Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

skkn một số kinh nghiệm để làm tốt công tác chủ nhiệm (ở lớp 4)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.22 KB, 13 trang )

ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐỂ LÀM TỐT CÔNG
TÁC CHỦ NHIỆM (Ở LỚP 4).
Tác giả: Nguyễn Thị Đạm.
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bồng Sơn.
A. MỞ ĐẦU:
I. Đặt vấn đề:
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết:
Nâng cao chất lượng học tập của học sinh yếu kém bao giờ cũng là mối quan
tâm của mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp. Bởi vì kết quả học tập của lớp là một trong
những thước đo trình độ quản lý, khả năng giảng dạy và điều hành lớp hoạt động
của giáo viên chủ nhiệm. Đồng thời, đây cũng là trách nhiệm của giáo viên chủ
nhiệm đối với lớp.
Giáo viên chủ nhiệm là những người thầy được đào tạo về kiến thức, về
nghiệp vụ chuyên môn, bên cạnh đó còn được trang bị những kiến thức về công tác
chủ nhiệm nhằm giáo dục học sinh phát triển toàn diện, trở thành công dân tốt cho
xã hội. Đây là công tác mà bất kì người giáo viên nào có tâm huyết cũng không thể
xem nhẹ. Tuy nhiên công tác chủ nhiệm trong nhà trường hiện nay gặp phải không
ít khó khăn trong việc quản lý, giáo dục học sinh sa sút về đạo đức, thiếu ý thức
trong việc học tập, đặc biệt là những học sinh cá biệt, chậm tiến.
Có ý kiến cho rằng: “Con cái là hình ảnh của cha mẹ”. Trong hệ thống giáo
dục, hình ảnh của giáo viên chủ nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, tình cảm
học sinh trong lớp, hình ảnh người thầy luôn đẹp hơn lên trong mắt học trò. Với
học sinh, giáo viên chủ nhiệm đôi khi là người cha, người mẹ thứ hai của các em,
dìu dắt các em trên con đường tiếp thu tri thức và hình thành nhân cách. Bởi vậy,
người giáo viên chủ nhiệm luôn phải biết tự hoàn thiện mình, là tấm gương sáng để
các em noi theo. Thời gian để giáo viên chủ nhiệm tiếp xúc với học trò của mình
tương đối nhiều vì ngoài những giờ giảng dạy trên lớp, giáo viên chủ nhiệm còn
được tiếp cận với các em qua những giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt 15 phút đầu giờ,
những buổi lao động, những lúc ở nhà,… Những lúc như thế làm cho tình cảm
thầy trò càng gắn bó, gần gũi nhau hơn. Học sinh có nhiều cơ hội để bày tỏ tâm tư


tình cảm với thầy cô và thầy cô chủ nhiệm cũng hiểu học sinh hơn. Như vậy giáo
viên chủ nhiệm là người gần gũi với các em nhiều nhất.
Công tác chủ nhiệm lớp nhìn từ mọi góc độ đều thấy: Đây là công tác
không ít khó khăn, phức tạp, vui ít, buồn nhiều, thành công cũng có, thất bại cũng
không phải là hiếm và tiêu tốn nhiều thời gian. Bởi lẽ, mỗi tập thể lớp đều có đặc
1
thù riêng. Trong số đó, đối tượng học sinh làm cho thầy cô giáo trăn trở nhiều nhất
là lười học, còn vi phạm về đạo đức. Tuy nhiên, trong lớp vẫn có nhiều học sinh
ngoan, biết xây dựng tập thể lớp đạt được những chỉ tiêu của trường đề ra.
Thực tế trong năm học này, bản thân lớp do tôi phụ trách có khoảng 2 học
sinh yếu cả toán, tiếng việt, kể cả các môn khoa học, lịch sử và địa lí. Ngoài 2 em
này ra còn có một số em tiếp thu chậm, hỏng kiến thức.
Cụ thể kết quả khảo sát đầu năm học như sau:

Học lực Giỏi Học lực Khá Học lực T.B Học lực
Yếu
2(7,4%) 10(37%) 10(37%) 5(18,6%)
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:
Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học, hình thành những kĩ năng
sống cho học sinh, góp phần làm giàu tri thức - một hành trang cần thiết cho cuộc
đời của các em, tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm cho riêng mình là “Làm tốt công
tác chủ nhiệm lớp” không thể thiếu đối với giáo viên Tiểu học vì có làm tốt công
tác chủ nhiệm lớp thì chất lượng giáo dục mới được nâng lên.
Qua nhiều năm được phân công chủ nhiệm lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp
này và nhận thấy chất lượng học tập của học sinh có sự chuyển biến rõ rệt, số học
sinh có kĩ năng sống cũng được nâng lên đáng kể.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Khi chọn đề tài này, tôi dựa vào:
- Tình hình thực tế lớp tôi phụ trách.
- Vận dụng những kiến thức thực tế trong thời gian công tác của bản thân,

kiến thức giáo dục phổ thông trên báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng.
II. Phương pháp tiến hành:
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm giải
pháp của đề tài:
1.1. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta đã biết: Những đặc điểm tâm lý, trình độ hiểu biết, vốn sống
của học sinh Tiểu học còn nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo dục toàn diện cho
học sinh, không thể phủ nhận vai trò của giáo viên chủ nhiệm (GVCN). Để làm tốt
điều này, giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện tốt những nhiệm vụ của một thầy cô
giáo, phải nắm được đường lối quan điểm lí luận giáo dục đồng thời giáo dục
những phẩm chất đạo đức rèn luyện năng lực để trở thành công dân tốt mai sau.
Người giáo viên chủ nhiệm phải tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội,
phải rèn luyện và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và kinh nghiệm chủ nhiệm lớp.
2
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay, xã hội đang xuất hiện và nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội đang len lỏi
vào học đường. Những tệ nạn đó ảnh hưởng lớn đến nền tảng đạo đức và thuần
phong mĩ tục của dân tộc. Trong khi đó học sinh của chúng ta là đối tượng rất dễ
bắt chước, rất dễ bị lôi cuốn vào những trò mới lạ đặc biệt là những học sinh cá
biệt. Đứng trước thực tế đó, nhiệm vụ của một người giáo viên chủ nhiệm lại càng
nặng nề hơn bao giờ hết. Làm sao giúp các em hình thành nhân cách? thu hút được
các em gắn bó được với trường với lớp, gắn bó với bạn bè cùng nhau vui chơi học
tập, rèn luyện để tránh xa cái ác, cái xấu đang ở rất gần các em? Hơn lúc nào hết,
các em rất cần sự quan tâm giúp đỡ kịp thời để các em là những học sinh mang
trong mình tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, vô tư của tuổi học trò.
Nếu ví tập thể lớp là một cơ thể sống thì giáo viên chủ nhiệm giống như linh
hồn của cả lớp, là người chịu trách nhiệm trước nhà trường về mọi hoạt động của
lớp, mọi hành vi của học sinh. Chính vì những trách nhiệm nặng nề này mà nếu
giáo viên không thực hiện tốt thì chẳng những ảnh hưởng đến kết quả công tác chủ

nhiệm mà còn ảnh hưởng đến cả công tác giảng dạy.
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp:
2.1. Các biện pháp tiến hành:
2.1.1.Làm tốt công tác hình thành nhân cách, hành vi cuộc sống cho học sinh
trong lớp:
- Người giáo viên chủ nhiệm phải gương mẫu trong tất cả các hoạt động.
- Giáo dục học sinh kết hợp với giáo viên bộ môn.
- Có sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh.
- Tạo điều kiện cho phong trào thi đua của lớp vào nề nếp, quy cũ, phát huy
tính tích cực của học sinh và tinh thần làm chủ tập thể, tự quản của học sinh.
2.1.2.Chăm lo công tác nâng cao chất lượng học tập, nâng dần chất lượng
học tập của học sinh:
- Phân loại đối tượng học sinh.
- Tổ chức học tập cho đối tượng tham gia phong trào mũi nhọn.
- Tổ chức học tập cho đối tượng học sinh yếu kém.
2.1.3.Giáo dục học sinh thông qua các mặt hoạt động khác.
2.2. Thời gian tạo ra giải pháp:
Từ năm học 2008- 2009, Bộ giáo dục và Đào tạo phát động phong trào “ xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh. Điều đó đòi hỏi bản thân tôi cần có những giải pháp mới để
áp dụng vào công tác chủ nhiệm lớp. Trong hai năm qua tôi đã dành nhiều thời
gian cho đề tài nghiên cứu này.
3
B. NỘI DUNG:
I. Mục tiêu:
Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh về trình độ tiếp thu bài học,
năng khiếu cá nhân, nhu cầu hứng thú, thói quen thực hiện các hành vi đạo đức để
tiếp tục giáo dục và phát triển trở thành những mầm mống tài năng của đất nước.
Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, điều kiện học tập, những nhân tố tác động
trong mối quan hệ tổng thể của học sinh.

Tìm hiểu chất lượng học sinh ở những năm học trước để phát triển học sinh
còn hạn chế ở những điểm nào, môn học nào để tìm ra những giải pháp hữu hiệu
tích cực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục để các em có kiến thức vững vàng học
tốt các bậc học trên.
Nhiệm vụ của đề tài này cũng chính là cái đích mình cần đạt tới, tức là kết
quả của học sinh về học lực và hạnh kiểm qua từng năm học.
II. Mô tả giải pháp của đề tài:
1. Thuyết minh tính mới:
1.1. Làm tốt công tác giáo dục hình thành nhân cách, hành vi cuộc sống cho
học sinh trong lớp:
1.1.1. Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm phải là niềm tin, chỗ dựa tinh thần cho học sinh vì học
sinh Tiểu học hầu hết ở độ tuổi mới lớn là lứa tuổi ô mai, mưa nắng thất thường,
rất dễ tự ái, có lòng tự trọng cao. Chỉ cần một sơ suất nhỏ của giáo viên sẽ để lại ấn
tượng không tốt cho học sinh, đặc biệt là các em học sinh cá biệt. Chúng sẽ biến đó
thành trò đùa và không tin vào lời giáo viên nói. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý
đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,
Muốn đạt được như vậy, người giáo viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức,
nâng cao trình độ chuyên môn để xứng đáng làm một người thầy được học sinh
kính trọng và tin yêu.
Giáo viên phải công bằng, xử phạt nghiêm minh, khen thưởng kịp thời, nói
là làm, làm là phải lựa, biết kết hợp cương - nhu trong mọi tình huống. Bởi không
phải lúc nào tình huống đó xảy ra với một em học sinh duy nhất. Không thể có thái
độ chỉ quan tâm đến học sinh khá giỏi mà trù dập, coi thường học sinh cá biệt, mà
phải động viên khuyến khích các em hòa đồng với bạn bè, lễ độ với thầy cô, tích
cực tham gia hoạt động tập thể.
Đối với học sinh cá biệt giáo viên phải bằng tấm lòng nhân ái, bao dung,
không vụ lợi, đến với học sinh bằng chính tình yêu nghề và lương tâm của người
thầy. Để thực hiện được những yêu cầu này – GVCN phải nắm bắt điều kiện, hoàn
cảnh học sinh về kinh tế, về đời sống tình cảm. Giáo dục thông qua các đặc điểm

tâm lý của học sinh: kích thích, gây hứng thú học tập cho học sinh.
Kết hợp giữa gia đình và nhà trường bằng các biện pháp: Gặp gỡ gia đình;
Gặp gỡ những người có uy tín đối với học sinh; Kết hợp với đoàn trường tổ chức
các hoạt động thu hút học sinh.
4
Tiếp xúc với học sinh của lớp chủ nhiệm:
Là giáo viên chủ nhiệm tôi tiếp xúc thường xuyên với học sinh của mình để
tìm hiểu các em biết gì? cần gì? các em là người như thế nào? Có tiếp xúc với các
em như vậy mới kéo ngắn được khoảng cách giữa thầy và trò, tạo sự thân thiện
giúp các em rèn luyện kĩ năng sống, không còn e ngại, rụt rè, tự tin hơn và mạnh
dạn bộc bạch những việc của lớp, những thiếu sót của bản thân. Trong lớp tôi đang
chủ nhiệm có một học sinh kinh tế gia đình rất khó khăn, cha mẹ bỏ nhau nên em
học sinh này rất mặc cảm với bạn bè, không muốn đến lớp. Trong tiết sinh hoạt
lớp, tôi nhắc nhở học sinh trong lớp phải có trách nhiệm với bạn, không trêu đùa ác
ý gây tổn thương cho bạn, phân công các bạn học khá giúp đỡ để bạn cố gắng học
tập. Động viên thăm hỏi gia đình những lúc khó khăn…Với tình yêu thương của
thầy cô và bạn bè, hiện giờ em học sinh đó đã đi học đều, ngoan ngoãn, nghe lời
thầy cô giáo.
Tuy nhiên, khi tiếp xúc với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, tôi phải thật
lựa chọn thời điểm thích hợp để hỏi thăm về gia cảnh để biết được đó có phải là
điều kiện khó khăn, hoặc thuận lợi ảnh hưởng đến học tập, đạo đức của các em
không. Đối với học sinh có gia đình quan tâm, tôi luôn biết phát huy thế mạnh
này. Vì thường học sinh được giáo dục tốt, được chăm lo việc học tập nên chăm
ngoan hơn, chính những học sinh này sẽ là nhân tố tích cực của lớp. Ngược lại,
học sinh gặp phải những khó khăn về gia đình như: kinh tế, con ngoại hôn, cha mẹ
là người lười lao động; giáo viên và tập thể lớp quan tâm giúp đỡ. Đối tượng này
thường tự ti, mặc cảm nên cần phải khéo léo tế nhị trong cách đối xử cũng như
giúp đỡ, không phải lúc nào các em cũng nhận sự quan tâm, giúp đỡ của thầy cô,
bạn bè.
Những buổi lao động, xây dựng trường, sinh hoạt đội, thi làm báo tường…

rất dễ dàng tạo điều kiện để thầy và trò gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn. Tôi
thường hướng dẫn cặn kẽ công việc để các em tự tin phát huy khả năng của mình.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao làm các em tránh được những sai
sót thay vì nhăn nhó, bất lành, giáo viên nên nhẹ nhàng nhắc nhở, hướng dẫn lại.
Có làm như vậy, giáo viên mới giúp các em rút ra được kinh nghiệm, tự tin hơn.
Đặc biệt trong lao động ngoài việc hướng dẫn, phân công công việc thì giáo viên
chủ nhiệm nên cùng học sinh thực hiện những công việc nặng nhọc, khó khăn. Vì
học sinh sẽ không đứng chơi, không chịu lao động khi thấy cô đang làm! Giáo
viên, cùng lao động với các em vừa tạo nên không khí sôi nổi trong buổi lao động,
vừa giáo dục các tính tích cực, không lảng tránh trong lao động. Như vậy có nghĩa
là giáo viên cùng san sẻ niềm vui, nỗi buồn, thành công, thất bại với lớp chủ
nhiệm.
Tiếp xúc với cán bộ lớp, cán sự bộ môn để biết được mọi hoạt động của lớp
là việc làm hết sức cần thiết. Những thông tin về lớp chủ nhiệm chủ yếu là do các
em cung cấp. Nhưng việc làm này luôn có hai mặt, nếu giáo viên không khéo léo
xử lý sẽ dễ dàng biến học sinh thành những kẻ mách lẻo, xoi mói, nói xấu bạn….
5
Giải quyết các vấn đề nảy sinh trong lớp :
Trong một tập thể lớp, việc nảy sinh các vấn đề mỗi buổi học là điều không
thể tránh khỏi, giáo viên chủ nhiệm phải có mặt với lớp vào mười lăm phút đầu giờ
để kịp thời giải quyết những vướng mắc cho các em. Nếu thực hiện tốt khâu sinh
hoạt đầu giờ, học sinh sẽ ổn định tâm thế để bước vào tiết học đầu tiên tốt hơn, kể
cả các tiết học sau.
Sau mỗi buổi học, xét thấy có việc gì cần giải quyết, giáo viên chủ nhiệm
yêu cầu các em ở lại năm, mười phút để làm việc và hàng tuần nên có cuộc họp với
cán bộ lớp. Tuy lớp có lớp trưởng, lớp phó…nhưng giáo viên không hoàn toàn
giao việc cho các em mà phải để ý đến lớp thường xuyên, kịp thời nhắc nhở, động
viên.
Giáo viên chủ nhiệm cần phải biết phát huy khả năng làm việc của cán bộ
lớp, nhất là lớp trưởng. Định hướng cho cán bộ lớp làm việc. Nhiệm vụ của mỗi

em, tôi ghi rõ ràng trong một cuốn sổ, sau đó phát cho các em. Tôi hướng dẫn từng
em cách ghi chép trong sổ một cách khoa học, cụ thể, rõ ràng. Mỗi em sẽ làm đúng
các nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, lớp trưởng, các lớp phó và các tổ trưởng phải
đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với nhau trong công việc chung. Cuối mỗi tuần, vào tiết
sinh hoạt lớp ngày thứ sáu, lớp trưởng, lớp phó, các tổ trưởng báo cáo các mặt hoạt
động của lớp. Tôi tôn trọng ý kiến đề xuất, cách làm việc của các em, giáo viên
giúp cán bộ lớp làm việc là chính thay vì làm tất cả. Cán bộ lớp gần gũi, sát với lớp
nhiều hơn giáo viên chủ nhiệm nên các em giúp giáo viên giải quyết các vấn đề
của lớp nhanh hơn, có hiệu quả tốt, giáo viên chủ nhiệm sẽ đỡ vất vả hơn. Giáo
viên không để việc học sinh lạm dụng việc phê bình và tự phê bình. Những em vi
phạm nội quy phải nhận thấy sai lầm của mình, các em phải biết hối hận và xấu
hổ. Tập thể lớp cũng không nên tập trung vào sai sót của bạn mà phê bình, chỉ
trích, nặng lời thay vì giúp bạn tiến bộ thì ngược lại học sinh sẽ lì lợm hơn, phá
phách hơn, xa rời tập thể có khi cố tình phá lớp. Thực tế đã chứng minh rằng
những học sinh này thường thể hiện tinh thần tập thể cao trong những buổi lao
động, cắm trại.
Giáo viên chủ nhiệm cần chú ý đến việc khen chê kịp thời đối với học sinh.
Giáo viên không thiên vị, phải công minh trong khi khen cũng như chê các em.
Những lời động viên khi các em làm việc tốt, những lời nhắc nhở khi các em làm
sai có tác dụng rất lớn đến việc tự rèn luyện của các em.
Như vậy việc gì cần giải quyết giáo viên chủ nhiệm giải quyết kịp thời sau
mỗi buổi học, không đợi đến sinh hoạt lớp. Làm như vậy rất dễ dàng chấn chỉnh nề
nếp của tập thể. Điều hết sức quan trọng là cách đối xử, xử lý học sinh cá biệt
không nên quá nghiêm khắc. Khen chê học sinh phải công minh, có làm được như
vậy học sinh mới kính trọng và tin yêu.
1.1.2. Giáo dục học sinh kết hợp với giáo viên bộ môn.
Việc phối kết hợp với giáo viên bộ môn trong việc hình thành nhân cách cho
học sinh là việc làm rất cần thiết bởi dù muốn hay không thì GVCN không phải lúc
nào cũng có mặt trên lớp của mình. Vì vậy những đổi thay của các em rất cần sự
quan tâm của các thầy cô giáo.

6
Phương pháp giảng dạy mỗi giáo viên có sự khác nhau. Bên cạnh đó còn tuỳ
thuộc vào đặc trưng bộ môn. Một số học sinh lười học cho rằng thầy cô dạy khó
hiểu, yêu cầu cao…nên đôi khi không hợp tác hoặc có thái độ không đúng mực
với thầy cô bộ môn. Giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt kịp thời để giáo dục học
sinh vì thế việc phối hợp với giáo viên bộ môn là việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên,
để xác minh thông tin từ phía học sinh, giáo viên chủ nhiệm nên khéo léo tiếp xúc
với giáo viên bộ môn để tường tận hơn trước khi đi đến kết luận. Tránh độc đoán,
phiến diện gây bức xúc, căng thẳng cho học sinh và cả giáo viên. Vừa đảm bảo
giáo dục được học sinh vừa bảo vệ được uy tín đồng nghiệp…
1.1.3. Mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh:
Việc giáo dục học sinh trong nhà trường ta là sự kết hợp nhà trường với
đoàn thể, địa phương, gia đình…Trong đó, mối quan hệ giữa gia đình và nhà
trường nhất là đối với giáo viên chủ nhiệm là hết sức cần thiết. Chính vì vậy, công
tác chủ nhiệm của một giáo viên thành công hay không đừng bao giờ quên gia đình
học sinh là yếu tố quan trọng.
Với tôi việc đến thăm gia đình học sinh rất cần thiết. Đến với gia đình những
học sinh khá nhằm để biết thêm về hoàn cảnh gia đình, phương pháp học tập…của
các em. Từ đó giáo viên có thể có những thông tìn cần thiết về học sinh để cho gia
đình biết …Thường thường, dù ở đối tượng nào phụ huynh cũng rất mong thầy
cô quan tâm đến con em mình nên chắc chắn sẽ tạo hiệu quả trong công tác tuyên
truyền vận động. Từ đó nhiều gia đình sẽ lo lắng, quan tâm đến con cái nhiều hơn
khi biết thêm con mình từ giáo viên chủ nhiệm.
Đối với học sinh hay nghịch, có biểu hiện không tốt về đạo đức, việc giáo
viên chủ nhiệm đến nhà thăm gia đình là hết sức cần thiết. Vì đa số học sinh gia
đình lao động nghèo, cha mẹ ít có thời gian quản lý, chỉ bảo chuyện học hành của
con cái, thường giao con mình cho thầy cô, khi được giáo viên chủ nhiệm báo cho
biết về tình hình học tập, rèn luyện đạo đức họ mới vỡ lẽ. Có gia đình thực sự khổ
tâm vì con, nhưng cũng có gia đình rất “tỉnh”, xem như chẳng có chuyện gì, thậm
chí chẳng cần thiết phải nghe thông tin từ giáo viên. Nếu vậy, giáo viên chủ nhiệm

không được nản lòng phải kiên trì gặp một lần, hai lần…để cùng nhau bàn bạc về
việc giáo dục học sinh đến khi nào có kết quả. Và điều cần lưu ý là khi giáo viên
chủ nhiệm trao đổi cùng phụ huynh học sinh phải có mặt các con.
Khi gặp phụ huynh của học sinh cá biệt, muốn có tác dụng tốt bản thân tôi
thấy có thể thực hiện một số giải pháp sau:
Có thể lần đầu đến thăm gia đình mà không bàn chuyện giáo dục học sinh.
Nếu muốn bàn chuyện giáo dục các em phải thật bình tĩnh, trao đổi ôn hoà, không
để phụ huynh có cảm nhận là mình mắng khéo. Cố nói làm sao để cho họ thấm
thay vì làm cho họ tức. Không đổ thừa trách nhiệm cho gia đình mà phải khéo léo
điều chỉnh mọi vấn đề theo đúng hướng.
Theo tôi, việc đến thăm gia đình của các em sẽ giúp cho phụ huynh biết khá
tường tận về con em mình. Từ đó, phụ huynh sẽ tích cực phối hợp với nhà trường
trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. GVCN phải coi đây là việc làm thường
7
xuyên, tuy mất nhiều thời gian của giáo viên chủ nhiệm nhưng chắc chắn sẽ mang
lại hiệu quả.
1.2. Chăm lo công tác nâng cao chất lượng học tập, nâng dần chất lượng học
tập của học sinh:
1.2.1. Học sinh giỏi, phong trào thi violympic Toán:
Đây là bước đầu tiên rất quan trọng trong công tác chủ nhiệm lớp. Ngay từ
đầu năm học, khi tiếp nhận lớp tôi để ý những em có kết quả học tập khá, giỏi ở
năm học trước, điều tra xem các năm trước những em này có tham gia thi
violympic Toán hay không(thường là những em tham gia nhưng không có giải bởi
vì những em thi đạt giải thường được nhà trường tuyển qua lớp chọn rồi). Tôi ra
một đề toán khảo sát cho những em này. Sau khi phân loại trình độ học sinh, tôi
bắt đầu đầu tư cho những em này để có thể thi violympic Toán. Những em học
sinh này học được hơn các bạn trong lớp, tốc độ hoàn thành bài nhanh hơn. Trong
các tiết học Toán, những em này cùng với các bạn trong lớp làm 3 bài - 4 bài tập
dạng cơ bản và làm thêm khoảng 2 bài tập nâng cao. Cuối mỗi buổi học tôi dành ra
10 – 15 phút ra thêm bài tập nâng cao về nhà cho các em. Sau mỗi vòng tự luyện

violympic Toán, các em tự luyện ở nhà, nếu gặp bài toán khó, giải không được, tôi
yêu cầu các em ghi đề ra vở nháp, hôm sau đi học trực tiếp đưa cho cô giáo giảng
và phân tích cách làm. Cứ thế những bài toán nâng cao được các em tiếp cận. Mưa
dần thấm lâu, dần dần các em có thể giải được những bài toán khó.
1.2.2. Tìm hiểu kỹ về học sinh yếu, kém của lớp.
Khi tiếp nhận lớp cùng với việc để ý những em có kết quả học tập khá, giỏi
ở năm học trước, tôi quan tâm tìm hiểu kỹ những em học sinh học tập yếu kém và
lập danh sách riêng, ghi cụ thể từng em yếu kém đồng thời qua kỳ kiểm tra chất
lượng đầu năm, tôi tiếp tục kiểm tra lại khả năng học tập của học sinh yếu kém và
lập hồ sơ ban đầu về các em trong sổ tay chủ nhiệm của mình. Sau đó tôi tìm hiểu
kỹ hoàn cảnh gia đình của những em này. Bởi vì: nguyên nhân học sinh có kết quả
học tập yếu kém tuy có nhiều song hoàn cảnh gia đình học sinh là một trong những
nguyên nhân có tác động mạnh nhất đến việc học tập của các em. Học sinh học tập
yếu kém do phần lớn hoàn cảnh gia đình khó khăn, ngoài giờ học các em phải làm
việc, phụ giúp gia đình không có thời gian học tập ở nhà hoặc các bậc phụ huynh
không dành nhiều thời gian quan tâm đến việc học tập của các em, hoặc môi
trường giáo dục tại gia đình chưa tốt, chưa thường xuyên động viên các em học
tập.
Bản thân học sinh học tập yếu kém do lười học hoặc “sợ học” do trong
những năm học lớp dưới, kiến thức cơ bản bị hổng khá nhiều nên việc tiếp thu bài
giảng của lớp đang học khó khăn. Khi học tập trên lớp không hiểu bài, khó thuộc
bài và không còn hứng thú trong việc học tập.
Chính từ nhận thức này, tôi đã làm bước phân loại học sinh yếu kém dựa
trên các tiêu chí: về hoàn cảnh gia đình, bản thân học sinh và hoàn thành việc điều
tra cơ bản ban đầu đối với học sinh yếu, kém của lớp, tôi xây dựng kế hoạch tổ
chức học tập và theo dõi đối tượng này.
8
1.2.3. Tổ chức học tập cho học sinh yếu kém:
1.2.3.1. Theo dõi và giúp đỡ cho học sinh yếu kém trong việc tiếp thu bài giảng
trên lớp.

Kiến thức cơ bản của học sinh yếu kém bị “hổng” rất nhiều từ những năm ở
lớp dưới và không thành hệ thống như học sinh khá giỏi nên việc tiếp thu kiến thức
mới trong chương trình học gặp nhiều khó khăn. Do đó trong quá trình giảng dạy
trên lớp, tôi thường xuyên kiểm tra mức độ hiểu bài giảng và khả năng vận dụng lý
thuyết trong khi làm bài tập của học sinh yếu kém để bổ sung, hướng dẫn học sinh
yếu kém nhiều hơn và thường xuyên nhắc lại kiến thức cũ cho các em. Tuy nhiên
do quy định về thời gian và nội dung tiết dạy nên cần phải cho học sinh yếu kém
học phụ đạo theo kế hoạch chung của trường. Những buổi học phụ đạo rất cần thiết
đối với các em yếu kém.
1.2.3.2. Phân công học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém.
Trong mỗi lớp học tỉ lệ học sinh khá giỏi, trung bình, yếu kém không như
nhau, tùy tình hình thực tế mỗi năm tôi phân công học sinh khá giỏi giúp đỡ học
sinh yếu kém. Động viên và phát huy tinh thần giúp bạn “vượt khó” thông qua các
chương trình hoạt động của Đội, lớp tôi đã giao nhiệm vụ cho một số học sinh khá
giỏi, có điều kiện học tập tốt giúp đỡ học sinh yếu kém trong việc học tập trên lớp
và ở nhà. Thường xuyên kiểm tra việc giúp đỡ này, động viên, biểu dương tinh
thần giúp đỡ bạn của các em học sinh khá giỏi và tinh thần cố gắng vươn lên trong
học tập của các em yếu kém. Trong mỗi tuần sinh hoạt lớp tôi đều nhận xét, tuyên
dương đôi bạn học tốt.
Thực tế cho thấy việc sử dụng biện pháp này đã có kết quả tốt, góp phần hạ
thấp tỉ lệ học sinh yếu kém qua mỗi học kỳ và qua mỗi năm học của lớp mà tôi đã
được phân công làm giáo viên chủ nhiệm.
1.2.3.3. Theo dõi, giúp đỡ học sinh yếu kém khi học tập ở nhà.
Thời gian trên lớp học sinh yếu kém phải tiếp thu nhiều kiến thức mới và
giáo viên phải thực hiện tiết dạy đúng nội dung chương trình nên không có nhiều
thời gian để hướng dẫn và kiểm tra mức độ hiểu bài lí thuyết và vận dụng làm bài
tập của các em này như thế nào. Do vậy, việc theo dõi, giúp đỡ cho các em khi học
tập ở nhà là rất cần thiết. Vấn đề này cần có sự quan tâm phối hợp cùng theo dõi
của gia đình các em. Tôi đã đến nhiều gia đình của học sinh yếu kém để tìm hiểu,
hướng dẫn cho các em biết cách tự học ở nhà, sắp xếp công việc hợp lí, giảm bớt

thời gian vui chơi giải trí để dành thời gian cho việc học. Trong việc này cũng có
nhiều khó khăn do hoàn cảnh gia đình các em và bản thân một số em không thật sự
cố gắng học, lười học phải mất nhiều thời gian, công sức động viên và thuyết phục,
nhất là đối với học sinh cá biệt.
1.2.3.4. Động viên tinh thần ham học của các em học sinh yếu kém để nâng cao kết
quả học tập.
Đây là vấn đề khó khăn đối với các giáo viên chủ nhiệm, bởi học sinh yếu
kém thường yếu về tinh thần học tập, ít chịu khó, ham chơi không cố gắng trong
học tập, ham chơi hơn ham học. Tôi phải sử dụng nhiều cách để việc áp dụng biện
9
pháp này sao cho có hiệu quả nhất. Trên lớp, mỗi tuần sinh hoạt lớp tôi đều giáo
dục, nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa của việc học của học sinh để tác
động đến tư tưởng của các em học sinh yếu kém, biểu dương, khuyến khích một số
em học sinh yếu kém có tiến bộ hơn trong việc học, trong sinh hoạt, thông tin (kể)
cho các em biết về những tấm gương “vượt khó học giỏi” qua báo chí và trong
trường, trong lớp để động viên các em, kích thích tinh thần cố gắng học tập của các
em học sinh yếu kém. Tôi thường khuyến khích bằng cách cho điểm “động viên”
đối với các em này, không yêu cầu cao về kết quả làm bài tập kiểm tra như đối với
các em học sinh khá giỏi. Đồng thời tôi sử dụng biện pháp này đối với học sinh
yếu kém của lớp để cùng động viên các em. Kết quả học tập đều ở các môn có tác
dụng lớn đối với các em, kích thích tinh thần học tập của các em.
1.3. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động giáo dục
khác:
Thực tế hiện nay có nhiều em học kiến thức về Toán, Tiếng Việt,…rất tốt,
thi đạt rất nhiều giải nhưng kĩ năng sống lại chưa được, không biết làm bất cứ việc
gì ngoài việc học. Liên tiếp trong 3 năm vừa qua bản thân tôi cũng như các thầy cô
dạy khối lớp Bốn được tập huấn về truyền thông nâng cao nhận thức chất thải rắn,
tôi đã đem những kiến thức này truyền đạt lại cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm, tôi
phối hợp với Đội, với nhà trường để tổ chức những giờ chào cờ vui, thi rung
chuông vàng về kiến thức môi trường, các em cũng được nghe chương trình phát

thanh măng non về truyền thông chất thải rắn và lớp tôi chủ nhiệm cũng đạt được
những kết quả: giải nhì rung chuông vàng, giải khuyến khích vẽ tranh về môi
trường. Từ đó các em có kiến thức nên cũng đã vận dụng vào thực tế: các em thấy
rác trên sân trường đều tự giác nhặt bỏ vào thùng rác theo quy định, biết phân loại
rác. Không những các em chỉ thực hiện tốt ở trường, ở lớp mà về nhà còn biết vận
dụng vào gia đình của mình, phụ giúp cha mẹ. Các em có ý thức giữ gìn vệ sinh
chung, giữ vệ sinh môi trường.
Ngoài ra, trong các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, các tiết sinh hoạt Đội,…
các kiến thức về an toàn giao thông các em nắm vững và thực hiện tốt.
2. Khả năng áp dụng:
2.1. Thời gian áp dụng có hiệu quả:
Đề tài này tôi đã xây dựng, áp dụng qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm
lớp tôi thấy có hiệu quả và năm học này tôi tiếp tục thực hiện.
2.2. Có khả năng thay thế giải pháp hiện có:
Trong suốt những năm được phân công chủ nhiệm lớp, tôi nhận thấy nếu
như giáo viên không thực sự yêu nghề, không tâm huyết với nghề, không trách
nhiệm với lớp, làm công tác chủ nhiệm không tốt thì chất lượng toàn diện sẽ không
cao. Vì vậy, để chất lượng giáo dục được nâng lên thì tôi đã luôn cố gắng xây dựng
lớp có nề nếp để hòa vào nề nếp chung của nhà trường. Xây nền vững chắc về kiến
thức văn hóa cho các em, tạo điều kiện cho các em tự học, đón nhận thành quả học
tập và rèn luyện mình một cách xứng đáng, tiếp bước vững chắc trên con đường
học vấn.
10
2.3. Khả năng áp dụng ở đơn vị hoặc trong ngành:
Qua áp dụng sáng kiến trên vào thực tế lớp mình phụ trách, tôi thấy đề tài
này có tính khả thi và có khả năng vận dụng vào thực tế cho tất cả các khối lớp
trong trường để nâng cao chất lượng học tập của học sinh cả về phong trào mũi
nhọn và chất lượng đại trà cũng như việc hình thành nhân cách cho các em.
3. Lợi ích kinh tế - xã hội:
3.1.Thể hiện rõ lợi ích có thể đạt dược đến quá trình giáo dục, công tác:

Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc hình thành nhân cách và nâng
cao chất lượng học tập cho học sinh là vô cùng to lớn. Có làm tốt công tác chủ
nhiệm lớp thì chất lượng giáo dục mới được nâng lên, nhân cách của các em được
hình thành, khả năng giao tiếp, ứng xử của các em cũng tốt hơn, các em dần dần
được hoàn thiện, góp phần làm giàu tri thức – một hành trang cần thiết cho các em
để các em có thể học lên các bậc học trên, một hành trang cần thiết cho cuộc đời
các em.
3.2. Tính năng kĩ thuật, chất lượng, hiệu quả sử dụng:
Khi tôi thực hiện đề tài này đối với những lớp tôi chủ nhiệm kết quả đem lại
như sau:
+ Năm học 2012- 2013:
- Hạnh kiểm: không có học sinh vi phạm về đạo đức, 100% học sinh thực
hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ của học sinh.
- Học lực cuối năm:
Học lực Giỏi Học lực Khá Học lực T.B Học lực
Yếu
16(51,6%) 12(38,7%) 3(9,7%) 0
+ Năm học 2013-2014:
- Hạnh kiểm cuối học kì I: không có học sinh vi phạm về đạo đức, 100% học
sinh thực hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ của học sinh.
- Học lực:
Kết quả khảo sát đầu năm học:
Học lực Giỏi Học lực Khá Học lực T.B Học lực
Yếu
2(7,4%) 10(37%) 10(37%) 5(18,6%)
Kết quả học lực cuối học kì I:
Học lực Giỏi Học lực Khá Học lực T.B Học lực
Yếu
6(22,2%) 16(59,3%) 3(11,1%) 2(7,4%)
11

3.3. Tác động xã hội tích cực, cải thiện môi trường, điều kiện lao động:
Nhờ có làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, ý thức tự giác của các em dần được
nâng lên, các em dần hoàn thiện mình. Trong các buổi học chính khóa hoặc hoạt
động ngoài giờ lên lớp giáo viên đỡ vất vả về khâu quản lí các em.

C. KẾT LUẬN:
I. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp:
Theo tôi, muốn trở thành một nhà sư phạm, một giáo viên chủ nhiệm lớp tốt,
khéo léo, tinh tế trong ứng xử và thành công trong việc giáo dục học sinh thì mỗi
người giáo viên chủ nhiệm cần phải:
1. Tìm hiểu để biết được một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu
rõ hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lí, tính cách, sở thích, thói quen,…của từng
học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp.
2. Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng Ban cán sự lớp, huấn luyện để các em
trở thành những “ người lãnh đạo nhỏ” tài ba.
3. Luôn giữ được sự bĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu
đáo nguyên nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn.
4. Luôn biết khích lệ, biểu dương các em kịp thời để các em có niềm tin và
hứng thú học tập hơn.
5. Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thầy
đối với học sinh. Hãy nhớ rằng lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy
luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh.
6. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, kiên trì vận động phụ huynh
học sinh tích cực tham gia vào công tác giáo dục học sinh.
II. Những triển vọng trong việc vận dụng giải pháp và phát triển giải pháp:
Với các giải pháp mang tính mới đã nêu trên, bản thân tôi thấy sẽ vận dụng
được tất cả các khối lớp trong trường Tiểu học.
II. Đề xuất, kiến nghị:
Mỗi giáo viên chủ nhiệm cần phải có tâm huyết với nghề, hãy xem tập thể
lớp mình chủ nhiệm là một mái ấm gia đình vì chỉ có những giáo viên thực sự tâm

huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành
tốt nhiệm vụ.
Ngoài việc vận dụng vào lớp tôi chủ nhiệm, tôi mong rằng nhà trường góp ý
và cho áp dụng với tất cả các lớp trong trường./.
Người viết
Nguyễn Thị Đạm
12
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT CẤP TRƯỜNG
Bồng Sơn, ngày tháng năm 2014.
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT PHÒNG GD - ĐT
Bồng Sơn, ngày tháng năm 2014.
13

×