Sáng kiến kinh nghiệm
Tên đề tài:
Giúp học sinh lớp 5 có kết quả tốt hơn trong phân môn tập làm văn.
I. Lý do chọn đề tài:
1. Do tầm quan trọng của tiếng mẹ đẻ trong chương trình tiểu
học:
Tiếng mẹ đẻ có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời
sống mỗi con người. Với cộng đồng đó là phương tiện để giao tiếp và tư
duy. Đối với trẻ em, tiếng mẹ đẻ càng có vai trò quan trọng. K.A.U-sin-Xki
chỉ rõ “trẻ em đi vào đời sống tinh thần của mọi người xung quanh nó duy
nhất thông qua phương tiện tiếng mẹ đẻ và ngược lại, thế giới bao quanh đứa
trẻ được phản ánh qua nó chỉ thông qua công cụ này”. Do đó trẻ em cần
được học tiếng mẹ đẻ một cách khoa học, cẩn thận trong các giờ học tiếng
Việt đặc biệt là trong phân môn tập làm văn, để sử dụng công cụ này trong
những tháng năm học tập ở nhà trường, cũng như trong suốt cuộc đời.
Tiếng mẹ đẻ có tính chất hai mặt: nó vừa là đối tượng học tập của học
sinh, vừa tạo cho các em công cụ để học các môn khác, là công cụ tư duy,
giao tiếp.
2. Do nhận thấy tầm quan trọng của tiếng mẹ đẻ trong chương trình
tiểu học. Là một giáo viên dạy lớp cuối của bậc tiểu học tôi thấy cần phải
giúp đỡ các em ngoài việc nhận ra tầm quan trọng của tiếng mẹ đẻ còn phải
nói, viết tiếng mẹ đẻ một cách chính xác, thành thạo qua phân môn tập làm
văn trong tiếng Việt ở tiểu học.
II. Quá trình thực hiện đề tài:
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn:
Hiệu quả của việc dạy học không chỉ phụ thuộc vào nội dung dạy học mà
còn phụ thuộc vào phương pháp dạy học. Đặc biệt là tập làm văn là môn mà
các em ở tiểu học yếu hơn các môn khác. Bởi vậy người giáo viên phải có
nhiệm vụ giúp các em nối tiếp một cách tự nhiên các bài khác nhau trong
môn tiếng việt như tập đọc, chính tả, ngữ pháp, kể chuyên nhằm giúp các
em có năng lực nói, viết. Nhờ năng lực này, các em biết sử dụng tiếng Việt
làm công cụ tư duy, giao tiếp, học tập. Giúp các em bổ xung kiến thức, rèn
luyệ tư duy và qua đó hình thành nhân cách cho các em.
Để cung cấp và giúp các em có những kiến thức tiếng việt, người giáo
viên phải co phương pháp dạy tập làm văn cụ thể, lô gic qua các chi tiết của
phân môn tập làm văn:
A. Quan sát tìm ý - lập dàn bài chi tiết.
B. Tập làm văn miệng.
C. tập làm văn viết.
D. Tập làm văn trả bài.
Trong 4 tiết nêu trên có sự liên quan chặt chẽ, không được coi nhẹ tiết
nào. Đặc biệt phải chú ý hơn tiết quan sát tìm ý – lập dàn bài và tiết văn
miệng.
Đây là một môn học khó, làm thế nào để học sinh biết làm một bài tập
làm văn đúng thể loại, đủ ý, câu văn lưu loát, có hình ảnh, có tình cảm
không sai lỗi, trình bày đẹp, tôi đã suy nghĩ rất nhiều năm. Trong những lúc
chấm bài cho học sinh tôi băn khoăn còn một số học sinh làm bài chưa chú
ý, câu còn lủng củng, ý nghèo nàn, sai lỗi nhiều. Vì vậy tôi đã vạch ra cho
mình một phương pháp riêng khi dạy Tập làm văn lớp 5.
2. Sau đây là phương pháp của tôi trong khi dạy từng tiết học trong
môn tập làm văn.
A. Đối với các tiết quan sát tìm ý - lập dàn bài chi tiết:
- Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của tiết quan sát và tìm ý gồm hai
mặt:
+ Chuẩn bị kiến thức phục vụ cho việc làm một đề văn theo yêu cầu
đầu bài đã cho:
+ Hình thành phương pháp và kĩ năng quan sát gắn với miêu tả.
- Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh:
+ Khi quan sát phải sử dụng các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi để
nhìn, nghe, sờ, ngửi, nếm nhằm nhận biết sự vật về hình dạng, màu sắc, âm
thanh, mùi vị
+ Quan sát nhằm nhận ra nhữgn nét độc đáo đặc biệt của đối tượng
chứ không phải thống kê tỉ mỉ trung thực mọi chi tiết về sự vật.
+ Trong khi quan sát còn luôn gắn với cảm xúc, với kỉ niệm, với
cuộc sống cá nhân của người quan sát. Từ đó gắn chặt với các hoạt động liên
tưởng so sánh, tưởng tượng, hồi tưởng của từng cá nhân.
+ Từ việc quan sát học sinh tìm được từ ngữ diễn tả đúng và sinh
động những điều đã quan sát được.
+ Hướng dẫn học sinh lựa chọn trình tự quan sát:
· Trình tự không gian: quan sát toàn bộ đến quan sát từng phần, từ
trái sang phải, từ trên xuống dưới, ngoài vào trong hoặc ngược lại.
· Trình tự tâm lí: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc
mạnh cho bản thân hứng thú hay khó chịu, yêu hay ghét ) thì quan sát
trước, các phần khác quan sát sau.
Phần trọng tâm bài thì quan sát kĩ lưỡng hơn.
+ Hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan để quan sát. Đây là thao
tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định về nhiều mặt. Thông thường
học sinh chỉ dùng mắt để quan sát do đó kết quả thu được thường là các
nhận xét và cảm xúc gắn liền vời thính giác (hình dáng, màu sắc, đường nét,
độ xa, gần ) đó là mặt mạnh và cũng là một nhược điểm của học sinh.
Chúng ta cần lưu ý các em dùng thêm các giác quan thích hợp khác để
quan sát. ví dụ quan sát giờ ra chơi sân trường em ngoài việc dùng mắt để
quan sát các trò chơi còn phải sử dụng tai để nghe âm thanh của tiếng nói,
cười, tiếng động các trò chơi và từ đó liên tưởng, so sánh, cảm xúc của bản
thân.
+ Tổ chức quan sát và tìm ý:
· Học sinh phải được quan sát trực tiếp cảnh vật và người.
· Học sinh tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính.
· Sự quan sát của học sinh phải được hướng dẫn cụ thể bằng hệ
thống câu hỏi gợi ý.
Ví dụ: để quan sát và tìm ý bài: "Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em
trong giờ ra chơi" tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau:
· Đọc kĩ đề bài, phát hiện thể loại?
· Trọng tâm của đề bài là gì?
(Chú ý đứng ở chỗ nào quan sát được toàn cảnh sân trường)
1)Khung cảnh và không khí của sân trường trước giờ ra chơi? (yên ắng,
vắng vẻ, bầu trời )
2) Cảnh sân trường trong giờ ra chơi:
+ Âm thanh lúc đó? (ồn ào)
+ Học sinh các lớp ra sân như thế nào?
+ Toàn sân trường lúc này ồn ào, náo nhiệt ra sao? (Tiếng cười? nói?
các nhóm chơi diễn ra ở những chỗ nào trên sân trường? có thể tả cảnh
thiên nhiên xen kẽ lúc này.
+ Chú ý tả kĩ các nhóm chơi vui điển hình: nhảy dây, đá cầu, kéo co,
cướp cờ. mèo đuổi chuột
+ Tả kĩ hoạt động của vài cá nhân tiêu biểu.
Ví dụ: Hãy quan sát trò chơi đá cầu:
+ Có mấy người tham gia?
+ Thái độ của các cổ động viên xung quanh?
Quả cầu được đưa qua, đưa lại bằng những pha đẹp mắt như thế nào?
+ Tiếng cổ động viên reo hò ra sao ?
- Quan sát kĩ trò chơi nhảy dây chun:
+ Bạn nào tham gia?
+ Tay bạn quay dây như thế nào?
+ Chân nhảy ra sao? Từ đó liên tưởng và so sánh với gì?
+ Tiếng dây quất trên sân trường ra sao?
+ Khuôn mặt các bạn đang chơi như thế nào?
+ Tiếng các cổ động viên?
- Quan sát trò chơi kéo co:
+ Hai đội nào tham gia?
Tư thế đứng mỗi đội như thế nào?
+ Tiếng hò reo, cổ vũ lúc trò chơi bắt đầu đến lúc kết thúc?
*Chú ý các trò chơi đều tả sự hoạt động vui chơi nhộn nhịp, vui vẻ.
- Lúc có tiếng trống báo vào lớp:
+ Các bạn nhanh chóng xếp hàng tập thể dục như thế nào?
+ Trên khuôn mặt một số bạn còn biểu hiện luyến tiếc cuộc chơi?
+ Không khí trên sân trường lúc này ra sao?
(im ắng, gió thổi, lá cây , bầu trời?)
3)Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi:
+ Những cảm xúc gì sau giờ ra chơi?
Những ấn tượng tốt đẹp gì về tuổi học trò?
Sau khi đã quan sát được học sinh sẽ tự sắp xếp ý để lập dàn bài chi tiết
theo sự hướng dẫn của giáo viên trong tiết Lập dàn bài chi tiết cụ thể trong
sách giáo khoa.
Từ tiết Lập dàn bài cho đến tiết miệng học sinh tiếp tục quan sát trong
các giờ ra chơi để bổ sung cho bài của mình mà qua tiết Lập dàn bài mình
thấy còn thiếu.
B. Tiếp theo là tiết Tập làm văn miệng.
Đây là tiết khó khăn nhất đối với học sinh. từ các ý quan sát tìm được,
học sinh phải sắp xếp thành câu văn và nói được trước lớp. Khi nói phải đảm
bảo phát âm đúng, dùng từ ngữ chính xác, đặt câu đúng ngữ pháp , câu
ngắn gọn, rành mạch, rõ ràng, làm cho người nghe tiếp nhận được một cách
có hiệu quả tốt nhất. Biết sử dụng giọng nói, điệu bộ diễn tả nhằm hỗ trợ cho
việc thể hiện nội dung.
Ở tiết này học sinh nói được càng nhiều càng tốt. Không nhất thiết nói
lên phải chuẩn ngay (vì học sinh đang tập nói), có thể câu còn lủng củng,
thiếu từ, sai lỗi.
Học sinh và giáo viên chú ý theo dõi, à hướng sửa lỗi câu văn hay hơn,
đúng hơn. Nếu học sinh bí từ, giáo viên có thể cung cấp thêm từ cho học
sinh để có những câu văn sinh động hấp dẫn, từ đó mà phát triển tư duy và
ngôn ngữ cho học sinh.
(chú ý trong diễn tả lời văn phải tự nhiên, chân thành và giản dị).
Trong tiết này giáo viên cần tạo ra không khí hào hứng, kích thích học
sinh muốn nói và mạnh dạn nói từ đó hướng dẫn các em cách nói sao cho
đạt hiệu quả tốt nhất
Ví dụ trong tiết tập làm văn miệng "Tả cảnh nhộn nhịp ở sân trường em
trong giờ ra chơi" tôi đã thực hiện như sau:
- Thể loại? trọng tâm? dàn bài chính? Phần này học sinh nêu lại vì đã
hình thành ở tiết trước, giáo viên có thể ghi sẵn ở bảng phụ hoặc cho học
sinh nêu, giáo viên ghi nhanh lên bảng.
Hệ thống câu hỏi:
+ Mở bài cần nêu ý gì?
+ Có mấy cách mở bài? (Trực tiếp? gián tiếp?)
+ Hãy nêu cách mở bài của con?
(Giáo viên gọi vài học sinh nói miệng. Giáo viên và học sinh cùng theo
dõi để phát hiện từ hay? Hoặc dùng từ chưa hay? chưa chính xác, từ đó giáo
viên cùng học sinh sửa cho hay hơn, hoàn chỉnh hơn).
Ví dụ: *Hoa nói:
- Sân trường yên ắng quá, gió thổi làm những chiếc lá khô bay xào
xạc. Bỗng tiếng trống báo Hoi giờ ra chơi vang lên dõng dạc"Tùng! Tùng!
Tùng!"
+ Nhận xét mở bài của Hoa? (đủ ý, câu ngắn gọn, có hình ảnh (xào
xạc)).
*Xuân Tuấn nói:
- Tùng! Tùng! tùng! Bác trống như gọi to "Các cháu ơi, giờ ra chơi đã
đến rồi!".
+ Nhận xét mở bài của Tuấn? (Mở bài tự nhiên, có cảm xúc nhưng chưa
nói được khung cảnh và không khí trước giờ ra chơi).
+ Vậy con bổ xung cho bạn như thế nào?
"Tùng! Tùng! Tùng!" Bác trống như gọi to "Các cháu ơi, giờ ra chơi đã
đến rồi!" làm xua tan bầu không khí im lặng của sân trường để thay vào đó
là tiếng ồn ã cười nói ríu rít như đàn chim non sổ lồng đang lan rộng trên
khắp sân trường.
*Giáo viên cho học sinh nói mở bài khác bạn và cũng tổ chức như trên.
+ Thân bài nêu ý gì? (cảnh sân trường trong giờ ra chơi)
+ Lúc có tiếng trống báo hiệu chơi con nghe thấy những âm thanh gì?
cả lớp ùa ra sân như thế nào?
*Liên nói:
- Trong phút chốc cả sân trường như bừng tỉnh, tiếng nói cười rộn rã
khắp sân trường. Trên sân tràn ngập một nàu áo trắng, màu khăn quàng đỏ
tươi bay phấp phới trên vai các bạn học sinh.
+ Nhận xét đoạn văn của Liên?
Câu ngắn gọn nhiều từ hay, sinh động: "bừng tỉnh", "bay phấp phới".
*Minh nói:
Từ các cửa lớp học sinh chen nhau ra ngoài, toả trên khắp sân trường để
tổ chức các trò chơi.
+ Nhận xét đoạn văn của Minh?
(Tả tự nhiên, thật nhưng dùng từ "chen nhau" chưa hay).
Con có thể thay bằng từ nào cho hay hơn? (ùa ra)
(Vài học sinh nói miệng phần này và cách tổ chức như trên).
+ Khi ra sân em thấy toàn cảnh sân trường lúc này, như thế nào?
*Hà nói:
- Sân trường thật là nhộn nhịp: Bạn chạy qua, bạn chạy lại, nhóm này
chơi nhảy dây, nhóm kia đá cầu. Dưới bóng mát của cây phượng là nhóm
kéo co đang dàn thành hai tốp, trên những chiếc ghế đá góc sân các em lớp 1
đang say sưa đánh vần, những chiếc đu quay, bập bênh thi nhau vút lên, hạ
xuống.
+ Nhận xét đoạn văn trên của bạn?
(Bạn tả được bao quát toàn cảnh sân trường trong giờ ra chơi rất nhộn
nhịp, câu ngắn gọn, lưu loát).
*Nghĩa nói:
- Phía các bạn nữ cuộc nhảy dây bắt đầu. Vòng đầu bạn đều vượt qua dễ
dàng. Các vòng sau chỉ còn ba bốn bạn nhảy, các bạn bị loại mặt buồn thiu.
+ Nhận xét? (- Bạn chưa tả bao quát toàn cảnh sân trường mà tả ngay
vào các trò chơi. - Bạn tả trò chơi chưa sôi nổi vui vẻ).
+ Sau khi tả bao quát toàn cảnh các con tả cảnh gì? (Tả một vài trò tiêu
biểu vui vẻ, nhộn nhịp).
*Trâm nói:
- Dưới bóng mát của cây đa già là trò chơi đá cầu của Quang và Dũng.
Hai bạn luôn là đối thủ của nhau trong trò chơi này. Vậy quanh hai bạn là
đội ngũ cổ động viên nồng nhiệt. Đôi chân điêu luyện của Quang đưa lên, hạ
xuống nhịp nhàng để tâng cầu Quả cầu cứ nhảy nhót từ đùi này sang đùi kia
của Quang như một diễn viên múa. Bỗng Quang chuyển tư thế dùng mu bàn
chân đá mạnh quả cầu sang phía Dũng. Khán giả được một giây nín thở theo
dõi quả cầu. Tiếng vỗ tay rào rào thán phục cú đỡ khéo léo của Dũng.
Bạn nào tả trò chơi khác bạn?
*Hoa nói:
- Nhóm kéo co cũng không kém phần vui vẻ. Tiếng cổ động viên hai
bên ầm ĩ: "5B cố lên!". ở hai đầu dây cac bạn thi nhau cố hết sức kéo được
dây qua vạch mốc, dùng hết sức kéo nhau chồng chất làm khán giả vừa vỗ
tay, vừa cười chảy nước mắt.
(Giáo viên hỏi học sinh nói miệng phần này từ 4 – 5 em. Cách tổ chức
giống trên).
+ Lúc có tiếng trống báo hiệu giờ vào lớp các nhóm chơi như thế nào?
(chen nhau chạy về vị trí của lớp mình để xếp hàng tập thể dục, một số bạn
có biểu hiện luyến tiếc cuộc chơi như thế nào?).
*Huy nói:
Các trò chơi vẫn đang sôi nổi, bỗng ba hồi trống vang lên báo hiệu 15
phút ra chơi đã kết thúc. Các nhóm chơi nhanh chóng về vị trí của lớp mình
để tập thể dục. Trang vẫn còn cố nhảy thêm vài lần dây, Quang, Dũng hẹn
ngày mai lại đua tài. Trên khuôn mặt ai cũng tươi tỉnh.
- Không khí trên sân như thế nào? Khi các con đã vào lớp?
*Phương nói:
- Sau giờ tập thể dục chúng em vào lớp để tiếp tục học những bài học
bổ ích. Sân trường lại im lặng. Từ các lớp, tiếng giảng bài của các cô giáo lại
vang lên.
+ Em có cảm nghĩ gì sau giờ ra chơi?
(Giờ ra chơi bổ ích và lí thú, tinh thần sảng khoái để tiếp tục tiếp thu bài
tốt hơn – khắc sâu trong trí nhớ những tiếng cười hồn nhiên của tuổi học
trò).
(Phần này giáo viên gọi 4 – 5 em nói phần cảm nghĩ của mình về giờ ra
chơi. Cách tổ chức giống thân bài).
· Sau tiết này giáo viên dặn học sinh về viết nháp bài văn này để giờ
sau có tiết viết. Qua tiết miệng học sinh tự bổ sung cho bài văn của mình hay
hơn. Ngoài ra, sau những tiết miệng ngoài việc học sinh phát hiện từ hay
trong khi bạn nói để bổ sung cho bài của mình, tôi còn cung cấp cho các em
một số từ hay phục vụ cho từng bài.
Ví dụ: ở bài tả giờ ra chơi tôi cung cấp những từ sau:
+ Bước chân: thoăn thoắt.
+ Điệu bộ: Bẽn lẽn, bình thản, hăng hái, láu táu
+ Giọng nói, thái độ, nụ cười: liến thoắng, pha trò, hả hê.
+ Tình cảm: thoả thích, sảng khoái, khoái chí, sửng sốt, kinh ngạc
C. Để tiết viết đạt hiệu quả cao, lời nhắc nhở dặn dò của giáo viên trước lúc
viết cũng rất quan trọng.
Ngoài việc thực hiện theo đúng các bước trong tiết viết bài, trong mỗi
tiết viết tôi còn chú ý dặn thêm:
- Vận dụng những đặc điểm, lời văn ở từng thể loại. Ví dụ:
+ Tả người: Cần lựa chọn những tính từ gợi hình, gợi cảm, các động từ
sát hợp, các hình ảnh so sanh, ví von sinh động để vừa gợi tả cụ thể, vừa
bộc lộ thái độ, tình cảm của mình đối với người được tả.
+ Tả cảnh sinh hoạt cần lựa chọn, sử dụng đúng và hay các từ ghép, từ
láy, từ tượng thanh, từ tượng hình nhằm gợi tả rõ không khí của cảnh sinh
hoạt (vui vẻ, nhộn nhịp, đầm ấm ) Chú ý dùng cách so sánh, nhân hoá, làm
nổi bật hoạt động chính của người v.v
+ Tường thuật: Lưu ý xen tả và bộc lộ cảm xúc khi cần thiết làm bài
văn thêm hấp dẫn.
E. Tập làm văn (trả bài).
Để có thể làm tốt một bài tập làm văn (nói hay viết) ngoài những kỹ
năng nói, học sinh còn cần được rèn luyện thêm kĩ năng sửa chữa, rút kinh
nghiệm, nhằm đạt kết quả ngày một cao hơn. Tập nhận xét bạn trong giờ
Tập làm văn nói, tự rà soát và sửa chữa bài nháp của mình hay bài viết chính
thức ở lớp, rút kinh nghiệm và tự sửa chữa trong giờ trả bài, tất cả đều giúp
học sinh luyện tập hình thành kĩ năng và thói quen “tự điều chỉnh”, tự học
tập để luôn tiến bộ. Tiết “Trả bài viết” có ý nghĩa quan trọng đối với việc rèn
luyện kĩ năng nói rong tiết Tập làm văn miệng.
So với các tiết khác (Lập dàn bài – nói), tiết trả bài cần được giáo viên
chuẩn bị công phu từ lúc chấm bài, thống kê lỗi, nhận xét khái quát về bài
làm, chuẩn bị dẫn chững, minh hoạ đến khi soạn giáo án cụ thể cho tiết trả
bài. Việc hướng dẫn học sinh học tập trên lớp cũng đòi hỏi sự gợi mở, dẫn
dắt và ứng xử linh hoạt của giáo viên, nhằm giúp các em tự phát hiện nhận
thức được ưu, khuyết điểm trong bài viết của mình. Qua đó, học sinh có ý
thức viết bài ngày càng tiến bộ và có kết quả cao hơn.
· Sau tiết học này tôi thường nhắc học sinh về làm lại và tôi chấm lại
cẩn thận cho các em. Cách làm này làm cho học sinh tăng thêm hứng thú khi
học môn này.
3.Kết quả:
Về tình cảm của học sinh đối với môn Tập làm văn:
- Các em không còn sợ môn này nữa, và có hứng thú khi học Tập làm
văn. Cụ thể trong tiết văn “Tường thuật lại tiết học lí thú” tôi giao thêm đề
các em đều thuật lại tiết Tập làm văn rất sôi nổi, hóm hỉnh trong cách viết.
Cá nhân điển hình của lớp tôi.
Vừa rồi tổng kết cuối học kì I lớp tôi có nhiều em đạt kết quả cao môn
tiếng Việt.
III. Bài học kinh nghiệm.
Để đáp ứng yêu cầu về môn Tiếng Việt ở tiểu học, đặc biệt là Tập làm
văn, người giáo viên phải chuẩn bị thật tốt cho mỗi tiết dạy:
- Quan sát tìm ý – làm dàn bài.
- Tập làm văn miệng.
- Tập làm văn viết.
- Tập làm văn trả.
Phải có nhiệt tình và tâm huyết với nghề từ đó mới thuyết phục được
học sinh yêu mến môn học và một khi đã yêu mến môn học thì kết quả cao
hơn.
Tôi mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp.