Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn phương pháp giảng dạy thể dục thể thao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150 KB, 16 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TDTT
A- PHẦN MỞ ĐẦU:
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Năm học 2006 - 2007 tôi được phân công công tác giảng dạy thể dục bộ
môn thể dục tại trường THPT số 1 Than Uyên. Việc rèn luyện giảng dạy bộ môn
thể dục được cả xã hội quan tâm và đầu tư rất nhiều. Mang tính chất giáo dục rất
cao và phát triển toàn diện các tố chất thể lực là hết sức quan trọng đấy chính là
một trong những phương tiện giáo dục thế hệ trẻ trong nhà trường các cấp theo
thống kê của một chương trình trưng cầu dân ý vê bộ môn thể dục cấp THPT tại
một số các thành phố lớn dành cho cha mẹ học sinh thì cho thấy rằng môn thể
dục được đứng hàng đầu, về tầm quan trọng và thiết thực trong các môn học hiện
hành. Trong khi đó việc giảng dạy cũng như sự quan tâm của các bậc phụ huynh
đối với việc GDTC là những môn phụ không được coi trọng.
Là giáo viên giảng dạy chuyên về TDTT, qua thời gian giảng dạy tôi thấy
học sinh chưa nhận thức được việc rèn luyện TDTT và các tố chất thể lực cũng
như sự tiếp thu nắm bắt các yếu lĩnh cơ bản của môn thể dục mặc dù còn rất
chậm mặc dù thể lực của học sinh cả nước nói chung là rất tốt, trong đó chỉ là
một yếu tố nhỏ trong việc học tập và rèn luyện TDTT. Học sinh ở đây đã có thể
lực rất tốt xong chúng chưa nhận thức được việc rèn luyện cụ thể như thế nào,
học sinh ở đây chưa được làm quen với những thuật ngữ và phương pháp luyện
tập nên việc giảng dạy cũng gặp không ít khó khăn. Do đó ngoài việc truyền thụ
đầy đủ nội dung và kiến thức cũng như các phương pháp giảng dạy trong sách
giáo viên để giảng dạy cho học sinh, tôi cũng đi sâu vào việc rèn luyện học sinh
bằng các phương pháp thường dùng trong việc giảng dạy TDTT. Vì GDTC là
một quá trình giáo dục mà đặc trưng của nó thể hiện ở việc giảng dạy các động
tác và giáo dục ( điều kiện sự phát triển) các tố chất thể lực cuả con người.
II- PHẠM VI ĐỀ TÀI:
Sáng kiến này được tôi nghiên cứu tại trường THPH số 1 Than Uyên tôi
luôn cố gắng cho học sinh hiểu và biết việc rèn luyện TDTT là rất quan trọng đặc
biệt là đối với lứa tuổi như các em học sinh THPT. Tôi cũng đã tham khảo một


số tài liệu về việc giảng dạy TDTT để đưa ra một số phương pháp giảng dạy cụ
thể cho học sinh.
B- THỰC TRẠNG CHUNG:
I. VỊ TRÍ MÔN HỌC, ĐỐI VỚI BỘ MÔN:
Chương trình thể dục được bộ đưa ra nhằm bước đầu giúp học sinh ý thức
được việc rèn luyện thể dục thể thao có ảnh hưởng như thế nào đối với bậc
THPT, cũng như tất cả học sinh về biên soạn và phân bổ thời gian để học sinh
luyện tập rèn luyện các tư thế cơ bản cũng như các bài tập thể dục rèn luyện
chung, nhằm một mục đích chung đó là khích lệ tinh thần học tập, tinh thần đoàn
kết, hoạt động tập thể và nâng cao tính tích cực, tự giác và kỷ luật cho học sinh
vấn đề này cần phải đòi hỏi học sinh phải nỗ lực rất nhiều và phụ thuộc rất nhiều
vào phương pháp giảng dạy cho học sinh như thề nào cho phù hợp với từng đối
tượng, từng khu vực nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Trong các phương pháp giáo dục thể dục thể thao thì sử dụng rộng rãi
nhiều phương pháp. Trong đó làm mẫu kết hợp với phân tích là phương pháp
giảng dạy đặc thù chủa bộ môn thể dục. Nhiều kỹ thuật động tác đòi hỏi giáo viên
phải làm mẫu chuẩn, làm mẫu nhiều lần xen kẽ với quá trình giảng dạy kỹ thuật
cho học sinh luyện tập đố còn phải kết hợp với phương pháp trò chơi
II. KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn của ban chấp hành và tổ chuyên
môn.
- Giáo viên nhiệt tình yêu nghề, yên tâm công tác, có ý thức học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp.
2. Khó khăn:
- Có cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn thiếu thốn, dụng cụ thể thao còn
chưa đảm bảo về chất lượng.
- Sân bãi tập luyện không thuận lợi, không có sân tập riêng, không có cây
xanh nên việc tập luyện trên sân trường gặp nhiều khó khăn.
2

C- QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU VÀ VẬN DỤNG
Để tiến hành nghiên cứu và vận dụng các phương pháp giảng dạy trước
tiên ta phải hiểu khái niệm chung về thể dục thể thao.
I. KHÁI NIỆM CHUNG:
GDTC là một quá trình sư phạm, do đó có các phương pháp dạy TDTT về
bản chất cũng chính là các phương pháp sư phạm nhưng mang những đặc điểm
của GDTC.
Trong quá trình giảng dạy TDTT, giáo viên thường sử dụng các phương
pháp giảng dạy khác nhau. Các phương pháp này được dựa trên cơ sở của các
nguyên tắc về phương pháp giảng dạy nói riêng và các phương pháp sư phạm và
giáo dục nói chung.
Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp giảng dạy chung như: Phương
pháp sử dụng lời nói, trực quan trong giảng dạy TDTT còn áp dụng các phương
pháp mang tính đặc thù riêng.
Do tính chất riêng của phương pháp giảng dạy TDTT khi lựa chọn phương
pháp giáo viên cần dựa trên hệ thống các bài tập, kỹ thuật, chiến thuật, yêu cầu
thể lực và tình trạng thi đấu thể thao của học sinh. Khi thực hiện các bài tập kỹ
thuật hoặc giảng dạy các động tác thể dục thể thao, giáo viên có thể sử dụng các
phương pháp riêng lẻ hoặc tổng hợp các phương pháp.
Ví dụ:
- Dùng lời nói để giải thích, hướng dẫn kỹ thuật động tác, có thể phối hợp
việc giải thích với làm mẫu trực tiếp kỹ thuật hoặc gián tiếp giới thiệu kỹ thuật
qua tranh ảnh, phim, hình vẽ kỹ thuật
Thục tế trong hoạt động TDTT cho thấy, muốn đạt được tới trình độ vận
động cao, cần phải áp dụng hệ thống các phương pháp tập luyện khác nhau. Yếu
tố chính để tạo thành các phương pháp khác nhau là lượng vận động và nghỉ hơi
khác nhau. Khái niệm lượng vận động là một độ lớn nhất định những tác động
3
của các động tác đối với cơ thể người tập, lượng vận động có liên quan trực tiếp
đến việc tiêu hao năng lượng cơ thể, tác động này dẫn đến xuất hiện mệt mỏi.

Mặt khác, trong quá trình vận động thì tiêu hao và mệt mỏi là hai nhân tố kích
thích đến quá trình hồi phục của cơ thể.
II. MỘT SỐ YÊU CẦU KHI VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP:
Hệ thống các phương pháp trong giáo dục TĐTT nói chung rất đa dạng và
phong phú. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục và thực trạng nhà trường phổ thông
các cấp trình độ vận động của học sinh, trong quá trình giảng dạy TDTT, giáo
viên có thể sử dụng một số phương pháp, nhưng cần chú ý những yêu cầu cơ bản
sau:
- Khi tiến hành lựa chọn phương pháp giảng dạy TDTT cần bảo đảm tính
vừa sức , phù hợp với trình độ vận động của học sinh, các điều kiện cơ sở vật
chất, dụng cụ tập luyện hiện có và các yếu tố bảo đảm khác như: thời tiết, khí
hậu, thiết bị bảo hiểm, hỗ trợ của các phương tiện y tế
- Cần phối hợp giữa các phương pháp giảng dạy: Lời nói trực quan làm
mẫu, phương pháp tập luyện vân động của học sinh. Song cần chú ý tránh gây
tình trạng căng thẳng, tiêu phí thời gian để giải thích phương pháp, cách thức tập
luyện, gây cho học sinh ức chế, xuất hiện mệt mỏi và kém tự tin.
- Khi áp dụng các phương pháp cần chú ý đến những ảnh hưởng tốt và mối
quan hệ hợp lý của các phương pháp giáo dục. Các phương pháp được sử dụng
phải có tác động giáo dục toàn diện: về kỹ thuật, thể lực, và phẩm chất đạo đức
cho học sinh. Cần có sự liên hệ chặt chẽ với các giáo viên bộ môn khác, để phối
hợp bồi dưỡng vốn tri thức, những hiểu biết có liên quan đén hoạt động giảng dạy
TDTT. Khi sử dụng các phương pháp giảng dạy TDTT cần có sự phối hợp và sử
dụng hiệu quả các phương pháp sư phạm khác để góp phần nâng cao hiệu quả
giáo dục chung.
Dựa vào thực tế giảng dạy TDTT trong nhà trường các cấp, khi nghiên cứu
các phương pháp giáo dục TDTT nói chung, giáo viên lựa chọn một số phương
4
pháp để áp dụng cho phù hợp với từng đối tượng giáo dục, nhằm bảo đảm thực
hiện tốt chương trình và kế hoạch dạy học.
Những phương pháp thường được dùng trong quá trình giảng dạy TDTT

là:
1. Phương pháp giảng giải ( lời nói ) và làm mẫu ( trực quan ).
2. Phương pháp hoàn chỉnh và phân đoạn.
3. Phương pháp tập luyện và phương thức tập luyện.
4. Phương pháp sửa chữa động tác sai.
Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng một số phương pháp giảng dạy khác,
nhưng cần chú ý việc sử dụng phương pháp phải xuất phát từ mục tiêu giáo dục
thể chất, nhiệm vụ và nội dung chương trình cần đạt, mức độ và yêu cầu của giáo
dục: kỹ thuật, thể lực, chiến thuật hoặc trình độ thi đấu
Sự phân loại trên đây chỉ mang tính tương đối, trong quá trình giảng dạy
TDTT việc sử dụng một phương pháp riêng lẻ hoặc tổng hợp các phương pháp
nhằm giải quyết một nhiệm vụ giảng dạy cụ thể. Giáo viên cần nghiên cứu sáng
tạo trong phân loại và sử dụng các phương pháp trên. Các phương pháp giảng dạy
TDTT khi được sử dụng đúng lúc và hợp lý là yếu tố có tác động trực tiếp tới
việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và trình độ vận động của học sinh
nói riêng.
III. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY THỂ DỤC THỂ THAO:
1. Phương pháp giảng giải và làm mẫu:
Trong quá trình GDTC phương pháp giảng giải và làm mẫu là phương
pháp cơ bản, nhằm giáo dục và bồi dưỡng những tri thức hiểu biết, kỹ thuật
TDTT.
a) Phương pháp giảng giải ( Phương pháp dùng lời nói )
Là phương pháp thường được sử dụng trong quá trình giảng dạy TD cho
học sinh bậc TH. Là phương pháp giáo viên dùng lời nói để giới thiệu kiến thức
mới, động tác mới và kỹ thuật TDTT, phân tích về các nội dung cơ bản, nhiệm vụ
5
bài học về phương hướng chuyển động của các bộ phận cơ thể, các mấu chốt kỹ
thuật, để từng bước hoàn thành kỹ thuật, động tác và nâng cao hiểu biết và các
kiến thức có liên quan.
Một số yêu cầu cần chú ý khi áp dụng phương pháp giảng giải là:

- Giúp cho học sinh có nhận thức hiểu biết và cảm nhận ( qua quan sát)
đúng, thấy được từng phần, cấu trúc, hướng chuyển động, yêu cầu kỹ thuật của
động tác. Từ đó tạo điều kiện cho học sinh có khả năng phân tích kỹ thuật và có
các biểu tượng đúng, làm cơ sở cho việc thực hành chính xá kỹ thuật. Giáo viên
nên mô tả động tác bằng lời nói, thực hiện cùng lúc với việc thực hiện đúng,
chính xác động tác mẫu.
- Lời giảng cần có sức thuyết phục để truyền thụ tri thức, tạo nên sự chú ý
theo dõi của học sinh. Giúp học sinh càng sớm nắm được những nét cơ bản của
kỹ thuật, cần nhấn mạnh điểm chủ yếu khi thực hiện động tác. Qua đó, từng bước
củng cố các kỹ thuật, nâng cao kỹ năng, kỹ xảo vận động. Phòng tránh những sai
lầm thường mắc phải trong khi thực hiện động tác và đánh giá đúng khả năng vận
đông của học sinh.
- Lời giảng giải của giáo viên cần ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu sao cho thu
hút được sự chú ý, tập trung sự theo dõi của học sinh. Tránh dùng thuật ngữ
chuyên môn “ xa lạ” khó hiểu khi giảng giải kỹ thuật động tác cần liên hệ với các
hoạt động tự nhiên: chạy, nhảy, leo, trèo Có thể sử dụng các thuật ngữ chuyên
môn bằng từ địa phương để giảng cho các học sinh dễ hiểu và dễ bắt chước, song
vẫn phải đảm bảo tính sư phạm và giáo dục.
- Khi giảng giải kỹ thuật trong giờ học, tập luyện nên kết hợp với việc sử
dụng các tín hiệu, mệnh lệnh khi giao nhiệm vụ, hoặc điều chỉnh nội dung tần số,
khối lượng vận động Khẩu lệnh của giáo viên dưới dạng truyền lệnh cần dứt
khoát rõ ràng có sức truyền cảm, đặc biệt với học sinh các cấp đầu cấp. Khi giao
nhiệm vụ, căn dặn hay phê bình, động viên tất cả nội dung đó có tác dụng
6
không nhỏ đến việc bắt chước, hình thành các thói quen cho học sinh. Tấm
gương của giáo viên ccó ý nghĩa đặc biệt, ảnh hưởng trực tiếp tới đến việc hình
thành nhân cách, thói quên và những kỷ niệm tôt đẹp thời niên thiếu.
- Trong giảng dạy tập luyện TDTT hình thức hỏi và trả lời ( đàm thoại) có
ý nghĩa giúp học sinh suy nghĩ, độc lập sáng tạo, phát huy tích cực của các em.
Từ đó, giúp học sinh hiểu chính xác phương hướng chuyển động kỹ thuật, động

tác, gây hứng thú, giúp học sinh nắm được các quy tắc, đánh giá được động tác
đúng, sai của bạn và của chính mình.
b) Phương pháp làm mẫu
Hoạt động GDTDTT là loại hình có nội dụng giáo dục chuyên biệt. Trong
quá trình giảng dạy TDTT yêu cầu giáo viên không chỉ có hệ thióng tri thức liên
quan đến truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn phải làm mẫu đúng, chính xác
động tác, kỹ thuật TDTT. Làm mẫu thường được thực hiện cùng lúc với việc
giảng giải kỹ thuật và các tri thức khác có liên quan. Lời giảng giải của giáo viên
cần ngắn, gọn, dễ hiểu làm mẫu động tác cần chính xác đúng, đẹp.
- Một số yêu cầu cần chú ý khi làm động tác mẫu:
- Động tác làm mẫu của giáo viên cần chính xác, đẹp hoàn chỉnh. Vì giáo
viên là mẫu động tác, kỹ thuật đúng sẽ giúp học sinh nắm được những yếu lĩnh
cơ bản đúng của kỹ thuật, động tác.
- Khi giảng dạy những động tác kỹ thuật mới, phức tạp giáo viên cần giảng
giải 2 - 3 lần. Làm mẫu lần 1 có thể thực hiện động tác hoàn chỉnh, tốc độ
chuyển động bình thường đúng nhịp độ và yêu cầu. Học sinh qua quan sát hình
thành trong trí nhớ hình ảnh, có khái niệm sơ bộ của từng phần kỹ thuật hoặc
toàn bộ động tác, gây cảm giác đúng, chính xác hứng thú, thích tập luyện theo.
Làm mẫu lần 2, Giáo viên thực hiện động tác chậm, ở những điểm mấu chốt kỹ
thuật, giáo viên cần kết hợp với giảng giải và thực hiện động tác để học sinh nhớ
lại các điểm chính. Làm mẫu lần 3 giống như lần 1 cần hú ý thực hiện hoàn
7
chỉnh, chuẩn xác. Trong trường hợp giáo viên cần phải làm mẫu thêm một hai lần
nữa hoặc làm mẫu riêng từng phần của kỹ thuật là tuỳ thuộc vào độ khó của động
tác kỹ thuật và trình độ tiếp thu của học sinh.
- Khi hướng dẫn học sinh luyện tập các bài tập thể dục tay không, thể dục
đồng diễn, thể dục nhịp điệu, thể dục với vòng, gậy, cờ giáo viên cần áp dụng
nhiều hình thức làm mẫu khác nhau: làm mẫu theo kiểu “ soi gương ” hay thực
hiện động tác kỹ thuật đứng cùng chiều với học sinh. Khi giáo viên thực hiênj
động tác bước đầu tiên nên làm động tác có chuyển động chậm để học sinh dễ

thực hiện theo. Cần thực hiện làm mẫu động tác tự nhiên và bảo đảm tính phối
hợp kỹ thuật nhịp nhàng.
- Giáo viên cần chọn vị trí đứng thích hợp để khi làm mẫu tất cả học sinh
đều có thể nhìn thấy các chi tiết chuyển động của động tác, kỹ thuật. Tổ chức
hoạt động theo các nhóm, tổ, cặp 2 học sinh. Phân công các nhóm, tổ học sinh
làm theo kỹ thuật giáo viên đã hướng dẫn. Số học sinh còn lại chú ý theo dõi,
phát hiện từng phần kỹ thuật sai, nhắc nhở, tự sửa chữa cho bạn. Sau đó đổi nội
dung tập luyện giữa các nhóm, tổ thay phiên nhau quan sát, tập luyện và sửa
chữa động tác sai.
- Khi hướng dẫn thực hiện các động tác giáo viên đã làm mẫu, có thể sử
dụng các dụng cụ phát tín hiệu âm thanh ( còi, tiếng trống, tiếng vỗ tay ) để giúp
học sinh hình thành cảm giác nhịp điệu đúng, phân phối điều hoà tốc độ vận
đọng biết tập trung vào các thời điểm cần gắng sức, nghỉ ngơi hoặc thả lỏng để
góp phần làm giảm bớt căng thẳng liên tục.
Tóm lại, sử dụng sáng tạo phương pháp giảng giải và làm mẫu kỹ thuật
động tác trong giảng dạy TDTT cho học sinh, có vị trí quan trọng. Để phương
pháp giảng giải, làm mẫu đạt hiệu quả cao, giáo viên cần phối hợp giữa làm mẫu
giảng giải với việc phân tích các đặc điểm tâm, sinh lý học sinh, tình trạng sức
khoẻ, vốn vận động, mức độ phức tạp của kỹ thuật để điều chỉnh thời gian
8
giảng giải, số lần làm mẫu, hính thức, phương pháp tổ chức giảng dạy mẫu cho
phù hợp với đối tượng, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện.
2. Phương pháp giảng dạy hoàn chỉnh và phân đoạn:
a) Phương pháp giảng dạy động tác hoàn chỉnh:
- Đối với các động tác đơn giản hoặc khó phân chia thành các cử động nhỏ
khi giảng dạy, giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy động tác hoàn chỉnh
( nghĩa là động tác không bị phân ra thành các bộ phận cử động riêng lẻ). Khả
năng phân tích động tác, kỹ thuật của học sinh phổ thông còn hạn chế, nên việc
thực hiện động tác còn thiếu chính xác, sự kết hợp các cử động riêng lẻ còn khó
khăn lúng túng, tốc độ,biên độ động tác chưa có cảm giác đúng và phù hợp Vì

vậy, giáo viênphải luôn quan sát giúp đỡ học sinh để các em tập được các động
tác hoàn chỉnh.
Khi sử dụng phương pháp giảng dạy động tác hoàn chỉnh, giáo viên cần
chú ý đến những ưu, nhược điểm sau:
* Về ưu điểm:
- Học sinh tạo được cảm giác đúng toàn bộ kỹ thuật, dễ dàng nắm được kỹ
thuật động tác, có thể thực hiện theo yêu cầu giáo viên.
* Về nhược điểm:
- Khi giảng dạy các động tác có kỹ thuật phức tạp, sử dụng phương pháp
này kém hiệu quả.
- Do đó, khi sử dụng phương pháp giảng dạy động tác hoàn chỉnh, giáo
viên cần chú ý nhấn mạnh vào các điểm chủ yếu cần thiết của kỹ thuật, động tác,
có thể giảm bớt yêu cầu về biên độ, cự li, trọng lượng, độ cao Phối hợp với các
động tác bổ trợ khác trong quá trình giảng dạy các kỹ thuật động tác phức tạp.
b) Phương pháp giảng dạy động tác phân đoạn.
- Khi giảng dạy những động tác, bài tập khó và phức tạp, giáo viên cần sử
dụng phương pháp phân đoạn. Đây là phương pháp chia kỹ thuật động tác ra
9
thành các phần kỹ thuật động tác riêng lẻ, để hướng dẫn học sinh từng phần kỹ
thuật. Khi từng phần kỹ thuật học sinh đã thực hiện thuần thục, thì liên kết các
phần đó thành động tác hoàn chỉnh.
Ví dụ:
- Dạy học sinh động tác ném bóng cao su trúng đích tại chỗ. Cần hướng
dẫn học sinh đứng ở tư thế chuẩn bị, cầm bóng, cách vung tay, lấy đà, ra sức,
phối hợp với chuyển động toàn thân động tác kết thúc, giữ thăng bằng. Hướng
dẫn học sinh tập luyện từng phần kỹ thuật, thực hiện đúng các chi tiết kỹ thuật
động tác sau đó, hướng dẫn cách liên kết các chi tiết kỹ thuật thành động tác ném
bóng hoàn chỉnh.
Với yêu cầu: Xa, trúng đích, bảo đảm đúng kỹ thuật.
Khi sử dụng phương pháp giảng dạy động tác phân đoạn giáo viên cần chú

ý đến những ưu, nhược điểm sau:
* Ưu điểm:
- Học sinh dễ nắm được các chi tiết của từng phần động tác, thích hợp với
việc dạy các động tác khó, phức tạp, có yêu cầu cao về kỹ thuật.
* Nhược điểm:
- Chia động tác ra nhiều phần chi tíêt, kỹ thuật riêng lẻ, học sinh gặp khó
khăn khi thực hiện toàn bộ kỹ thuật.
- Do đó, khi giảng dạy cầm nêu rõ các điểm mấu chốt, tính liên kết từ phần
kỹ thuật chi tiết này sang phần khác, những mối quan hệ giữa các phần trong toàn
bộ kỹ thuật, tạo cho học sinh có biểu tượng đúng và phối hợp chính xác động tác,
kỹ thuật.
- Phương pháp dạy động tác, kỹ thuật hoàn chỉnh và phân đoạn sử dụng
trong quá trình giảng dạy TDTT sẽ mang lại hiệu quả tốt. Giáo viên cần phân biệt
và khai thác hợp lý các ưu, khuyết điểm, biết phối hợp hai phương pháp để giải
quyết các nhiệm vụ giáo dục cụ thể từng bài học, và nôị dung tập luyện thì sẽ
mang lại hiệu quả tốt hơn.
10
3. Phương pháp tập luyện và các hình thức tập luyện:
* Phương pháp thực hành.
Trong quá trình giáo dục TDTT sử dụng phương pháp thực hành, chính là
dùng các hình thức luyện tập, tạo nên sự tác động trực tiếp cơ thể học sinh.
Thông qua quá trình tập luyện học sinh hình thành tri thức, nắm vững được kết
cấu, chuyển động của động tác, cảm giác cơ bắp, thần kinh, hoàn thiện kỹ năng
vận động và phát triển kỹ năng thể chất toàn diện.
Phương pháp tập luyện được sử dụng trong các giờ TDTT dưới hình thức
khác nhau. Thực tế trong giảng dạy TDTT thường được sử dụng 3 loại hình sau:
a) Hình thức tập luyện lặp lại:
- Đây là phương pháp tập luyện với hình thức luyện tập kỹ thuật, động tác
được lặp lại nhiều lần. Hình thức tập luyện này có ưu điểm là kỹ thuật, động tác
sớm hình thành, tạo cho việc thực hiện đúng và chính xác. Học sinh khi đã nắm

được các kỹ thuật vận động. Nếu không được thường xuyên tập luyện lặp lại để
hình thành kỹ năng khi kỹ thuật, động tác - tuy học sinh đã nắm được, sau một
thời gian sẽ bị phá vỡ. Do đó, cần tập luyện lập lại kỹ thuật, động tác trong các
giờ học, buổi tập, giờ ngoại khoá và ở nhà.
- Việc áp dụng phương pháp luyện tập lặp lại thường góp phần hình thành
các thói quen vận động, các đường liên hệ tạm thời ở vỏ não, giúp học sinh thực
hiện đúng kỹ năng hoạt động trong cuộc sống: Đi, chạy, nhảy, ném, leo, trèo,
nắm bắt
b) Hình thức tập luyện biến đổi:
- Đây là hình thức tập luyện các kỹ thuật, động tác luôn có sự điều chỉnh,
thay đổi yêu cầu, mức độ, mục tiêu Và các điều kiện. Sử dụng phương pháp
thực hiện có biến đổi nhằm tạo cho học sinh khả năng làm quen, nhanh chóng
thích ứng, giải quyết các điểm mấu chốt, quan trọng của kỹ thuật. Khi hướng dẫn
tập luyện với các động tác phức tạp, giáo viên nên chia động tác thành các phần
chi tiết khác nhau ( theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp ).
11
Sau cùng giáo viên hướng dẫn để học sinh biết, phối hợp các phần riêng lẻ thành
động tác hoàn chỉnh ở trong các điều kiện không giống nhau tăng dần mức độ
khó khăn, phức tạp, song đảm bảo yêu cầu vừa sức với từng đối tượng.
- Khi học sinh đã nắm vững bài tập giáo viên có thể tăng khoảng cách, thay
đổi độ cao, thấp của dụng cụ, thay đổi điều kiện bổ trợ, nâng cao yêu cầu về chất
lượng kỹ thuật, qua đó dần dần nâng cao, củng cố và hoàn thiện những kỹ năng
vận động.
c) Hình thức trò chơi và thi đấu:
- Rèn luyện TDTT thông qua hình thức trò chơi vận động và thi đấu tạo
được không khí hưng phấn, phấn khởi, nhiệt tình tham gia luyện tập của học sinh.
Trong vui chơi vận động và thi đấu có hướng dẫn, điều khiển của giáo viên trong
các mục tiêu giáo dục được thực hiện, góp phần thúc đẩy hoàn thiện nhân cách và
sức khoẻ học sinh. Đây là hình thức phù hợp với lứa tuổi học sinh.
- Trong quá trình tổ chức trò chơi, giáo viên hướng dẫn học sinh tập, bắt

trước các động tác linh hoạt của con người như các động tác kéo gỗ, chèo thuyền,
cuốc ruộng của người lao động. Qua đó, giáo dục học sinh yêu quý gắn bó với
thiên nhiên, với con người và chính bản thân mình.
- Khi hướng dẫn trò chơi, giáo viên cần lựa chọn trò chơi có tốc độ thu hút
được sự chú ý cao của học sinh, đảm bảo tính nhịp điệu, vừa sức động tác bắt
trước phù hợp với lứa tuổi học sinh. Giáo viên thường xuyên nhắc nhở học sinh
khi vui chơi cần đảm bảo đúng kỹ thuật, động tác cơ bản.
Ví dụ:
- Khi chơi “ chạy tiếp sức” động tác chạy phải thực hiện đúng kỹ thuật,
chạy bằng lửa bàn chân trên, kết hợp với đánh tay, thở nhịp nhàng, luôn luôn chú
ý quan sát để kịp thời gian đưa tín vật cho bạn ( Cờ, bóng hoặc gậy).
- Trong quá trình nghiên cứu phải lựa chọn biên soạn trò chơi giáo viên có
thể phối hợp các nội dung với chuyện kể ngắn có tính giáo dục cao. Cần phối hợp
hoạt động trò chơi với thi đấu, hay tổ chức dưới dạng thi đấu. Chú ý đến mức độ
12
hứng thú, nhiệt tình tham gia của học sinh để xác định mục đích yêu cầu giáo dục
khác nhau.
- Hình thức thi đấu được sử dụng khi học sinh cơ bản đã nắm vững động
tác, kỹ thuật, ví dụ trò chơi “ bóng chuyền 6 ” “ vượt vòng vây ”, Qua các
hướng dẫn, giáo dục học sinh biết sử dụng các kỹ năng vận động trong khi chơi
và thi đấu đạt hiệu quả giáo dục và góp phần phát triển sức khoẻ.
- Đối với học sinh phổ thông bậc THCS do cơ thể phát triển đang từng
bước hoàn thiện, tình trạng tâm lý còn chưa ổn định, các em ham chơi vận động
quá sức sẽ dẫn đến mệt mỏi, nên trong quá trình tổ chức tập luyện, thi dấu, giáo
viên cần chú ý một số điểm sau:
- Nên tổ chức các hình thức thi đấu đa dạng, phong phú, tránh phức tạp,
bảo đảm an toàn về phương tiện, không nên để mất nhiều thời gian vào việc điều
hành đội ngũ, xắp xếp tổ chức.
- Yêu cầu bảo đảm lượng vận động vừa sức cần tránh lặp lại quá nhiều lần,
gây mệt mỏi, quá sức phòng tránh chấn thương.

4- Phương pháp sửa chữa động tác sai:
- Khi tập luyện TDTT học sinh không tránh khỏi thực hiện động tác, kỹ
thuật có sai sót, nên việc áp dụng phương pháp sửa chữa động tác, kỹ thuật sai là
rất cần thiết, sẽ góp phần kịp thời giúp cho học sinh thực hiện đúng, chính xác kỹ
thuật, tạo điều kiện tiếp thu kỹ thuật mới nhanh và phòng tránh chấn thương.
a) Một số nguyên nhân dẫn đến thực hiện sai kỹ thuật và động tác:
- Do học sinh chưa nắm được yêu cầu, kỹ thuật cách tiến hành tập luyện,
tập luyện thiếu dũng cảm, chưa tự tin, còn lo nắng, hồi hộp, sợ xệt
- Việc chuẩn bị thể lực, sức khoẻ, vốn kỹ năng vận động còn thấp xa so với
yêu cầu cần thực hiện động tác. Học sinh có khuyết tật, bẩm sinh hoặc cơ thể sau
thời gian ốm, mệt, bị chấn thương.
- Giáo viên sử dụng phương pháp và nội dung tập luyện chưa phù hợp với
đối tượng học sinh, dụng cụ sân bãi không đảm bảo quy cách phù hợp và an toàn,
13
do thời tiết khí hậu khắc nhiệt và một số ảnh hưởng ngoại cảm khác: Học sinh
thiếu tập chung học tập, tính tổ chức, tính kỷ luật còn thấp
b) Cách sửa chữa:
- Trước tiên, giáo viên cần nghiên cứu và quan sát kỹ lưỡng để sớm phát
hiện những nguyên nhân đưa tới những thiếu sót, cần điều chỉnh nội dung bài
học, vận dụng các phương pháp sửa chữa sai lầm cho kịp thời phù hợp với đối
tượng.
- Trên thực tế bài học trên lớp giáo viên không thể sửa chữa mọi sai sót
cho học sinh. Đối với học sinh ở các lớp đầu cấp, không nên đòi hỏi học sinh
thực hiện đúng động tác, kỹ thuật trong một thời gian ngắn. Chỉ nên yêu cầu thực
hiện đúng những phần cơ bản của động tác. Khi sửa chữa các động tác sai tránh
áp dụng biện pháp cứng nhắc, cần dựa trên khả năng trình độ vận động của từng
học sinh mà hướng dẫn, nhắc nhở các sai sót cơ bản giúp học sinh sửa chữa, tạo
điều kiện cho học sinh tự sửa cho mình. Trong sửa chữa các động tác sai cần gắn
liền với việc động viên rèn luyện cho học sinh tinh thần dũng cảm, tự tin, mạnh
dạn, làm quen với các điều kiện khó khăn trong tập luyện.

- Phương pháp sửa chữa động tác sai trong tập luyện TDTT cho học sinh
cần áp dụng các hình thức phong phú. Những thiếu sót về tư thế, kỹ thuật, các chi
tiết riêng lẻ, ý thức Cần nhắc nhở nhẹ nhàng bằng lời nói. Nếu có sai về động
tác kỹ thuật, nên cho ngừng tập giáo viên làm mẫu lại và giảng giải chậm để học
sinh xem Có thể thực hiện động tác sai của học sinh, để học sinh thấy được
thiếu sót của chính mình.
- Sự giúp đỡ trực tiếp. uốn nắn kỹ thuật, nhắc nhở nhẹ nhàng đúng lúc của
giáo viên có tác động to lớn động viên các em khắc phục khó khăn quyết tâm sửa
chữa động tác sai. Giáo viên có thể sử dụng các dụng cụ tập luyện, tiếng hô, tiếng
vỗ tay, nhịp gõ để nhắc nhở các em thời điểm chủ yếu cần thay đổi hay giữ vững
kỹ thuật, động tác giúp học sinh nhớ và nắm vững thời điểm khi dùng sức, xây
dựng các cảm giác đúng chính xác, sử dụng sức mạnh cơ bắp trong quá trình thực
hiện, hoàn thành kỹ thuật, bài tập.
KẾT QUẢ:
14
- Sau khi vận dụng thực nghiệm cho học sinh với các phương pháp giảng
dạy được áp dụng từ khi được giao dạy học sinh ở tất cả các khối lớp thì đã đem
lại kết quả rất khả quan. Thực tế cho thấy từ khi được giao nhận lớp và áp dụng
các phương pháp dạy học đó vào tập luyện đã thu hút được học sinh luyện tập và
gây được tính tích cực cho học sinh, một số nhận thức chậm nay đã có sự tiến bộ
nhất định.
D- KẾT LUẬN:
- Trong quá trình giảng dạy và làm sáng kiến kinh nghiệm và các giải pháp
tôi đã áp dụng và thấy các em đã có tiến bộ, mặc dù kết quả vẫn chưa tốt song các
em đã biết và từng bước và hiểu được yêu cầu của bộ môn cũng như nhận thức
được vai trò của môn TD đối với việc phát triển các tố chất thể lực góp phần phát
triển toàn diện cho học sinh. Từ khi giảng dạy và sử dụng các phương pháp khác
nhau tôi thấy học sinh đã có sự thay đổi về ý thức kỷ luật trong tập luyện cũng
như vui chơi dẫn đến tỷ lệ chuyên cần học sinh đến lớp ngày càng được đảm bảo
và ổn định hơn mức ban đầu.

* Ý kiến đề xuất:
- Để tổ chức tốt một giờ học thể dục phù hợp với yêu cầu phát triển toàn
diện của học sinh cũng như kích thích tinh thần tự giác của học sinh. Tôi xin đề
xuất với Ban giám hiệu, các cấp lãnh đạo cho sửa sang sân bãi, trang bị thêm một
số thiết bị phục vụ cho giảng dạy một giờ trên lớp. Để giờ dạy, tập luyện vui chơi
của học sinh cũng như giáo viên đạt kết quả tốt hơn
Than Uyên, ngày 25 tháng 10 năm 2006/.
Người nghiên cứu
15
Vũ Đình Mai
16

×