Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

thực trạng và giải pháp về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.16 KB, 47 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KTQD
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ ĐẦU TƯ
o0o
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT TẠI HÀ NỘI
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thu Hà
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thanh Hưng
Lớp : Đầu tư 41B
Chuyên ngành : Kinh tế Đầu tư
HÀ NỘI 11/ 2002
A- LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống sản xuất ngày càng sâu và rộng, hệ thống
cơ sở hạ tầng đóng một vai trò hàng đầu trong việc bảo đảm , duy trì và nâng
cao tính cạnh tranh, thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ, giao lưu
du lịch văn hoá, đào tạo, … tạo điều kiện cho những ngành kinh tế mũi nhọn và
chủ lực phát triển.
Trong bối cảnh đó, với đường lối đổi mới của Đảng, cơ chế quản lý mới,
thông thoáng và phù hợp quy luật phát triển đã dần dần phát huy mọi tài năng,
trí sáng tạo của người dân Thủ đô, đưa công cuộc phát triển kinh tế, văn hoá xã
hội và xây dựng Thủ đô bước sang một giai đoạn mới với những thành quả tốt
đẹp.
Suốt hơn 10 năm liền, Hà Nội luôn là một trong số các địa phương đạt tốc độ
phát triển kinh tế cao trong cả nước. Thành phố cũng tập trung đầu tư lớn vào
việc cải tạo và tăng cường cơ sở hạ tầng đô thị. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ
tầng đô thị ở Hà Nội còn chưa đồng bộ và có phần quá tải. Bởi vậy, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII đã xác định nhiệm vụ trong giai
đoạn hiện nay cũng như sắp tới của Thủ đô: “ Bảo đảm ổn định vững chắc về
chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế khoa học công nghệ, văn hoá


xã hội toàn diện, bền vững, xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất kỹ thuật và xã
hội của Thủ đô giàu đẹp, văn minh, thanh lịch, hiện đại, … phấn đấu trở thành
một trung tâm ngày càng có uy tín ở khu vực, xứng đáng với danh hiệu “ Thủ đô
anh hùng ”.
Do kinh nghiệm chưa có nhiều và nguồn tài liệu còn hạn chế nên em rất
mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để em có những hướng điều chỉnh
kịp thời chuẩn bị cho chuyên đề thực tập và luận văn sắp tới.
Để hoàn thành đề tài “ Thực trạng và giải pháp về đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng kỹ thuật tại Hà Nội ” em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thu Hà
đã tận tình hướng dẫn và các bạn đã giúp đỡ về nguồn tài liệu.
2
B – NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I - ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
1. Khái niệm đầu tư.
Theo cách hiểu đơn giản thì đầu tư là sự bỏ vốn dài hạn trong kinh doanh
nhằm mục đích lợi nhuận. Nói rõ hơn thì đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh các
nguồn lực ( tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ ) ở hiện tại nhằm đạt
được những kết quả có lợi ( sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất,
tài sản trí tuệ ) cho nhà đầu tư trong tương lai.
2. Khái niệm đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành
các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền KTQD, tăng năng lực sản xuất
kinh doanh và mọi hoạt động đời sống xã hội cũng được đảm bảo và nâng cao,
là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao mức sống cho mọi thành viên
trong xã hội.
Như vậy, đối với nền kinh tế, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền
sản xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng và cần thiết phải có hoạt động
đầu tư để duy trì nguồn lực, tái sản xuất và phát triển.

3. Vai trò của đầu tư đối với phát triển kinh tế xã hội.
a) Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu.
b) Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
c) Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
d) Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
3
Như vậy, có thể nói đầu tư là một yếu tố quyết định sự tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế.
4. Các nguồn hình thành vốn đầu tư.
4.1. Khái niệm vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là phần tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh
dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn lực khác được
đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có
và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất kinh doanh dịch vụ, sinh hoạt xã hội và
sinh hoạt trong mỗi gia đình.
4.2. Nội dung của vốn đầu tư.
Để tiến hành một công cuộc đầu tư phát triển đòi hỏi phải xem xét các
khoản chi phí sau đây:
+ Chi phí để tạo ra các TSCĐ mới hoặc bảo dưỡng sự hoạt động của các
TSCĐ có sẵn.
+ Chi phí để tạo ra hoặc tăng thêm các TSLĐ.
+ Chi phí chuẩn bị đầu tư.
+ Chi phí dự phòng cho các khoản chi phí phát sinh không dự kiến trước
được.
4.3. Các nguồn hình thành vốn đầu tư.
a) Nguồn vốn đầu tư trong nước
Là nguồn vốn có vai trò chủ chốt, quyết định tới sự tăng trưởng phát triển
liên tục và ổn định. Nguồn vốn này bao gồm:
- Tiết kiệm từ ngân sách:
4

Nguồn vốn này được sử dụng để đầu tư cho các dự án nghiên cứu hệ thống
kinh tế kỹ thuật, kinh tế xã hội (dân số, giáo dục, y tế, bảo hiểm, văn hoá, an
ninh, ) hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần có sự tham
gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng
thể, phát triển kinh tế xã hội, vùng lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông
thôn.
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước:
Là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang
phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Nó
tập trung vào đầu tư các dự án sản xuất kinh doanh theo hướng ưu tiên của kế
hoạch Nhà nước. Nhờ áp dụng chính sách doanh nghiệp kinh doanh “ tự vay, tự
trả, tự chịu trách nhiệm ”, nhiều doanh nghiệp và lĩnh vực đã phát triển tốt, sản
xuất hàng hoá và dịch vụ có sức cạnh tranh khá. Nguồn vốn này có tác dụng làm
giảm đáng kể sự bao cấp vốn của Nhà nước, chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH - HĐH, khuyến khích phát triển kinh tế xã hội ngành, vùng,
lĩnh vực theo định hướng chiến lược quốc gia, thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế và phát triển xã hội.
- Vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước:
Bao gồm vốn ngân sách ( lấy từ phần tích luỹ của ngân sách, vốn khấu hao
cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách ), vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, phát
hành trái phiếu, vốn góp liên doanh liên kết với cá nhân và tổ chức trong nước
hoặc ngoài nước Việc đổi mới cơ chế đầu tư cho lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh từ ngân sách Nhà nước sang nhiệm vụ do chính doanh nghiệp Nhà nước
tự huy động bằng nguồn khấu hao cơ bản, lợi nhuận sau thuế và tự huy động từ
các nguồn vốn khác, là một đổi mới rất quan trọng để từng bước điều chỉnh mối
quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước một cách hợp lý hơn. Hiện
nay, vốn của doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư còn hạn chế do hiệu quả hoạt
động của khu vực doanh nghiệp Nhà nước thấp, nhiều doanh nghiệp làm ăn còn
5
thua lỗ nên việc huy động nguồn vốn tự có hoặc phần lợi nhuận sau thuế của các

doanh nghiệp Nhà nước để đưa vào đầu tư là rất khó khăn.
- Vốn khu vực tư nhân:
Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư được huy động từ nguồn tiết kiệm và vốn
nhàn rỗi trong dân cư. Nguồn vốn này thường đầu tư gián tiếp vào nền kinh tế
thông qua các kênh tài chính hoặc đầu tư trực tiếp vào các ngành thương mại
dịch vụ, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Quy mô của nguồn vốn này bị
phụ thuộc bởi thu nhập của các hộ, tập quán tiêu dùng của dân cư, chính sách
động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế và khoản đóng góp đối với
xã hội. Đầu tư của tư nhân và khu vực dân cư đã góp phần rất quan trọng vào
việc tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống dân cư, nhất là tạo công ăn việc làm
cho cả nông thôn, thành thị.
- Thị trường vốn:
Cốt lõi của nó chính là thị trường chứng khoán, là nơi thu gom mọi nguồn
vốn từ tiết kiệm của dân, doanh nghiệp đến Chính phủ Trung ương, Chính quyền
địa phương và các tổ chức tài chính.
b) Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Đây là sự chu chuyển vốn từ nước này sang nước khác tạo thành dòng lưu
chuyển vốn quốc tế. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức, mỗi hình thức
có đặc điểm, mục tiêu, điều kiện thực hiện riêng, bao gồm:
- Nguồn viện trợ phát triển chính thức ( ODA ):
Là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức ( của chính quyền Nhà nước
hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước
đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các
nước này.
6
Đây là nguồn vốn hiện tồn tại một số khuyết nhược điểm như do bị co kéo
mà dàn trải, dở dang nhiều, còn mang nặng tính chất “ xin – cho ”, việc quy
hoạch và dự báo còn nhiều sai sót, mang nặng tính chủ quan, duy ý chí, lại chậm
được điều chỉnh khi tình hình thay đổi, trong tổ chức thực hiện còn thất thoát
không nhỏ.

- Vốn tín dụng thương mại:
Lãi suất tương đối cao ứng với thị trường vốn quốc tế, thủ tục vay vốn khắt
khe và thời gian trả nợ nghiêm ngặt, thời gian vay ngắn hạn thường được dùng
để đáp ứng xuất nhập khẩu, không gắn với sự ràng buộc về chính trị xã hội.
Nguồn vốn này sẽ tăng khi GDP tăng và xuất khẩu tăng.
- Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài ( FDI ):
Là vốn các doanh nghiệp, cá nhân của một nước này đầu tư vào một hay
nhiều doanh nghiệp ở nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá
trình sử dụng, thu hồi vốn đã bỏ ra.
Đây là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế, nó không
chỉ cung cấp nguồn vốn mà nó còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ,
đào tạo cán bộ kỹ thuật và tìm thị trường tiêu thụ ổn định, tạo ra một khu vực
kinh tế có trình độ thiết bị kỹ thuật công nghệ khá. Mặt khác, vốn FDI còn gắn
với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn.
Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài diễn ra gay gắt thì việc cải tạo môi trường đầu tư, tháo gỡ các ách tắc đang
cản trở từ thủ tục đất đai, chi phí đến thuế má và có sự ưu đãi, khuyến khích
hơn nữa mới có thể duy trì và đẩy mạnh được nhịp độ thu hút nguồn vốn quan
trọng này.
II – VÀI NÉT VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
7
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là toàn bộ những công trình như giao thông vận tải,
cấp thoát nước, điện, thông tin liên lạc, … có chức năng đảm bảo kỹ thuật cho
hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt hàng ngày của người dân, là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá mức độ hiện đại hoá của mỗi
quốc gia.
2. Vai trò của cơ sở hạ tầng kỹ thuật đối với phát triển kinh tế xã hội.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là yếu tố quan trọng giúp cho mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh được tiến hành một cách thuận lợi và có hiệu quả. Vai trò của nó

được biểu hiện qua những mặt sau:
2.1. Quyết định sự tăng trưởng và phát triển của các ngành, các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật cung cấp các dịch vụ cho nhiều ngành trong nền kinh
tế quốc dân, đảm bảo cho quy trình sản xuất và tái sản xuất được thường xuyên,
liên tục với quy mô ngày càng mở rộng. Trên cơ sở đó đưa nền kinh tế thoát
khỏi tình trạng trì trệ đi đến tăng trưởng và phát triển.
2.2. Tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong nước.
Nước ta có bảy vùng kinh tế lớn, những vùng có nhiều đô thị lớn và cơ sở hạ
tầng kỹ thuật tốt thì phát triển nhanh còn những vùng sâu vùng xa ít được đầu tư
vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật nên kinh tế còn lạc hậu, dẫn đến tình trạng mất cân
đối. Do đó, để giảm bớt sự phát triển không đồng đều giữa các vùng thì cần phải
chú ý tới đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật như đường xá, cầu cống, điện nước,
… cho các vùng trong cả nước.
2.3. Tạo ra sự thay đổi căn bản trong cơ cấu nền kinh tế.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại giúp cho nhiều ngành nghề mới ra đời và
phát triển đặc biệt trong sản xuất công nghiệp và hoạt động dịch vụ. Sự phát
triển của nông thôn nước ta trong những năm qua đã khẳng định được điều này.
8
Trước đây, ở nông thôn giao thông chưa phát triển, đường xá chưa được nâng
cấp, thiếu điện, thông tin liên lạc còn lạc hậu, … làm cho hoạt động sản xuất
chậm phát triển. Nhưng đến nay, nhờ cơ sở hạ tầng kỹ thuật được hiện đại hoá
cho nên nền sản xuất ở nông thôn đã được thay đổi đáng kể, cơ cấu nông nghiệp
trong GDP ngày càng giảm, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng.
2.4. Là cơ sở để thu hút đầu tư nước ngoài.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy muốn thu hút đầu tư nước ngoài thì cần
phải tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi trong đó cơ sở hạ tầng kỹ thuật là nhân tố
quan trọng.
2.5. Tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.

Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển cho phép tạo ra nhiều cơ sở sản xuất mới,
góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đồng thời phân bổ
nguồn lao động hợp lý hơn. Hơn nữa, với công nghệ kỹ thuật cao nên hoạt động
hiệu quả hơn mang lại nhiều lợi nhuận tạo thu nhập cao cho người lao động.
III - ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT.
1. Đặc điểm dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
+ Dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị là những dự án sử dụng vốn
ngân sách và vốn viện trợ ODA là chủ yếu. Những công trình hạ tầng kỹ thuật
được xây dựng chủ yếu mang tính xã hội hơn là tính kinh doanh nên hầu như là
các dự án của Nhà nước, sử dụng khối lượng vốn lớn từ ngân sách hay là các dự
án của tổ chức chính phủ, phi chính phủ thực hiện dưới hình thức viện trợ không
hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi trong thời gian dài.
+ Thành quả của công cuộc đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật thường được
phát huy tác dụng sau một thời gian dài, hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo
dựng lên. Do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó đều ảnh hưởng đến quá
9
trình thực hiện đầu tư cũng như khi nó đi vào hoạt động. Điều này yêu cầu các
nhà đầu tư cần phải nghiên cứu kỹ mọi yếu tố ảnh hưởng đến dự án để đảm bảo
việc thực hiện đầu tư được liên tục và thuận lợi.
+ Đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật là hoạt động đầu tư có tính liên ngành,
cần có sự tham gia của các Bộ, các cấp, các ngành có liên quan.
+ Rất khó tính hiệu quả. Các chỉ tiêu hiệu quả có thể là:
Tổng giá trị sản xuất ( GO ): là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ tạo ra
trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ) do lao động trong các ngành
kinh tế quốc dân tạo ra.
Tổng sản phẩm trong nước ( GDP ): phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của
hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định ( thường là một
năm ), đó là giá trị gia tăng của các ngành kinh tế trong một lãnh thổ hay một
quốc gia.
Suất đầu tư ( ICOR ): phản ánh mối quan hệ giữa vốn đầu tư với mức gia

tăng GDP, là mức vốn đầu tư cần thiết làm tăng thêm một đơn vị GDP.
Số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc làm tính
trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư.
Tiết kiệm ngoại tệ.
Khả năng cạnh tranh quốc tế.
2. Các nhân tố tác động tới đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
+ Tính chất của đô thị: nhân tố này quyết định lượng cầu về vốn cho xây
dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và tỷ lệ đầu tư đồng thời quyết định phương hướng
phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ cấu phân bổ đầu tư.
+ Tính hiện đại của công nghệ: cuộc cách mạng công nghệ hiện đại có thể
dẫn tới sự thay đổi kết cấu hạ tầng đô thị. Nó tác động đến mọi lĩnh vực của nền
kinh tế, sự phát triển khoa học kỹ thuật là động lực cho việc đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu của quá trình đô thị hoá và đổi mới đất nước.
+ Trình độ văn hoá của dân cư đô thị: là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
mục tiêu xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Khi trình độ văn hoá của dân
10
cư cao thì nhu cầu về dịch vụ như giao thông, điện, nước, … ngày càng tăng
thúc đẩy sự đầu tư xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
3. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại Hà Nội.
Thứ nhất, Hà Nội là trung tâm thành phố cấp quốc gia, là đô thị lớn thứ hai
sau thành phố Hồ Chí Minh, tập trung nhiều dân cư với nhiều cơ quan, nhà máy,
xí nghiệp, các trung tâm nghiên cứu khoa học, các đại sứ quán của các quốc gia
… Cho nên nhu cầu điện, nước, thông tin cho sinh hoạt và sản xuất là rất lớn
trong khi cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện nay ở Hà Nội chỉ phục vụ được phần nào
những nhu cầu trên.
Thứ hai, Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, quy tụ đầy đủ
các phương thức giao thông: đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không, là
nơi hội tụ các tuyến giao thông trong nước và quốc tế.
Thứ ba, Hà Nội nằm trong vùng du lịch có nhiều triển vọng, bản thân Hà
Nội là một trung tâm du lịch lớn trong mạng lưới du lịch của cả nước. Nếu kết

hợp với các trung tâm du lịch như Hải Phòng, Quảng Ninh, và các nơi khác ở
Bắc Bộ thì Hà Nội sẽ hình thành các tuyến du lịch hấp dẫn các du khách trong
và ngoài nước.
Do Hà Nội có vị trí quan trọng như vậy nên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật ở Hà Nội trong những năm tới là điều tất yếu.
CHƯƠNG II
11
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ
THUẬT TẠI HÀ NỘI NHỮNG NĂM QUA
Mấy năm gần đây, tình hình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở Hà Nội không
đáp ứng được nhu cầu phát triển, vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật chủ yếu
dựa vào nguồn vốn ngân sách và chỉ đáp ứng được khoảng 30% đến 40% nhu
cầu đầu tư.
Bảng 1: Cơ cấu vốn đầu tư xã hội trên địa bàn Hà Nội
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 99 2000 2000 so với 99 ( % )
1. Phân theo thành phần kinh tế
+ Khu vực Nhà nước 9211,1
10822,
5
117,5
+ Khu vực ngoài quốc doanh 1284,1 1466,1 114,2
+ Khu vực có vốn ĐTTT NN 1877,7 2865,9 152,6
2. Phân theo ngành
+ SX và phân phối điện, khí đốt, nước 1784,2 2231,8 125,1
+ Xây dựng 251,5 278,2 110,6
+ Vận tải kho bãi, thông tin liên lạc 2152,3 2455,3 114,1
Nguồn: Tư liệu kinh tế xã hội chọn lọc từ kết quả 10 cuộc điều tra quy mô
lớn năm 1998 – 2000, NXB Thống Kê.
Số liệu bảng trên cho thấy cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Hà Nội được tập trung

đầu tư khá mạnh. Tổng số vốn đầu tư có xu hướng tăng qua các năm: năm 1999
là 12372,9 tỷ đồng; năm 2000 là 15154,5 tỷ đồng. Các ngành được đầu tư chủ
yếu là sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước; xây dựng; vận tải kho bãi;
thông tin liên lạc. Vốn đầu tư dành cho các ngành này cũng không ngừng tăng
lên qua các năm. Nhìn chung, đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật Thủ đô Hà Nội
12
ngày càng được quan tâm. Các cấp các ngành đều tạo điều kiện hỗ trợ về vốn để
đầu tư phát triển.
I – TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT TẠI HÀ
NỘI TRONG NHỮNG LĨNH VỰC CỤ THỂ.
1. Mạng lưới giao thông.
1.1. Đường bộ.
Những năm gần đây, hệ thống giao thông đường bộ của Thủ đô đã được cải
thiện đáng kể. Riêng giai đoạn 1996 – 2000 đã triển khai xây dựng được trên
60,5 km đường, duy tu, duy trì và cải tạo nâng cấp nhiều tuyến đường cũ đưa tỷ
lệ đường được rải thảm lên trên 90% ( đường nội thành ).
Bảng 2: Tình hình phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị 1996 – 2000
Danh mục Đ.vị 96 97 98 99 2000
Xây dựng mới Km 10,7 13 11 15,3 10,5
Rải thảm mới 1000 m
2
204 190 250 39,2 250
Diện tích vỉa hè lát mới 1000 m
2
150 19 16 37,6 320,6
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội năm 2000
Qua bảng trên ta thấy từ năm 1996 – 2000 đường Hà Nội đã được nâng cấp
và cải tạo khá lớn. Số km đường được xây dựng ngày càng tăng. Tổng số đến
năm 2000 đã xây dựng mới được 60,5 km chiếm gần 25% tổng số chiều dài hiện
có. Nhiều nút giao thông quan trọng được mở rộng như ngã tư Cầu Giấy, cầu

vượt ở Chương Dương, cầu vượt ở Ngã Tư Vọng và đang tiến hành xây dựng
cầu vượt ở Nam Thăng Long, hệ thống đèn tín hiệu điều khiển giao thông hiện
đại được lắp đặt trên 100 nút.
Trong gần hai chục năm cuối thế kỷ XX, Hà Nội được đầu tư mở rộng một
số tuyến phố sẵn có như đường Nguyễn Trãi, Giải Phóng, Đại Cồ Việt, đoạn
quốc lộ 32 ( Cầu Giấy – Mai Dịch ) … và mở thêm một số tuyến đường, phố
mới như Chương Dương, Thái Hà, Hoàng Quốc Việt, Trần Khát Chân, Võ Thị
13
Sáu, Đồng Tâm - Trại Găng, Nam Thăng Long, Nguyễn Chí Thanh, Liễu Giai,

Hà Nội có nhiều cố gắng mở rộng, mở mới nhiều tuyến phố như đã nói trên
nhưng đó mới chỉ là những trục chính mà chưa nối thông được các trục chính ấy
với nhau để tạo sự thông thoáng liên tục, liên hoàn cả trên trục dọc và trục
ngang của thành phố. Cho nên, các trục giao thông chưa hỗ trợ được cho nhau
khi xảy ra ách tắc do quá tải ở một trục nào đó.
Cùng với hệ thống đường sá, hệ thống giao thông tĩnh của Hà Nội trong mấy
năm qua cũng được quan tâm đúng mức và đáp ứng được sự phát triển nhanh
chóng của các loại hình phương tiện. Một loạt các điểm đỗ xe được xây dựng
khang trang, hài hoà trong khu vực như Ngọc Khánh, Dịch Vọng, Trần Quang
Khải, … cùng với các điểm được sử dụng các hè đường có cường độ giao thông
thấp đã tạo thành mạng lưới giao thông tĩnh có tổ chức, có độ tin cậy cao.
Nội thành Hà Nội có 368 đường phố, ngõ phố, 279 ngã ba, 284 ngã tư, 17
ngã năm, 1 ngã sáu và 2 ngã bảy với tổng chiều dài là 276 km, trên một diện tích
là 70 km
2
, có tới 80% được rải bê tông nhựa, 25000 m
2
đường được kẻ sơn phân
làn, đặt giải phân cách, đặt mới 7000 biển báo phản quang. Tuy nhiên, mạng
lưới giao thông đường bộ trong nội thành còn kém phát triển. Mật độ đường

thấp, phân bố không đồng đều, cấu trúc hỗn hợp và thiếu sự liên thông. Quy mô
và tiêu chuẩn kỹ thuật không đồng nhất. Trong giờ cao điểm, trên các đường
trục, hệ số sử dụng lòng đường đã vượt quá từ 1 đến 3 lần tiêu chuẩn. Do chất
lượng đường xấu, lòng đường quá hẹp ( 7 – 11 m ), trừ nút giao thông nam cầu
Chương Dương và vài ba “ cầu chui ” giao cắt lập thể còn lại tất cả các điểm
giao cắt đều đồng mức quá gần nhau ( nội thành trung bình là 380 m ) cộng với
lượng phương tiện giao thông cá nhân, chủ yếu là lượng xe máy quá lớn dẫn đến
ùn tắc, lộn xộn, mất an toàn giao thông và gây ô nhiễm môi trường.
14
Tỷ lệ quỹ đất dành cho giao thông quá ít, mới ở mức trên dưới 8% ( trong khi
trên thế giới thường là 25% ). Chất lượng đường thấp, đường ngắn hơn 500 m
có bề rộng dưới 10 m chiếm tới 60%.
Hà Nội có tỷ lệ người sử dụng phương tiện cá nhân cao. Hà Nội có khoảng
92000 xe ô tô ( tốc độ tăng 12% năm ), trên 660000 xe gắn máy ( tăng 15% năm
), xấp xỉ 1 triệu xe đạp và cơ cấu phương tiện đi lại là: xe máy 61%; xe đạp
26%; xe taxi 2,8%; xích lô 1,2%; xe bus 7%; đi bộ 1% và phương tiện khác là
1%;
Xe bus là phương tiện giao thông công cộng chủ yếu của Hà Nội. Hiện Hà
Nội có 356 chiếc xe nhưng vừa thiếu về số lượng lại không đảm bảo về chất
lượng và không thuận tiện. Xe bus chỉ đảm nhận được khoảng 7% nhu cầu đi lại
của nhân dân. Tuy nhiên, ta phải thấy rằng ngoài việc thiết kế mạng lưới tuyến
xe bus chưa hoàn toàn hợp lý ra, giữa các tuyến xe buýt chính bị chia cắt, thiếu
sự liên thông, không thành mạng, đường phố Hà Nội chật hẹp đã ảnh hưởng cực
lớn tới tốc độ di chuyển và độ cơ động của xe bus là nguyên nhân chính làm cho
cán bộ công nhân viên không thể chọn xe bus làm phương tiện đi lại được.
Xe taxi là loại hình cơ động cao, nhanh nhưng giá thành chuyên chở đắt. Hơn
nữa, do tranh bắt khách nên tương đối nguy hiểm khi chạy trong thành phố
đường hẹp, không phù hợp với yêu cầu vận chuyển khối lượng lớn.
Xe khách chuyên dùng chở CBCNV, học sinh đi làm và đi học của các cơ
quan, trường học cũng đã góp một phần vào công tác vận chuyển hành khách

của thành phố. Tuy nhiên, đây chỉ là do xe bus không đảm nhận được vai trò
chuyên chở khách nên mới có loại này. Về lâu dài tự nó sẽ bị loại trừ khi
phương tiện vận tải công cộng chiếm vai trò chủ đạo.
Xe gắn máy hai bánh là loại phương tiện cơ động nhất và là phương tiện chủ
đạo để đi lại. Toàn thành phố chưa kể xe ngoại tỉnh chạy vào giờ cao điểm, có
hàng vạn xe máy chạy như con thoi trên khắp các ngả nội, ngoại thành.
15
Xe đạp, xích lô, xe thồ là phương tiện của người thu nhập thấp và đông đảo
học sinh các trường THCS, PTTH, dân buôn bán nhỏ từ ngoại ô vào thành phố.
Các loại phương tiện này hay đi lẫn vào các làn đường dành cho xe cơ giới và có
độ tự do lớn nhất.
Thành phố phát triển nhanh, mật độ dân số Hà Nội là 2830 người/km
2
cao
gấp 12 lần mật độ trung bình cả nước, nhu cầu đi lại tăng cao, việc đi lại hàng
ngày của người dân chủ yếu là phương tiện cá nhân và đang phát triển với tốc độ
cao. Hiện tượng ùn tắc giao thông ngày càng phổ biến ở nhiều điểm nút như Ngã
Tư Sở, Kim Liên, Tôn Đức Thắng, Cát Linh, Bưởi,… Tình trạng tai nạn giao
thông ngày càng trở nên nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng, trật tự kỷ
cương trong giao thông vận tải không được tôn trọng.
Thêm nữa, việc tổ chức điều khiển giao thông cũng cần được nghiên cứu kỹ
hơn để việc đi lại trong thành phố khỏi bị phiền hà do hệ thống đèn xanh, đèn đỏ
quá gần nhau làm hạn chế lưu lượng và mất thời gian không cần thiết.
Công tác xây dựng cơ bản, mở rộng nâng cấp gặp nhiều khó khăn. Kế hoạch
xây dựng cải tạo cơ sở hạ tầng của Hà Nội gồm nâng cấp vành đai I, II, III, xây
dựng mới một số cầu qua sông Hồng, xây dựng hệ thống đường sắt trên cao. Tất
cả đòi hỏi nguồn vốn rất lớn ( khoảng 40 ngàn tỷ đồng ) trong khi nguồn vốn
của Hà Nội hạn chế. Mặt khác, công tác giải phóng mặt bằng rất tốn kém lại mất
rất nhiều thời gian.
Nhìn tổng thể không ai có thể phủ nhận những thành quả to lớn đem lại từ sự

quan tâm đầu tư của Nhà nước, sự quyết tâm và công sức cải tạo xây dựng
đường sá của cán bộ, nhân dân Hà Nội và các đơn vị giao thông vận tải của TW
cư trú trên địa bàn thành phố. Mục tiêu trong những năm tới là hoàn thiện hệ
thống giao thông đáp ứng nhu cầu của nhân dân và phục vụ quá trình phát triển
kinh tế xã hội của Thủ đô.
1.2. Đường sắt.
16
Hà Nội là đầu mối đường sắt tập trung nhất của VN. Mạng lưới đường sắt
nằm trên địa bàn Hà Nội có hình bán nguyệt, với tổng chiều dài 90 km. Hà Nội
hiện có 5 ga đường sắt lớn: Hà Nội, Giáp Bát, Văn Điển, Gia Lâm, Yên Viên,
với tổng diện tích là 16,85 ha. Tuyến xuyên qua thành phố dài 7 km, có 9 vị trí
giao cắt với các tuyến phố chính, là một trong những nguyên nhân gây ra ùn tắc
giao thông tại các điểm nút mỗi khi tàu chạy qua. Hàng năm, đường sắt đã vận
chuyển 3,5 triệu lượt khách chủ yếu là liên tỉnh, 2 triệu tấn hàng.
1.3. Đường sông.
Trên địa bàn Hà Nội có 3 cảng sông chính là Hà Nội, Khuyến Lương, Sơn
Tây. Hiện tại vận tải đường sông chủ yếu là vận chuyển vật liệu xây dựng còn
đưa khách đi du ngoạn sông Hồng là hình thức mới đang được khai thác.
Trong năm 1999, Hà Nội có 76 tàu lai dắt, 59 xà lan máy, 257 xà lan không
gắn máy, 47 thuyền máy, 5 tàu và canô khách, 22 thuyền máy chở khách, 2
chiếc cần cẩu chân đế, 4 cần cẩu nổi, 7 xe nâng hàng, 7 máy xúc các loại, 3 máy
ngoạm. Những phương tiện vận tải và bốc xếp trên địa bàn hầu như đều đã cũ,
cần đầu tư sửa chữa trong những năm tới.
Bảng 3: Khối lượng hành khách và hàng hoá được vận chuyển và lưu
chuyển bằng đường sông
Đ. vị 96 97 98 99
Khối lượng hành
khách vận chuyển
1000 hành
khách

434 385 286 283
Khối lượng hành
khách luân chuyển
1000 hành
khách.km
11686 10867 4692 3923
Khối lượng hàng hoá
vận chuyển
1000 tấn 1839 1854 1441 1426
17
Khối lượng hàng hoá
luân chuyển
1000
tấn.km
199699 207839 161668 150262
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2000
1.4. Đường hàng không.
Hiện tại trên địa bàn thành phố có 3 sân bay là Nội Bài, Gia Lâm, Bạch Mai.
Trong đó, Nội Bài là sân bay quốc tế vừa mới được đầu tư nâng cấp. Tuy nhiên,
sân bay quốc tế này lại ở xa thành phố nên việc đi lại cho hành khách chưa thuận
tiện. Hai sân bay còn lại thì đã xuống cấp và chưa được khai thác để phục vụ
tuyến nội địa.
Hạng mục đường cất hạ cánh 1B cảng hàng không quốc tế Nội Bài đã được
khởi công năm 2001 vừa qua. Năng lực của đường cất hạ cánh 1B có thể đáp
ứng yêu cầu khai thác các loại máy bay thân lớn như B777, B747 – 400 với
trọng tải cất cánh tối đa, vận chuyển khoảng 15 – 18 triệu khách/năm. Công
trình dự kiến hoàn thành vào tháng 6 năm 2003.
2. Hệ thống cấp thoát nước.
2.1 Hệ thống cấp nước.
Nước luôn là vấn đề đáng quan tâm ở Thủ đô Hà Nội, với hơn 3 triệu người

thì việc đảm bảo đầy đủ nước cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất trên địa bàn thật
không đơn giản.
Nhận thức rõ ràng vấn đề cấp bách đó, lại được sự giúp đỡ của chính phủ
Phần Lan, Nhật Bản, và Tổ chức Ngân hàng thế giới WB, thành phố đã tập trung
xây dựng hệ thống cấp nước hoàn chỉnh để đáp ứng nhu cầu của nhân dân Thủ
đô. Hiện nay, Hà Nội có 8 nhà máy nước là Yên Phụ, Đồn Thuỷ, Bạch Mai,
Ngọc Hà, Ngô Sỹ Liên, Tương Mai, Hạ Đình, Lương Yên với công suất tổng
cộng là 390000 m
3
/ ngày. Mạng lưới đường ống truyền dẫn và phân phối có
tổng chiều dài hơn 600 km và hàng ngàn km đường ống dịch vụ.
18
Bảng 4: Tình hình phát triển của hệ thống cấp nước
Đ.vị 96 97 98 99
Số nhà máy sản xuất nước hiện có Nhà máy 13 14 14 14
Trạm nước cục bộ Trạm 12 12 12 14
Đường ống dẫn nước tăng thêm Km 15,5 40 2,4 0
Tuyến ống phân phối tăng thêm Km 120 70 29.2 0
Sản lượng nước bình quân/ngày 1000m
3
/ngày 342 360 395 390,5
Hệ số lãng phí nước % 40 40 35 59
Lượng nước bình quân người/ngày Lít 133 146 100 100
Số giếng hiện có Giếng 136 161 161 161
Số giếng xây mới trong năm Giếng 12 25 25 0
Nguồn niên giám thống kê Hà Nội 2000
Mục tiêu trong những năm tới là đảm bảo trong khu vực nội thành và các
vùng lân cận tỷ lệ dân số được cấp nước vào nhà đạt 100%, chỉ tiêu dự kiến
dùng nước là 180 lít / ngày - người và trên cơ sở cấp nước liên tục 24/24h.
2.2. Hệ thống thoát nước.

Cho đến nay, thành phố Hà Nội mới xây dựng thêm 115 km cống ngầm trên
diện tích 3000 ha nội thành, bình quân trên 1 ha chỉ có 60 m cống ngầm. Con số
này rất thấp nếu so với các nước trong khu vực là 100 m cống ngầm / 1 ha.
Phương pháp nạo vét cống chủ yếu làm thủ công nên khó bảo dưỡng và duy trì
hệ thống cống.
Bảng 5: Tình hình phát triển của hệ thống thoát nước
Đ.vị 96 97 98 99
Kênh mương thoát nước Km 38,6 38,6 38,6 38,6
19
Sông thoát nước Km 36,8 36,8 36,8 36,8
Hệ thống thoát nước ngầm Km 160 174,5 182 182
Hệ thống xử lý nước thải Ha 600 600 600 600
Giải quyết điểm úng cục bộ Điểm 15 27 16 14
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2000
Vào mùa mưa thì nước là kẻ thù số một của mặt đường ở Hà Nội. Nhịp độ đô
thị hoá đã và đang ngày càng nhanh theo khuynh hướng “ cùng nhau ào ra ven
đường ”. Bởi vậy, con đường đang yên lành bỗng dưng bị mất hết khả năng
thoát nước vì chính quyền cấp đất xây dựng nhà cửa không để tâm đến việc bảo
vệ các yếu tố kỹ thuật của con đường. Cho nên, ở Hà Nội tình trạng ngập lụt vẫn
xảy ra trên các phố như Tôn Đức Thắng, Trần Quang Khải, Thanh Nhàn, …
Về hồ điều hoà, Hà Nội có gần 600 ha, riêng Hồ Tây đã là 400 ha nhưng
không có chức năng điều hoà. Số diện tích hồ còn lại phân bố không đồng đều,
khó liên kết được với nhau. Nhiều sông hồ bị ô nhiễm nặng do nước sinh hoạt và
công nghiệp không được xử lý mà xả thẳng ra sông, mương như sông Lừ, sông
Kim Ngưu, sông Tô Lịch …
3. Mạng viễn thông và thông tin liên lạc.
Thông tin là yếu tố hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
một Thủ đô lớn như Hà Nội. Lĩnh vực thông tin bưu điện của Hà Nội đã và đang
được dần đổi mới.
Bảng 6: Tình hình phát triển mạng viễn thông và thông tin liên lạc

Đ.vị 96 97 98 99
Tổng đài điện thoại Tổng đài 492 502 542 594
Tổng số máy điện thoại 1000 cái 195,2 249,9 293,5 321,8
Tổng số máy FAX Cái 4820 5650 5781 5861
20
Đường dây điện thoại nội tỉnh Km 3570 3600 3875 3900
Số máy điện thoại bình quân/100 dân Cái 7,9 10,1 11,5 12
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2000
Như vậy, năm 98 so với năm 97 thì số tổng đài tăng 40, số máy điện thoại
tăng 44 máy, số máy FAX tăng 131 máy. Năm 99 so với năm 98 thì số tổng đài
tăng 52, số máy điện thoại tăng 29 máy, số máy FAX tăng 80 máy.
Tính đến nay, số máy điện thoại bình quân không ngừng tăng lên là 22
máy/100 dân. Các dịch vụ điện thoại di động, mạng internet và chuyển phát
nhanh tiếp tục tăng.
4. Mạng lưới điện và hệ thống chiếu sáng.
Toàn bộ lưới điện Hà Nội hiện đang được cấp từ 19 trạm biến áp 110 KV có
tổng dung lượng 1276 MVA với 3528 km đường dây 110 KV và hàng nghìn km
đường dây trung, hạ thế từ 0,4 đến 35 KV.
Điện lực Hà Nội đã giảm tỷ lệ thất thoát điện năng từ 16,2% năm 95 xuống
còn 11,26% năm 2001, đảm bảo cấp điện ổn định, an toàn phục vụ sản xuất kinh
doanh, sinh hoạt của người dân Hà Nội.
Đơn giản hoá thủ tục và thời gian lắp đặt công tơ, 5 ngày đối với công tơ một
pha, 7 ngày đối với công tơ ba pha, dịch vụ báo sửa chữa điện 24/24h.
Khai thác thí điểm lắp đặt công tơ đo xa tự động đọc và truyền chỉ số bằng
sóng vô tuyến và hữu tuyến, từng bước hạ ngầm lưới điện. Ở Hà Nội đã hạ
ngầm được 623,89 km đường dây trung, hạ thế.
Cùng với ngành điện, công tác đảm bảo hệ thống chiếu sáng của thành phố
cũng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Ngành điện thành phố đã duy trì
609 km đường chiếu sáng, trong đó có 339 km ở các đường phố chính; 57,4 km
ở các khu tập thể; 95,6 km ở các ngõ, xóm; 10 km ở các vườn hoa, công viên.

21
Thành phố cũng đã duy trì 362 trạm đèn với công suất 3612 KW, phục vụ tốt
vào ban đêm, ngày tết, lễ hội góp phần đảm bảo an ninh, trật tự xã hội.
Trong hơn 10 năm qua 1990 – 2000 thành phố đã tập trung xây dựng 371 km
đường chiếu sáng, nâng tổng số chiều dài đường chiếu sáng từ 238 km năm
1998 lên 609 km năm 2000, lắp đặt mới 13845 bóng đèn cao áp và xây dựng
mới 11383 cột đèn cao áp.
II - ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ
THUẬT Ở HÀ NỘI.
1. Những thuận lợi và thành quả đã đạt được.
Quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật được tiến hành trong cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước nên có những chính sách thuận lợi đầu tư
phát triển đô thị.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật được tiến hành trong điều kiện kinh tế
xã hội phát triển, các dự án đầu tư ngày càng nhiều, không gian thành phố ngày
một mở rộng. Công nghiệp, dịch vụ thương mại phát triển đã đưa một lượng lớn
diện tích đất đai vào sử dụng, xuất hiện nhiều khu đô thị mới.
Việc triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật diễn ra trong bối cảnh toàn
cầu hoá. Đây là cơ hội để chúng ta có thể thu hút các nguồn vốn viện trợ từ các
tổ chức nước ngoài để phục vụ nhu cầu phát triển và học hỏi kinh nghiệm.
Thành quả của quá trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị 1991
– 2001 được thể hiện rõ nét:
Từ một thành phố nhỏ bé với hạ tầng kỹ thuật đô thị rất thấp kém, Hà Nội
ngày nay đã có hệ thống đường giao thông được mở rộng hơn rất nhiều lần.
Nhiều công trình lớn về cấp, thoát nước, điện sinh hoạt, công viên cây xanh, …
đã và đang được triển khai. Từ quy hoạch định hướng phát triển Thủ đô Hà Nội
đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thành phố đã hoàn tất quy
22
hoạch 12 quận, huyện và nhiều quy hoạch chuyên ngành. Đã hình thành cơ chế
chính sách về xây dựng các khu đô thị mới, cải tạo các khu tập thể cũ, các chính

sách quản lý đất đai, bán, cho thuê nhà ở cho cán bộ công nhân viên, người có
thu nhập thấp, nhà ở cho sinh viên, … Những cơ chế chính sách mới tạo sự
thông thoáng cho hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự quản
lý và điều tiết của Nhà nước từng bước được hoàn thiện. Mô hình nhà chung cư
cao tầng với các loại căn hộ đa dạng, có tiện nghi tốt đã được nhân dân chấp
nhận. Hàng loạt dự án phát triển đô thị với hàng trăm nhà cao tầng đang triển
khai, mở ra khả năng giải quyết nhu cầu nhà ở ngày càng tăng của nhân dân Thủ
đô.
Hiện tại trên địa bàn thành phố đang gấp rút triển khai nhiều dự án lớn như
nút giao thông Ngã Tư Vọng, Ngã Tư Sở, Bưởi, Kim Liên, Nam cầu Thăng
Long, đường vành đai III, đường Kim Liên - Ô Chợ Dừa, đường Láng Hạ, cầu
Thanh Trì, những công trình phục vụ cho SEA Games 2003, … hệ thống đường
nội thành được cải tạo và làm mới, sửa chữa mới vỉa hè. Mạng lưới điện, hệ
thống thông tin liên lạc, cấp nước đã được nâng cao cả về số lượng và chất
lượng phục vụ. Hệ thống sông ngòi, cống ngầm thường xuyên được nạo vét, tiến
hành xây kè sông Hồng, sông Kim Ngưu. Nhiều khu chung cư được xây dựng
hình thành các khu đô thị mới như Linh Đàm, Định Công, Trung Hoà, …
Nhìn chung, cơ sở hạ tầng của Thủ đô trong thời gian qua đã được thành phố
chú trọng đầu tư và cho đến nay dần đã phát huy tác dụng, cải thiện bộ mặt Thủ
đô, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành sản xuất khác chủ yếu là công nghiệp
và dịch vụ phát triển, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao cả về
vật chất và tinh thần.
2. Những khó khăn và hạn chế.
Ở giai đoạn phát triển mới, bên cạnh những thuận lợi, Thủ đô Hà Nội cũng
đang đứng trước những khó khăn:
23
Chất lượng công tác dự báo chưa chính xác. Một phần do trình độ cán bộ
chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới, thiết bị và dụng cụ phục vụ cho
công tác dự báo còn thô sơ nhưng một phần khác cũng do sự di dân hết sức tự
do và phức tạp của các vùng nông thôn ra thành phố.

Khó khăn về vốn, đây là một thực tế vì đất nước ta vẫn còn nghèo mà vốn
phục vụ cho xây dựng cơ sở hạ tầng lại chủ yếu được cấp từ ngân sách. Mặt
khác, tình trạng thất thoát, chiếm dụng vốn vẫn còn phổ biến trong lĩnh vực đầu
tư xây dựng.
Tiềm lực khoa học công nghệ kỹ thuật, trình độ xây dựng kiến trúc đô thị còn
yếu kém. Khả năng quy hoạch, quản lý của đội ngũ cán bộ xây dựng đô thị còn
nhiều hạn chế.
Tiến độ triển khai một số công trình có trong hạng mục đầu tư của thành phố
diễn ra còn chậm do thiếu vốn, công tác giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó
khăn. Một nguyên nhân nữa là do chi phí dự kiến thường thấp hơn so với chi phí
thực tế, dự kiến hoàn thành trên cơ sở lạc quan quá sớm.
Quá trình phát triển kinh tế cùng với sức ép của sự gia tăng dân số cơ học
đang đặt ra những vấn đề lớn cần giải quyết về công ăn, việc làm, nhà ở, giao
thông đô thị, trường học, bệnh viện, vui chơi giải trí, … nhất là trong bối cảnh
kinh tế khu vực và trên thế giới đang trong xu thế hội nhập với tính chất cạnh
tranh ngày càng gay gắt.
Mật độ phương tiện cá nhân tham gia giao thông còn rất cao, khó kiểm soát,
mạng lưới giao thông chật hẹp lại có nhiều điểm cắt gần nhau nên hiện tượng ùn
tắc giao thông vẫn xảy ra.
Chưa có sự phối hợp nhịp nhàng cùng hành động giữa các cơ quan chức năng
trong thành phố như công ty Điện lực, công ty Bưu chính, công ty cấp thoát
nước.
24
Trên đây là những tồn tại mà thành phố Hà Nội cần phải có những giải pháp
để khắc phục, phấn đấu để Thủ đô Hà Nội là Thủ đô có tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao với cơ sở hạ tầng kỹ thuật hoàn thiện.
25

×