ họa, nghe nhìn và nhân
viên phục vụ có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó nhằm mục
đích thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục và giải trí”.
17

Điều 1, chương 1 của Pháp lệnh Thư viện (2000) nhấn mạnh “Thư viện có
chức năng, nhiệm vụ giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức
việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức,
cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục
vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [34, tr.7].
Như vậy có thể thấy, dù được diễn đạt theo những cách khác nhau, về thực
chất thư viện được coi là nơi tàng trữ và sử dụng tài liệu đáp ứng nhu cầu đọc của
cộng đồng.
Có thể phân chia thư viện thành các loại hình khác nhau dựa trên dấu hiệu tính
chất của thư viện: bạn đọc và vốn tài liệu, những yếu tố bản chất của hoạt động thư
viện. Hiện nay ở Việt Nam, thư viện được phân chia thành hai loại hình: thư viện
công cộng và thư viện chuyên ngành (Pháp lệnh Thư viện).
Thư viện công cộng, theo từ điển ALA, là “Một thư viện cung cấp các dịch vụ
tổng quát quát mà không đòi hỏi một sở phí nào của độc giả, của quận hạt hay vùng
mà thư viện phục vụ. Thư viện được ngân sách công hay tư tài trợ, và sưu tập căn bản
của thư viện cũng như dịch vụ thư viện được cung ứng cho tất cả dân sống trong vùng
mà độc giả không phải trả lệ phí, tuy nhiên nếu độc giả thuộc dân cư của một vùng
khác sẽ phải nộp một lệ phí nào đó. Các sản phẩm và dịch vụ thư viện cung ứng ngoài
quản hạt của thư viện có thể hoặc không có thể được thư viện cung cấp miễn phí” [2,

tr.167].
Thư viện thư viện phổ thông (thư viện đại chúng) là “Một sưu tập thư viện có
những tài liệu hấp dẫn và được công chúng ưa thích” [2]
Thư viên trung ương là “Một thư viện đơn độc hay thư viện đóng vai trò trung
tâm hành chính cho một hệ thống thư viện” [2].
Thư viện chuyên ngành là thư viện có bộ sưu tập sâu rộng về một bộ môn (thư
viện kỹ thuật), hay nhiều sưu tập sâu rộng về nhiều bộ môn (thư viện đại học, thư
viện tư nhân lớn) [2, tr.177].
18

Thư viện đại học là “ Một thư viện, được thành lập như một bộ phận của trường
cao đẳng, một viện đại học, hay một học viện hậu-trung-học khác, được tổ chức và
điều hành để thỏa mãn các nhu cầu về thông tin của sinh viên, giáo chức và nhân viên
của trường” [2, tr.1].
Trong mỗi vùng, mỗi quốc gia có nhiều thư viện phục vụ cho các nhóm đối
tượng bạn đọc khác nhau. Các thư viện trong một vùng, một lãnh thổ quốc gia thường
được tổ chức lại, liên kết với nhau tạo thành một mạng lưới, theo một cách thức nhất
định, tùy thuộc điều kiện xã hội, chính trị nhằm phục vụ cộng đồng. Tổ chức và hoạt
động của các thư viện trong một vùng, một lãnh thổ quốc gia trong một giai đoạn nhất
định được gọi là sự nghiệp thư viện của vùng, quốc gia đó.
Mạng lưới thư viện là sự liên kết các cơ quan thư viện – thông tin độc lập với
nhau thành một mạng lưới ở những mức độ khác nhau (tập trung hóa toàn bộ, tập
trung hóa từng phần). Mô hình tổ chức mạng lưới thư viện – thông tin được dựa trên
các nguyên tắc : nguyên tắc lãnh thổ và nguyên tắc ngành dọc [2].
Từ những nguyên tắc này dẫn tới việc hình thành hệ thống thư viện – thông
tin khác nhau ở trung tâm như mạng lưới thư viện công cộng Nhà nước, mạng lưới
thư viện trường phổ thông [2].
Theo ALA từ điển, hệ thống thư viện và mạng lưới thư viện (library system)
được hiểu như nhau là “Một nhóm thư viện độc lập hay tự trị, kết hợp với nhau bằng
những thỏa thuận chính thức hay không chính thức để đạt được mục đích đặc biệt,

chẳng hạn như hệ thống kết hợp theo lối hợp tác xã, hay hệ thống kết hợp theo lối
liên hợp”. Từ điển này cũng định nghĩa hệ thống và mạng lưới thư viện theo một cách
khác: “Một nhóm thư viện được quản trị chung, chẳng hạn như hệ thống thư viện
hợp nhất hay một thư viện trung ương và những chi nhánh của nó” [2].
Trên cơ sở những định nghĩa trên, chúng tôi tiếp thu, kế thừa và nghiên cứu
theo quan niệm sau: mạng lưới thư viện là sự liên kết các thư viện theo nguyên tắc và
mức độ nhất định. Những hệ thống thư viện được tạo thành trên nguyên tắc hình thành
19

của mạng lưới thư viện. Hệ thống thư viện bao gồm các thư viện có hình thức tổ chức
và hoạt động tương đồng, cùng phục vụ một hay nhiều đối tượng giống nhau.
Cấu trúc mạng lưới thư viện
Từ những định nghĩa về mạng lưới và hệ thống thư viện, có thể hiểu cấu
trúc mạng lưới thư viện được hình thành trên cơ sở các mức độ và nguyên tắc tổ
chức mạng lưới thư viện. Mô hình tổ chức mạng lưới thư viện theo nguyên tắc
lãnh thổ liên kết các thư viện trên cùng địa bàn: thành phố, tỉnh, vùng; mô hình
tổ chức mạng lưới thư viện theo nguyên tắc ngành dọc liên kết các thư viện trong
cùng bộ, ngành.
Bên cạnh những định nghĩa có tính khái quát, hoạt động thư viện được cụ thể
bằng các định nghĩa về qui trình kỹ thuật thư viện, chu trình thư viện, quá trình thư
viện, thao tác kỹ thuật nghiệp vụ thư viện. Đây là những lý luận cơ bản về tổ chức
lao động trong thư viện.
Qui trình kỹ thuật thư viện – thông tin là toàn bộ công việc thuộc kỹ thuật
nghiệp vụ trong thư viện – thông tin, chiếm đại đa số thời gian, công sức của cán
bộ thư viện. Quy trình này gồm ba chu trình chính của cơ quan thư viện – thông tin:
chu trình đường đi của sách, chu trình thực hiện yêu cầu bạn đọc, chu trình tra cứu.
[2, tr.43].
Chu trình thư viện là một chu trình bao gồm nhiều quá trình có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, có cùng chung mục đích, một nhiệm vụ, được tiến hành lặp đi lặp
lại nhiều lần với mỗi đối tượng mới. Ví dụ: chu trình đường đi chủa sách, chu trình

thực hiện yêu cầu của bạn đọc, chu trình tra cứu.[2, tr.43].
Quá trình thư viện là một phần của chu trình thư viện, mỗi quá trình thực
hiện một công đoạn nhất định nào đó của chu trình. Ví dụ: phòng Phân loại thực
hiện nhiệm vụ phân loại tài liệu, một quá trình nằm trong chu trình đường đi của
sách [2, tr.44].
20

Thao tác kỹ thuật nghiệp vụ thư viện là một phần của quá trình thư viện, thực
hiện công việc cụ thể nào đó trong quá trình. Ví dụ: quá trình phân loại được thực hiện
bằng các thao tác: đọc lời nói đầu, lời giới thiệu, mục lục, khung phân loại… [2, tr.44].
1.1.2. Cấu trúc thư viện
Theo quan điểm hệ thống, có thể coi thư viện là một chỉnh thể cấu thành bởi
bốn yếu tố cơ bản có quan hệ mật thiết với nhau: vốn tài liệu, người dùng tin, nhân
lực thư viện và cơ sở vật chất.
Vốn tài liệu là bộ sưu tập tài liệu được tổ chức theo một quy tắc nhất định, đảm
bảo khả năng truy cập thông tin nhanh chóng, hiệu quả. Vốn tài liệu là bộ phận quan
trọng của thư viện, là tài sản và tiềm lực thông tin của mỗi thư viện. Đồng thời vốn
tài liệu của thư viện cũng là tài sản quý của mỗi quốc gia. Sự phong phú đa dạng và
có giá trị thông tin cao của vốn tài liệu quyết định chất lượng công tác phục vụ người đọc.
Người dùng tin là người có nhu cầu sử dụng tài liệu thư viện. Người dùng tin
sử dụng tài liệu trong thư viện để khai thác thông tin nhằm thoả mãn nhu cầu đọc.
Mục đích cuối cùng của hoạt động thư viện là thoả mãn tối đa nhu cầu đọc người
dùng tin. Vì vậy, người dùng tin và nhu cầu đọc là yếu tố quan trọng, có tính chất
định hướng cho hoạt động thư viện.
Cơ sở vật chất thư viện bao gồm trụ sở, các trang thiết bị phục vụ cho việc xử
lý, lưu trữ và phục vụ tài liệu cho người đọc. Cơ sở vật chất có vai trò quan trọng
trong việc gìn giữ và bảo quản vốn tài liệu thư viện cả về vật chất (hình thức) và thông
tin (giá trị nội dung tài liệu).
Nhân lực thư viện là người trực tiếp tham gia các công đoạn trong hoạt động
thư viện từ lựa chọn, xây dựng vốn tài liệu đến xử lý kỹ thuật, tổ chức bộ máy tra

cứu, phục vụ bạn đọc. Nhân lực thư viện đóng vai trò chủ thể hoạt động thư viện
“là linh hồn của sự nghiệp thư viện” (Crupxcaia). Năng lực tri thức và kỹ năng nghề
nghiệp của nhân lực thư viện quyết định chất lượng xử lý kỹ thuật nghiệp vụ thư
viện, đảm bảo tài liệu được lưu trữ một cách khoa học, khả năng truy cập thông tin
nhanh chóng.
21

Bốn yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể thống
nhất để thư viện có thể vận hành hiệu quả.
1.1.3. Vai trò của thư viện
Trong xã hội, thư viện thường có bốn vai trò cơ bản: văn hóa, giáo dục, thông
tin và giải trí.
Cơ quan văn hoá giáo dục
Thư viện ra đời và tồn tại nhằm thoả mãn nhu cầu bảo tồn và phổ biến các giá
trị văn hoá của nhân loại được thể hiện dưới dạng tài liệu. Tài liệu được coi là một
dạng di sản văn hóa. Khi các thư viện thu thập, bảo quản tài liệu cũng có nghĩa thư
viện đã bảo quản di sản văn hóa của quốc gia và nhân loại.
Vai trò của thư viện thể hiện ở việc luân chuyển tài liệu và thông tin tới bạn
đọc. Vì vậy có thể coi thư viện là một thiết chế văn hóa, nơi lưu giữ và phổ biến các
giá trị văn hóa của xã hội, nơi tập trung tài sản tinh thần của mỗi quốc gia.
Kênh thông tin quan trọng của xã hội
Thư viện là kênh thông tin đầy đủ, có giá trị vượt thời gian và không gian đến
với các thế hệ người dùng tin. Thư viện là nơi lưu giữ và phổ biến thông tin ít bị nhiễu
nhất trong số các kênh thông tin được sử dụng trong xã hội. Trong xã hội hiện đại,
thông tin khoa học ngày càng gia tăng, chất lượng hoạt động của thư viện góp phần
thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển, tăng năng xuất lao động.
Cơ quan giáo dục ngoài nhà trường
Bên cạnh cơ sở đào tạo truyền thống là nhà trường, thư viện trở thành nơi mọi
người có thể tự học, tự nghiên cứu nâng cao trình độ thông qua sử dụng tài liệu. Đây
là nơi người học được nuôi dưỡng đạo đức, thẩm mỹ và tâm hồn.

Nơi đáp ứng nhu cầu giải trí, đời sống tinh thần của nhân dân
Bên cạnh những tài liệu phục vụ việc học tập, nghiên cứu khoa học và cung
cấp thông tin, thư viện còn có những tài liệu phục vụ nhu cầu giải trí và đời sống tinh
thần như các tác phẩm văn học nghệ thuật ở các dạng khác nhau.
22

Thư viện, khi thực hiện đầy đủ các chức năng của mình, đóng vai trò to lớn
trong sự phát triển xã hội. Tuy không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng thư
viện có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng.
1.1.4. Tổ chức và hoạt động thư viện
Tổ chức và hoạt động của thư viện là hai mặt thống nhất của sự nghiệp thư
viện. Bởi vậy, để tìm hiểu, đánh giá sự nghiệp thư viện, cần phải xem xét cả khía
cạnh tổ chức và hoạt động thư viện trong mối quan hệ tương tác với nhau như một
thiết chế xã hội hoàn chỉnh.
1.1.4.1. Tổ chức thư viện
- Tổ chức
Tổ chức là một vấn đề phức tạp, vì vậy mỗi khoa học khi tiếp cận về tổ chức
có cách hiểu khác nhau. Tiếp cận tổ chức dưới góc độ xã hội, Từ điển Bách khoa Việt
Nam (2005) định nghĩa “Tổ chức là hình thức tập hợp, liên kết các thành viên trong
xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của các thành viên, cùng nhau
hành động vì mục tiêu chung…” [32, tr.455].
Tiếp cận tổ chức ở mức độ khái quát hơn, Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ xuất bản năm 2010 coi tổ chức là "làm cho thành một chỉnh thể, có một cấu tạo,
một cấu trúc và những chức năng chung nhất định" [33, tr.1288].
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, tổ chức là liên kết các bộ phận thành
một chỉnh thể, có cấu trúc và chức năng chung nhất định. Để liên kết các bộ phận
thành một chỉnh thể, tổ chức phải xác định được mục tiêu, cơ cấu và được duy trì,
bảo đảm bằng các điều kiện nhân sự, cơ sở vật chất.
Mục tiêu của tổ chức là kết quả mà nhà quản trị muốn đạt được cho tổ chức
trong tương lai. Mục tiêu là yếu tố quyết định nền tảng của tổ chức, quyết định việc

tuyển chọn, sử dụng nhân lực một cách chính xác, hiệu quả. Mục tiêu xác định sự tồn
tại của mọi tổ chức [6].
23

Cơ cấu tổ chức là một chỉnh thể gồm các bộ phận có chức năng, quyền hạn,
trách nhiệm khác nhau, có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được bố trí thành từng
cấp, thực hiện các chức năng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã định. Mỗi cơ cấu tổ chức
quản lý có hai mối quan hệ cơ bản theo hệ ngang và hệ dọc. Theo quan hệ ngang, cơ
cấu tổ chức quản lý chia thành các chức năng quản lý khác nhau. Theo quan hệ dọc,
cơ cấu tổ chức quản lý được chia thành các cấp quản lý: cấp Trung ương, cấp địa
phương, cấp cơ sở. Cấp quản lý chỉ rõ mối quan hệ phục tùng trong quan hệ thứ bậc
của hệ thống quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý càng được hoàn thiện thì càng có tác
động tích cực tới quá trình hoạt động của tổ chức. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức quản
lý còn chịu tác động của cơ chế quản lý kinh tế, thể chế chính sách, những yếu tố
mang tính truyền thống, bản sắc văn hóa [6].
- Tổ chức thư viện
Theo quan điểm trên có thể coi tổ chức thư viện là liên kết các bộ phận của
thư viện hoặc các thư viện thành một chỉnh thể, có cấu trúc và chức năng nhất định.
Khi xem xét tổ chức thư viện, cần phải làm rõ mục tiêu, cơ cấu tổ chức và các yếu tố
đảm bảo cho tổ chức được duy trì như nhân lực và cơ sở vật chất.
Như vậy, có thể xem xét tổ chức thư viện ở hai cấp độ:
Ở cấp độ vĩ mô, tổ chức thư viện là tổ chức mạng lưới thư viện trong một vùng,
lãnh thổ quốc gia nhằm tận dụng mọi tiềm năng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin
của mọi đối tượng bạn đọc trong không gian địa lí nhất định.
Ở cấp độ vi mô tổ chức thư viện là tổ chức một cơ quan thư viện. Mỗi cơ quan
thư viện được tổ chức thành những bộ phận chuyên môn, liên kết và tương tác với
nhau theo một cơ chế nhất định.
Mục tiêu của thư viện thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - văn hóa của từng
thời kỳ lịch sử cũng như tính chất của chế độ chính trị - xã hội. Mục tiêu của thư viện
quyết định cơ cấu của tổ chức thư viện. Cơ sở vật chất và nhân lực thư viện là yếu tố

then chốt để thực hiện được mục tiêu của tổ chức thư viện. Các yếu tố trên phải được
xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

×