Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

cảm quan sinh thái trong truyện ngắn nguyễn huy thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.18 KB, 106 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGÔ THỊ THU GIANG



CẢM QUAN SINH THÁI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM











Thái Nguyên - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGÔ THỊ THU GIANG


CẢM QUAN SINH THÁI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Trọng Thƣởng






Thái Nguyên - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Cảm quan sinh thái trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi không sao chép của ai.
Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các công trình khác.
Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các
tác phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn


Ngô Thị Thu Giang


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phan Trọng Thưởng – Viện
Văn học Việt Nam về sự hướng dẫn tận tình, chu đáo, đầy tinh thần trách nhiệm
của thầy trong quá trình em hoàn thành luận văn.

Em xin cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn
và các thày, cô giáo Khoa Sau đại học - trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên để
em được thực hiện đề tài luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè và những người thân đã động viên
và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn


NGÔ THỊ THU GIANG



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iii
MỤC LỤC
Trang

Trang bìa phụ
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn. ii
Mục lục ………iii
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng nghiên cứu 4
4. Mục đích nghiên cứu 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
6. Phạm vi nghiên cứu 4

7. Các phương pháp nghiên cứu 4
8. Đóng góp của luận văn 5
9. Bố cục của luận văn 6
NỘI DUNG 7
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 7
1.1. Các khái niệm 7
1.1.1. Sinh thái 7
1.1.2. Tự nhiên 8
1.1.3. Môi trường và môi trường sinh thái 9
1.1.4. Cảm quan và Cảm quan sinh thái 10
1.1.5. Phê bình sinh thái 10
1.2. Vấn đề sinh thái và môi trường trong xã hội hiện nay 13
1.3. Vấn đề sinh thái trong văn học nghệ thuật 15
1.3.1. Con người và thiên nhiên trong văn học dân gian 16
1.3.2. Con người và thiên nhiên trong văn học trung đại 20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iv
1.3.3. Con người và thiên nhiên trong văn học hiện đại 23
Chương 2. QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN TRONG
CẢM QUAN SINH THÁI QUA TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP 26
2.1. Con người và thiên nhiên trong mối quan hệ gắn bó yêu thương 26
2.2. Con người và tự nhiên trong những mối xung đột 37
2.2.1. Con người tận diệt tự nhiên 38
2.2.2. Phản ứng của tự nhiên trước sự can thiệp của con người 49
2.3. Quan niệm nhân quả và những vấn đề đặt ra trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp 64
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT TIẾP CẬN VẤN ĐỀ SINH THÁI TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP 72

3.1. Nghệ thuật độc thoại nội tâm 72
3.2. Nghệ thuật xây dựng và khai thác tình huống 74
3.3. Nghệ thuật lựa chọn chi tiết 78
3.4. Nghệ thuật tổ chức truyện 82
3.5. Nghệ thuật tổ chức không gian, thời gian 86
3.5.1. Không gian nghệ thuật 86
3.5.2. Thời gian nghệ thuật 89
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam những thập niên cuối của thế kỷ XX ghi nhận một hiện
tượng “hai lần lạ” trên văn đàn với những tác phẩm đầu tay của tác giả này đã gây
xôn xao dư luận và tốn nhiều giấy mực của giới phê bình văn học trong và ngoài
nước: Tướng về hưu, Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy thần, Kiếm sắc,
Vàng lửa, Phẩm tiết… Đó là nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Những đặc sắc trong
các sáng tác của ông mặc dù có những ý kiến khen chê khác nhau nhưng tất cả
đều giống như một khối thuốc nổ và có lực hấp dẫn khó cưỡng đối với độc giả.
1.2. Nguyễn Huy Thiệp có mặt trên nhiều mảng sáng tác như kịch bản văn học,
phê bình văn học, tiểu thuyết nhưng truyện ngắn là địa hạt có nhiều mùa gặt bội
thu hơn cả. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi
nổi với những ý kiến đa chiều khiến tác phẩm của ông được nhìn nhận đa diện
hơn. Hầu hết các ý kiến đánh giá đều khẳng định truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp có nhiều phá cách táo bạo và mới mẻ cùng nghệ thuật kể chuyện sắc sảo,
linh hoạt trong mỗi tác phẩm. Tuy nhiên, hầu hết các bài viết đều hướng sự quan

tâm đến những vấn đề: Chủ đề lịch sử, không gian và thời gian nghệ thuật, nghệ
thuật xây dựng nhân vật, mâu thuẫn thế sự, văn hóa ứng xử mà chưa quan tâm
đến một điểm khá mới mẻ và độc đáo của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đó là
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong một số truyện ngắn của ông.
1.3. Văn học hiện đại vẫn thường thấy những tác phẩm phản ánh về mối quan
hệ giữa con người với con người, những cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải
phóng dân tộc, những quan điểm nghệ thuật về con người… còn những tác phẩm
văn học phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên thường là miêu tả vẻ
đẹp của thiên nhiên mà hiếm thấy những tác phẩm nói đến cách ứng xử của con
người với thế giới tự nhiên. Ngày nay, trước nhu cầu nóng bỏng của nhân loại về
cải thiện môi trường sinh thái, khát vọng về mối giao hoà vĩnh cửu giữa con người
và thiên nhiên được phản ánh trong văn học càng thể hiện rõ rệt ý nghĩa thực tiễn
và tính thời sự của nó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
Hiện nay, nguy cơ sinh thái là vấn đề nổi lên trên phạm vi toàn cầu và được
nhiều nhà văn nói đến nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã có tiếng nói của riêng mình
về vấn đề này bằng một quan điểm mới mẻ và cập nhật. Cách nói của ông hấp dẫn
và dữ dội. Đặc biệt, ông đã nói đến những điều này từ rất sớm, bằng con mắt
khách quan của một người miền xuôi khi đến với rừng.
1.4. Việc phản ánh về vấn đề sinh thái trong văn học không phải là sự ngẫu
nhiên, xa lạ mà đang là một vấn đề mang tính toàn cầu và cũng là một chủ đề nóng
của văn học đương đại. Nguyễn Huy Thiệp đã có những tác phẩm góp chung tiếng
nói vào mảnh đất mới này. Chính bởi những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Cảm
quan sinh thái trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp để nghiên cứu và tìm hiểu
thêm về một tác giả trên cảm hứng sáng tác mới. Qua đó, chúng tôi muốn góp một
phần nhỏ bé của mình nhằm khẳng định vị trí cũng như những đóng góp của nhà
văn đối với sự phát triển của văn học Việt Nam đương đại.

Bằng việc khảo sát cụ thể, chi tiết tác phẩm, chúng tôi hi vọng có thêm
những phát hiện về thành công cũng như những nét độc đáo, sáng tạo mới mẻ,
hiện đại của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên cơ sở lý thuyết phê bình sinh
thái của văn học.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp không phải chỉ có một
vài công trình mà ông đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Có tới 54 bài bào dài ngắn khác nhau bàn về Nguyễn Huy
Thiệp được tập hợp trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp của Phạm Xuân Nguyên
và rất nhiều đề tài khác cùng nghiên cứu về các giá trị mà truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp mang lại. Chúng tôi đã nghiên cứu hầu hết các bài viết về Nguyễn Huy
Thiệp được tập hợp trong tuyển tập Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp này và thấy rằng
những bài viết này bao gồm trong đó những đánh giá về tác phẩm, tác giả, về chủ
đề tư tưởng, hình thức nghệ thuật, thi pháp, và không ít bài mang tính chất điểm
lại lịch sử tiếp nhận Nguyễn Huy Thiệp, những ý kiến ngổn ngang xung quanh
hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
Các đề tài tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ của các trường đại
học cũng dành nhiều sự quan tâm đến truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp như
nghiên cứu về: Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp của tác giả Hoàng Kim
Oanh, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; Người kể chuyện trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp của tác giả Bùi Đức Thiện, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn; Luận án Lời văn nghệ thuật Nguyễn Huy Thiệp của
Nguyễn Văn Đông, trường Đại học sư phạm Hà Nội… và một số công trình khác.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
Đáng chú ý hơn cả là bài viết Mùa xuân – sinh thái và văn chương của

GS.TS. Huỳnh Như Phương đăng trên trang web http://nld com đã bàn về vấn đề
lý thuyết phê bình sinh thái đã dẫn ra truyện ngắn Muối của rừng của nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp và một số ví dụ thực tế khác để nhấn mạnh đến sự tương tác
giữa môi trường tự nhiên với con người; đồng thời tác giả cũng chỉ ra vấn đề sinh
thái không còn đơn thuần của riêng ngành khoa học nào nữa mà đã trở thành vấn
đề toàn cầu trong đó có trách nhiệm của văn chương, đó vừa là vấn đề đạo đức,
vừa là vấn đề thẩm mỹ.
Ỏ Việt Nam, lý thuyết Phê bình sinh thái là vấn đề khá mới mẻ và chưa
nhận được nhiều sự quan tâm. Năm 2012, trong một bài nói chuyện ở Viện Văn
học, nhà nghiên cứu người Mỹ Karen Thornber đã giới thiệu về trường phái phê
bình sinh thái nhưng cho đến nay có rất ít bài viết hay công trình nghiên cứu cụ
thể về vấn đề này. Mới đây, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp mới công bố công trình
nghiên cứu Thơ Mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa đã vận dụng lý thuyết Phê
bình sinh thái để soi chiếu vào thơ Mới mang đến những cái nhìn rất mới mẻ và
thú vị. Ngoài ra còn một số các bài báo khác cũng ít nhiều đề cập đến phê bình
sinh thái nhưng mới chỉ dừng lại ở việc chạm đến mà chưa thực sự vận dụng lý
thuyết mới này để đánh giá các tác phẩm văn học.
Dựa trên những ý kiến bàn luận và các kết quả nghiên cứu đã có về truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy còn một khoảng trống cần lấp đầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4
để hoàn chỉnh hơn bức tranh toàn cảnh về truyện ngắn của tác giả này. Chính vì
vậy chúng tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu của mình là Cảm quan sinh thái trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn đa tài, sáng tác của ông trải ra ở nhiều
thể loại khác nhau: kịch bản văn học, phê bình văn học, tiểu thuyết, truyện ngắn
nhưng đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là thể loại truyện ngắn.

4. Mục đích nghiên cứu
Với luận văn “Cảm quan sinh thái trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”
chúng tôi mạnh dạn đặt ra các mục đích:
Khám phá nội dung và nghệ thuật trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp để nhận thấy cảm quan sinh thái của nhà văn. Chỉ ra vai trò của vấn đề sinh
thái trong văn học đối với xã hội hiện nay.
Góp thêm một cái nhìn mới về giá trị của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu một số vấn đề lý luận, thực tế, một số khái niệm liên quan.
Khảo sát và nghiên cứu nội dung, nghệ thuật các truyện ngắn viết về mối
quan hệ giữa con người và thiên nhiên của Nguyễn Huy Thiệp.
Liên hệ với các sáng tác viết về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên
của các tác giả trong và ngoài nước để thấy được nét riêng của ngòi bút Nguyễn
Huy Thiệp.
6. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát một số truyện ngắn được in trong tập:
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp - Nxb Hội nhà văn - 2005
7. Các phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp hệ thống
Đây là một trong những phương pháp cơ bản của thi pháp học. Trong phạm
vi luận văn, chúng tôi áp dụng phương pháp này vào việc tìm hiểu những yếu tố
nghệ thuật làm nên diện mạo chung của vấn đề sinh thái và phân tích mối liên hệ
giữa chúng với nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
7.2. Phương pháp so sánh
Chúng tôi áp dụng phương pháp này trong việc nhìn nhận cách thức xây
dựng kết cấu truyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trong tương quan với

cách thức xây dựng kết cấu truyện của một số tác giả văn học đương đại khác của
Việt Nam cũng như trên thế giới để nhận thấy những nét tương đồng và phong
cách cá nhân của Nguyễn Huy Thiệp.
7.3. Phương pháp phân tích
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng một số dẫn chứng
trích ra từ các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp để minh họa cho những nhận
xét, lập luận của mình. Do đó, trong suốt quá trình thực hiện, chúng tôi luôn vận
dụng phương pháp phân tích để làm rõ các vấn đề được nêu ra ở các chương.
7.4. Phương pháp thống kê
Khi khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi áp dụng
phương pháp thống kê để phân loại các chi tiết, tình huống truyện làm cơ sở cho
việc phân tích các biểu hiện của vấn đề sinh thái cũng như nghệ thuật thể hiện vấn
đề này ở các tác phẩm.
7.5. Phương pháp liên ngành
Vấn đề cảm quan sinh thái liên quan đến một số lĩnh vực khoa học khác
như Địa lý, lý luận văn học… Vì vậy sự vận dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học giúp chúng tôi soi sáng và làm rõ các
phương diện, khía cạnh của vấn đề cảm quan sinh thái.
8. Đóng góp của luận văn
Bên cạnh các kết quả nghiên cứu khác, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ
góp phần hoàn chỉnh hơn bức tranh toàn cảnh về truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp. Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về Cảm quan sinh thái trong
truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
Kết quả nghiên cứu của luận văn mang đến một cách tiếp cận mới cho các
tác phẩm văn học, mở ra hướng đánh giá, thẩm định giá trị nhân văn của văn học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6
từ góc nhìn sinh thái; đồng thời đánh thức cách ứng xử bình đẳng của con người

với môi trường trong xã hội hiện nay.
9. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chƣơng 2: Quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong cảm quan sinh
thái qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Chƣơng 3: Nghệ thuật tiếp cận vấn đề sinh thái trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Sinh thái
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: “sinh thái” là khái niệm dùng để
chỉ quan hệ giữa sinh vật và môi trường [35; tr.1065].
Con người, xét về mặt tiến hóa có nguồn gốc từ tự nhiên, là sản phẩm của
tự nhiên - một sinh vật có tổ chức cao nhất của vật chất. Theo đó, khái niệm sinh
thái không chỉ nói đến các đối tượng: sinh vật và môi trường tự nhiên, mà chủ yếu
nhấn mạnh đến quan hệ của các đối tượng ấy trong chỉnh thể sinh thái. Quan hệ đó
có tính chất hai chiều, tác động qua lại với nhau, phụ thuộc chặt chẽ vào nhau và
có tính bình đẳng giữa sinh vật và môi trường. Các sinh vật tồn tại trong tự nhiên
bao gồm cả động thực vật và con người. Vì thế, để hệ sinh thái phát triển một cách
hoàn chỉnh và bền vững cần có sự tác động tích cực của bàn tay con người bởi con
người là động vật cao cấp nhất, có can thiệp sâu nhất vào môi trưởng tự nhiên. Nếu
con người can thiệp vào tự nhiên một cách thô bạo sẽ dẫn đến những nguy cơ sinh

thái tiêu cực. Sự xuống cấp của hệ sinh thái sẽ tác động ngược trở lại vào đời sống
con người, điều này cũng khiến cho hệ sinh thái mất ổn định, nói cách khác, nó sẽ
khiến cho mối quan hệ giữa các sinh vật nói chung và con người nói riêng với môi
trường mất cân bằng và bất ổn. Khi mối quan hệ giữa con người và môi trường
không được điều hòa tất yếu sẽ xảy ra những xung đột dẫn đến những hậu quả
không mong muốn về mặt môi trường sống, ảnh hưởng xấu đến chất lượng sống
của con người và các sinh vật khác trong hệ sinh thái.
Nói đến sinh thái cần hiểu hai mặt của nó, một là sinh thái xã hội, hai là
sinh thái tự nhiên. Sinh thái xã hội nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa con người
với con người trong xã hội; sinh thái tự nhiên là mối quan hệ giữa con người với
môi trường tự nhiên. Các công trình khác khi nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

8
Huy Thiệp đã nói đến sinh thái xã hội, đưa ra những nhận xét sắc sảo về các vấn
đề nóng của cuộc sống đương đại được phản ánh trong các sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi giải quyết vấn đề còn lại được
đề cập đến trong truyện ngắn của ông đó là vấn đề sinh thái tự nhiên,
1.1.2. Tự nhiên
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: “tự nhiên” là toàn bộ nói chung những
gì tồn tại sẵn có trong vũ trụ mà không phải do con người tạo ra [35; tr.1331].
“Mác định nghĩa: “tự nhiên theo nghĩa rộng là tất cả những gì đang tồn tại
khách quan - toàn thế giới với tất cả các hình thức biểu hiện muôn màu, muôn vẻ
của nó”. Theo nghĩa này, khái niệm “tự nhiên” đồng nhất với khái niệm “thế giới
vật chất”, “vũ trụ”, là toàn bộ hiện thực vật chất. Như vậy, tự nhiên là toàn bộ thực
tại khách quan, là một hệ thống vật thể khăng khít với nhau, còn con người và xã
hội loài người chỉ là một bộ phận đặc biệt của tự nhiên mà thôi. Giới tự nhiên là
hiện thực đầu tiên của thế giới, tự nhiên có trước con người, con người được sinh
ra từ tự nhiên.

Theo nghĩa hẹp, tự nhiên là “tập hợp các điều kiện thiên nhiên vốn có sẵn,
tồn tại ngoài tác động của con người, trước hết là môi trường địa lí và những điều
kiện vật chất cần cho sự tồn tại của xã hội loài người do chính con người tạo ra”.
Tự nhiên là môi trường sống của con người và xã hội loài người. Cố nhiên, đó là
vai trò không gì thay thế được và nó không bao giờ mất đi dù cho xã hội phát triển
đến mức độ nào đi chăng nữa. Bởi lẽ, con người sống và tồn tại thì nhất thiết phải
cần nước, ánh sáng, không khí, thức ăn cho đến những điều kiện cần thiết đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội như các nguyên vật liệu, tài nguyên khoáng
sản tất cả những cái đó đều do tự nhiên cung cấp. Tự nhiên là điều kiện đầu tiên,
thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất ra của cải vật chất, là một trong
những yếu tố cơ bản của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội” [15].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
1.1.3. Môi trường và môi trường sinh thái
Vấn đề môi trường có vị trí quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển
của con người. Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội cần thiết
cho sự sinh sống và sản xuất của con người. “Môi trường bao gồm các yếu tố tự
nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
thiên nhiên” (Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam).
Với tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, con người sống trong môi
trường tự nhiên và luôn tồn tại trong môi trường xã hội. Mọi sự xáo trộn về môi
trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng
sống của con người. Môi trường tự nhiên là tất cả những gì tạo nên môi trường
sống quanh con người. Đó là tổ hợp của các yếu tố như: tài nguyên thiên nhiên,
không khí, đất, nước, khí hậu, ánh sáng, cảnh quan…
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: “môi trường sinh thái” là toàn bộ
các điều kiện vô cơ và hữu cơ của các hệ sinh thái ảnh hưởng đến đời sống của xã

hội loài người [35]
Khái niệm Môi trường sinh thái cần được khu biệt với khái niệm sinh thái.
Sinh thái là mối quan hệ giữa sinh vật và môi trường còn môi trường sinh thái là
các điều kiện vô cơ và hữu cơ của các hệ sinh thái ảnh hưởng đến con người. Như
vậy, khái niệm môi trường sinh thái nằm bên trong khái niệm sinh thái, nó là một
phần của sinh thái.
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ
với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự
rối loạn bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả nghiêm
trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên nhiên.
Môi trường sinh thái có tác động trực tiếp đến đời sống con người, nếu chất lượng
của môi trường sinh thái tốt thì những ảnh hưởng của nó đến xã hội loài người sẽ
tích cực và ngược lại. Điều này cho thấy tầm quan trọng của môi trường sinh thái
đối với cuộc sống của xã hội loài người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

10
1.1.4. Cảm quan và Cảm quan sinh thái
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “cảm quan” là nhận thức, cảm
nhận trực tiếp bằng các giác quan [35; tr.139].
Từ các khái niệm sinh thái và cảm quan chúng tôi đưa ra cách hiểu về khái
niệm cảm quan sinh thái như sau: Cảm quan sinh thái là cảm nhận, suy nghĩ, cách
nhìn nhận đánh giá của cá nhân về các vấn đề sinh thái. Cảm quan sinh thái không
phải là suy nghĩ của xã hội mà thiên về suy nghĩ cá nhân trước các vấn đề sinh thái
mà cá nhân đó cảm nhận được, sau đó được bộc lộ ra bên ngoài thành quan điểm
riêng, mang đấu ấn riêng của người nghệ sĩ thông qua những sáng tạo nghệ thuật
của chính họ.
1.1.5. Phê bình sinh thái
Theo bản dịch của tác giả Trần Thị Ánh Nguyệt trong bài báo Nghiên cứu

văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường đăng trên trang web
Tapchisonghuong.com.vn, khái niệm phê bình sinh thái được nói như sau:
“Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học
và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và
văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit mang lại ý thức của phương thức sản
xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương
pháp tiếp cận trái đất là trung tâm để nghiên cứu văn học. Phê bình sinh thái và
các nhà lí thuyết đã đặt ra nhiều vấn đề: tự nhiên được hình dung như thế nào
trong các bài thơ trữ tình? Vai trò của bối cảnh tự nhiên trong cốt truyện của tiểu
thuyết? Các giá trị thể hiện trong kịch có nhất quán với trí tuệ sinh thái? Làm thế
nào chúng ta có thể mô tả cách viết về tự nhiên như một thể loại? Ngoài chủng
tộc, giới tính nên đặt điểm nào trở thành danh mục phê bình mới? Nhà văn nam
viết về tự nhiên khác nhà văn nữ như thế nào? Cách đọc nào chịu ảnh hưởng của
mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên? Ý niệm về sự hoang dã sẽ thay
đổi như thế nào trong thời gian tới? Những cách nào và những tác động gì mà
khủng hoảng môi trường thấm vào văn học đương thời và văn hóa đại chúng?
Quan niệm về tự nhiên nào đã thấm nhuần trong các báo cáo của chính phủ Mĩ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
những quảng cáo của các doanh nghiệp, các tài liệu tự nhiên của truyền hình và
những gì ảnh hưởng một cách rộng rãi? Những hướng đi nào khoa học sinh thái
học hướng đến trong nghiên cứu văn học? Khoa học mở ra như thế nào trong
việc phân tích văn học? Sự trao đổi lẫn nhau giữa những khái niệm không
giống nhau có thể có giữa nghiên cứu văn học và diễn ngôn môi trường trong
mối quan hệ liên ngành như lịch sử, triết học, tâm lí, lịch sử nghệ thuật, đạo
đức?” [30]
“Phê bình sinh thái là một khuynh hướng phê bình văn học mới mẻ và hấp
dẫn. Nó được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ XX, tiếp đó

xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới nhưng chưa thực sự được đón nhận mạnh
mẽ và sôi nổi ở Việt Nam như các khuynh hướng phê bình khác.
Phê bình sinh thái manh nha vào những năm 70 của thế kỉ 20. Năm 1974,
học giả người Mĩ Joseph W. Meeker cho xuất bản chuyên luận Sinh thái học của
văn học đề xuất thuật ngữ "sinh thái học văn học" (literary ecology), chủ trương
phê bình nên bàn đến "quan hệ giữa nhân loại và các vật chủng khác, "phải nhìn
nhận và khám phá một cách tỉ mỉ chân thành ảnh hưởng của văn học đối với
hành vi nhân loại và môi trường tự nhiên".
Năm 1978, William Rueckert trên tạp chí Bình luận Iowa số mùa đông, đã
đăng một bài viết với tiêu đề Văn học và sinh thái học: Một phác thảo thử nghiệm
phê bình sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism) lần
đầu tiên sử dụng thuật ngữ "phê bình sinh thái" (ecocriticism), đề xướng một cách
rõ ràng "kết hợp văn học và sinh thái học", nhấn mạnh rằng nhà phê bình "phải có
cái nhìn sinh thái học", cho rằng nhà lí luận văn nghệ nên "xây dựng được một hệ
thống thi học sinh thái". Tuy nhiên trong thời kì này, phần lớn giới phê bình văn
học vẫn chưa biết phê bình sinh thái rốt cuộc là cái gì. Vì thế, năm 1994, trong
Hội văn học miền Tây, Blanche và Sean O Grady đã tổ chức hội nghị bàn tròn
mời khoảng 20 học giả đến để giới thuyết khái niệm "phê bình sinh thái". Tháng
6-1995, ASLE lần đầu tiên tổ chức hội thảo khoa học tại trường đại học
Colorado, hội nghị nhận được hơn 200 báo cáo. Mọi người thường coi đại hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12
lần này của ASLE là tiêu chí đánh dấu sự hình thành của khuynh hướng hoặc
trào lưu phê bình sinh thái.
Năm 1996, tuyển tập Văn bản phê bình sinh thái do Cheryll Glotfelty và
Harold Fromm chủ biên được xuất bản. Cuốn sách này được công nhận là tài
liệu nhập môn của phê bình sinh thái. Cuốn sách chia làm ba phần, phân biệt
thảo luận sinh thái học và lí luận văn học sinh thái, phê bình sinh thái của văn

học và phê bình của văn học sinh thái. Cuối sách còn liệt kê và giới thiệu sơ lược
tính đến cuối năm 1995 những bài báo và chuyên luận phê bình sinh thái quan
trọng nhất. Năm 1998, tại Luân Đôn, tuyển tập Viết về môi trường: phê bình sinh
thái và văn học do nhà phê bình người Anh R. Kerridge và N. Sammells chủ
biên được xuất bản. Đây là bộ tuyển tập phê bình sinh thái đầu tiên ở Anh. Sách
được chia thành ba phần: lí luận phê bình sinh thái, lịch sử phê bình sinh thái và
văn học sinh thái đương đại, tổng cộng 15 chương, tác giả là những nhà phê bình
sinh thái Âu Mĩ.
Bước sang thế kỉ 21, phê bình sinh thái phát triển sâu rộng hơn. Năm
2001, Buell cho xuất bản cuốn Viết vì thế giới đang lâm nguy: văn học, văn
hóa, môi trường nước Mĩ và các quốc gia khác.
Năm 2002, Tập san nghiên cứu văn học uy tín Nghiên cứu văn học liên
ngành năm đó cũng liên tục giới thiệu hai kì đặc san về phê bình sinh thái: Thi
học sinh thái (số 3) và Phê bình văn học sinh thái (số 4). Roosendaal chủ biên
tuyển tập Xanh hóa nghiên cứu văn học: văn học, luân lí và môi trường, Dries
cho xuất bản chuyên luận Phê bình sinh thái: sáng tạo tự ngã và hoàn cảnh
trong văn học Indian Mĩ và môi trường. Cuốn sách này bắt đầu bằng phân tích
tác phẩm của nhà văn Indian Mĩ, bàn về phương thức tồn tại của sinh thái. Tác
giả của cuốn sách phát biểu một cách rõ ràng mục đích của bà là "xây dựng sự
tồn tại đẹp đẽ mang tính chỉnh thể sinh thái. John Pamu chủ biên cuốn tuyển tập
Truyền thống môi trường trong văn học Anh ngữ, trong đó sưu tầm 15 bài bàn về
phê bình sinh thái từ góc độ lí luận và thực tiễn. Cuốn giáo trình Lí luận khởi
điểm: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa do Peter Barry soạn được xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

13
bản lần thứ 2 ở Nhà xuất bản đại học Manchester, cuốn giáo trình này có thêm
một chương mới là "Phê bình sinh thái", giới thiệu một cách toàn diện sự ra đời,
thuật ngữ, hàm nghĩa, thành tựu chủ yếu, nhiệm vụ của phê bình sinh thái, còn

thêm một bài liệt kê thực tiễn phê bình sinh thái. Cùng năm, cuốn Dẫn luận phê
bình sinh thái thể kỉ 21 do Julian Wolfreys chủ biên do nhà xuất bản Edinburgh
xuất bản, cuốn sách cũng dùng một chương giới thiệu về phê bình sinh thái. Như
vậy, sự giới thiệu của các giáo trình tài liệu cho thấy phê bình sinh thái đã nhập
vào dòng chính của học thuật” [13]
1.2. Vấn đề sinh thái và môi trƣờng trong xã hội hiện nay
Trong vài thập kỷ gần đây loài người giật mình khi thấy dân số tăng nhanh
và số dân quá đông, nhu cầu về thức ăn và nơi ở lớn, môi trường ô nhiễm, quá
nhiều chất thải, quá nhiều độc hại. Để phục vụ cho nhu cầu không ngừng gia tăng
của con người, tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác ồ ạt hơn, đẩy nhân
loại đối mặt với những hiểm hoạ môi trường đang lớn dần. Vô tình, con người vừa
nổ lực cải thiện cuộc sống, vừa huỷ hoại môi trường sống của chính mình với mức
độ chưa từng có. Mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên cũng như
sự tác động qua lại giữa chúng đang là mối quan tâm hàng đầu không chỉ đối với
các nhà nghiên cứu mà hầu như đối với tất cả mọi người đang sống trên hành tinh
này.
“Theo báo cáo của Liên Hiệp quốc, trong khoảng thời gian 1981 - 1990, đã
có 16,3 triệu ha rừng bị triệt phá, trong đó 15,4 triệu ha là rừng nhiệt đới và rừng
ngập mặn, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với con người. Riêng trong thập kỷ
1990, mỗi năm 2,4% diện tích rừng trên trái đất bị tàn phá. Chandrasekharan
(1996) ước tính các nước đang phát triển bị thiệt hại hàng năm khoảng 45 tỷ USD,
do sự suy thoái của rừng.
Ngày càng có nhiều loài động thực vật bị tuyệt chủng hay đang trên bờ vực
tuyệt chủng. Nghiên cứu của Ramade F. (1993) cho biết: sau kỷ Thứ Ba, tốc độ
tuyệt chủng của sinh vật tối đa là 150 loài trong 1 triệu năm, tức là trong khoảng
thời gian 50 đến 100 năm, cùng lắm chỉ có một loài bị diệt vong; vậy mà ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

14

nay, ước tính hàng năm có khoảng 10.000 loài bị tuyệt chủng; nếu nhịp độ này
kéo dài, thì chỉ 20 - 30 năm nữa, ¼ loài sinh vật trên thế giới sẽ bị tuyệt chủng. Đó
là một tốc độ tuyệt chủng gấp 1.000 đến 10.000 lần so với các đợt tuyệt chủng
hàng loạt lớn khác trong thời tiền sử.
Một lượng khổng lồ các loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính tích luỹ trong
khí quyển làm khí hậu địa cầu đang nóng dần lên, với biểu hiện rõ rệt nhất là khí
hậu trên toàn cầu thay đổi bất thường, các tảng băng ở hai cực địa cầu tan nhanh
và mực nước biển đang trong chiều hướng dâng cao, đe doạ nhấn chìm nhiều hòn
đảo ở Thái Bình Dương và các vùng đất thấp ven biển. Kèm theo đó là sự gia tăng
lượng mưa axit, lỗ hỏng tầng ozon đang lớn dần, cùng những tác hại chưa lường
hết được trong tương lai. Trong thế kỷ XX trái đất đã nóng lên 0,5 độ, và mực
nước biển đã tăng khoảng từ 10 đến 25 cm. Nhóm công tác liên chính phủ về sự
thay đổi khí hậu (IPCC) dự đoán trong thế kỷ XXI, nhiệt độ trái đất sẽ tăng 2 - 2,5
độ và mực nước của các đại dương sẽ tăng lên từ 0,5 đến 1m. Con người ngày
càng ý thức rõ hơn: Trái đất là tài sản chung và bảo vệ môi trường là vấn đề sống
còn của nhân loại. Tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển
(với sự có mặt của hơn 100 nguyên thủ quốc gia, tại Rio de Janeiro, Brazil, 1992)
đã chỉ rõ tính dễ tổn thương của các nguồn tài nguyên thiên nhiên; sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các nhân tố trước các nguồn tài nguyên này và trách nhiệm gìn giữ
các nguồn tài nguyên cho các thế hệ mai sau. Những thách thức về môi trường đã
trở thành yếu tố quyết định tương lai của cả hành tinh, cũng như sự ổn định chính
trị trên thế giới” [38].
Như vậy, vấn đề đáng bảo động hiện nay chính là sự suy thoái nghiêm
trọng về mặt sinh thái và cách thức con người ứng xử với tự nhiên: con người
đang ngược đãi tự nhiên. Sự can thiệp quá thô bạo của con người vào giới tự nhiên
khiến chúng không đủ sức chịu đựng và bị phá vỡ sự cân bằng, ổn định vốn có của
nó. Ngày càng có nhiều những tai biến thiên nhiên gây nên những hậu quả vô cùng
xấu cho xã hội loài người cả về mặt môi trường và chất lượng cuộc sống. Thủ phạm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


15
gây nên các vấn đề môi trường là con người và cũng chính con người là nạn nhân
của các hiểm họa môi trường. Chính bởi lẽ đó, con người cần thay đổi về thái độ và
cách ứng xử với tự nhiên để tìm lại sự bình đẳng trong mối quan hệ với tự nhiên
nhằm đảm bảo sự bình yên và ổn định cho môi trường sống của chính con người.
Nói như Albert Einstein, nhà bác học lỗi lạc nhất của thế kỷ XX: “Chúng ta cần
phải có một kiểu tư duy mới, nếu nhân loại muốn tồn tại.”
1.3. Vấn đề sinh thái trong văn học nghệ thuật
Sinh thái trong văn học hay nói cách khác là mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên trong văn học nghệ thuật cho thấy đã từ lâu nhân loại luôn kiêu hãnh khi
cho rằng con người là trung tâm của thế giới, con người là tinh hoa của muôn loài,
và coi việc chinh phục tự nhiên là một trong những mục đích vĩ đại nhằm khẳng
định sức mạnh và địa vị của mình trong vũ trụ. Ngày nay, con người vẫn tiếp tục
khẳng định mình trong công cuộc chinh phục tự nhiên bằng sức mạnh của khoa
học kỹ thuật hiện đại. Tuy nhiên, sự hào phóng của tự nhiên đã không còn đủ của
cải để đáp ứng nhu cầu ngày một nhiều của con người, nó oằn mình trước sự khai
thác ồ ạt và đau đớn khi không được bù đắp những tổn thất mà con người gây ra.
Những suy thoái nghiêm trọng của môi trường sinh thái đã tác động không nhỏ
đến cuộc sống của con người, điều này cũng đánh thức ý thức của nhân loại trước
vấn đề mang tính toàn cầu này.
Văn học nghệ thuật vốn là tấm gương phản chiếu cuộc sống, là một phần
tạo nên giá trị văn hóa của cuộc sống, là thông điệp của nhà văn đối với ý thức xã
hội. Thông qua thành tựu của văn học người ta có thể đánh giá về nền văn hóa của
một dân tộc đó. Theo quan niệm hiện nay, khái niệm văn hóa đã được mở rộng
hơn. Văn hóa, bên cạnh thành tố tư tưởng, còn bao gồm hàng loạt những hệ thống
hành vi, ứng xử của con người đối với nhau và đối với tự nhiên. Cách ứng xử
thích hợp của con người với tự nhiên làm nên lối sống, nếp sống đẹp của một cộng
đồng xã hội. Nói cách khác, ứng xử có văn hóa còn là những biểu hiện tích cực
trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Biểu hiện ấy tốt hay xấu làm nên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

16
tính chất và giá trị của văn hóa. Cách ứng xử của con người với tự nhiên được coi
là có văn hóa là khi con người khai thác tự nhiên một cách hợp lý, bù đắp những
tổn thất của tự nhiên một cách thích hợp và không tận diệt tự nhiên. Khi con người
biết cân bằng giữa lợi ích của mình và sự tồn tại, phát triển của tự nhiên thì mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên trở nên hài hòa, bền vững và ngược lại.
Vấn đề sinh thái trong văn học nghệ thuật không phải bây giờ mới được
bàn tới mà đã xuất hiện từ lâu trong văn học dân gian và văn học trung đại cũng
như văn học cận, hiện đại. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ, sự biểu hiện này khác
nhau bởi sự chi phối của tư tưởng thời đại và chủ thể sáng tạo đến tác phẩm văn
học. Gần đây, vấn đề sinh thái trong văn học nổi lên với tư cách một trường phái
nghiên cứu văn học mới mang tính nhân văn hiện đại mà bản chất của nó là quan
tâm đến mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên trong văn học.
1.3.1. Con người và thiên nhiên trong văn học dân gian
Có thể thấy rằng các tác phẩm văn học dân gian phản ánh những vấn đề
xung quanh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cho thấy con người thụ động
trong mối quan hệ với tự nhiên. Từ buổi sơ khai văn học, bằng tư duy thần thoại,
văn học nhìn tự nhiên như các vị thần linh, nhằm nhận thức, cải tạo, chinh phục tự
nhiên. Tiếp đến, tự nhiên xuất hiện trong văn học chính là thiên nhiên quê hương,
đất nước: núi sông, đồng ruộng, bến nước, dòng sông, con trâu, cánh cò tươi đẹp,
thân thương. Thiên nhiên này chủ yếu được thể hiện trong các thể loại trữ tình dân
gian. Khi văn học viết chưa xuất hiện, đời sống văn hóa tinh thần của con người
được làm giàu và nuôi dưỡng bởi một nền văn học dân gian phong phú và ngọt
ngào. Trong bầu sữa tinh thần ấy tình cảm và mối quan hệ giữa con người với con
người, con người với thiên nhiên được nuôi dưỡng và bày tỏ bằng những câu cao
dao, dân ca, những truyền thuyết, thần thoại hay những câu chuyện cổ tích. Bên
cạnh những tác phẩm dân gian nói về mối quan hệ giữa con người với con người

trong cộng đồng xã hội còn có một mảng nói về mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên. Đó là tình yêu thiên nhiên, yêu những cảnh đẹp của quê hương đất
nước hay những chiến công của các vị anh hùng của cộng đồng trong công cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

17
chinh phục và chiến thắng các thế lực tự nhiên đe dọa cuộc sống bình yên loài
người.
Nước ta bắt đầu với nền văn minh nông nghiệp nên phụ thuộc rất nhiều vào
tự nhiên. Đặc biệt trong thời phong kiến, khi khoa học kĩ thuật chưa là công cụ
đắc lực cho con người như ngày nay. Chính vì vậy, con người và tự nhiên có mối
quan hệ vô cùng gắn bó, mật thiết. Một mặt con người tôn sùng, những hiện tượng
tự nhiên; một mặt cũng lo sợ trước thiên nhiên biến hóa không cùng, ngoài vòng
kiểm soát của họ. Chính vì vậy cha ông ta vẫn có tín ngưỡng thờ các vị thần tự
nhiên như thần mặt trời, thần nước, thần sông, mây, mưa, sấm, chớp… để cầu
mong mưa thuận gió hoà, không có hạn hán, lụt lội để có mùa màng bội thu, cuộc
sống bình yên.
Trước những vẻ đẹp của tự nhiên, dân gian đã sáng tác nên những câu cao
dao đằm thắm, ngọt ngào, con người đắm mình trong ánh trăng huyền ảo, ngây
ngất trước vẻ nên thơ của sông núi quê hương. Thông qua những câu ca dao hay
những bài dân ca đó, thiên nhiên hiện lên với dáng vẻ của một nàng thiếu nữ dịu
dàng và sẵn sàng ban tặng những báu vật của mình cho con người. Không phải khi
đó con người không khai thác tự nhiên để phục vụ cho sự sinh tồn của mình, càng
không phải thiên nhiên khi đó không biết nổi giận trước con người mà vì sự can
thiệp của con người vào giới tự nhiên vẫn còn trong chừng mực cho phép. Hơn
nữa, con người khi ấy chưa có nhiều công cụ hiện đại để hỗ trợ việc khai thác tự
nhiên như hiện nay nên tự nhiên sẵn sàng ban tặng của cải của mình cho con
người. Nói về vẻ đẹp của quê hương đất nước với những thắng cảnh đẹp có bài ca
dao:

Ai đi qua phố Khoa Trường
Dừng chân ngắm cảnh núi rừng xanh xanh
Dòng sông uốn khúc chảy quanh
Trên đường cái lớn bộ hành ngược xuôi [50; tr.130].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

18
Dân gian cũng nói đến những mảnh đất trù phú, cây cối tốt tươi, chim chóc
đông đúc, líu lo ca hát:
Ở đâu bằng xứ Lung Tràm
Chim kêu như hát bội, cá lội vàng tơ mắm nêm [50; tr.221].
Mối quan hệ thân thuộc và hài hòa giữa con người và tự nhiên được phản
ánh trong ca dao hết sức bình dị:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa [50; tr.41].
Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong văn học dân gian hết sức hài
hòa, có chăng ở một số thần thoại hay truyền thuyết xảy ra một số xung đột với tự
nhiên thì chỉ dừng lại ở việc con người tìm cách chinh phục tự nhiên nhằm thể
hiện sức mạnh của mình. Khi đó, tự nhiên chưa được con người nhận thức mà chỉ
nhìn thấy những hiện tượng của tự nhiên và sợ hãi trước sự hung hãn của nó mà
không phải khi ấy thiên nhiên đã nổi giận với con người như hiện nay. Mối quan
hệ giữa hai đối tượng này trong môi trường sinh thái không kèm theo thái độ của
mỗi bên đối với nhau. Những vấn đề xảy ra hoàn toàn do bản chất của tự nhiên
quy định thế nào thì nó thể hiện như vậy. Hoàn toàn không có sự đối đầu, đe dọa
lẫn nhau
Vì là nền văn minh nông nghiệp, lại chưa có nhiều công cụ nên con người
sản xuất dựa vào phỏng đoán của mình vào tự nhiên là chủ yếu: “trăng quầng trời
hạn, trăng tán trời mưa” hay “chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay
vừa thì râm” Nhận thức của con người về tự nhiên hết sức mơ hồ, hầu như dựa

vào sự tích lũy kinh nghiệm từ sự trải nghiệm của đời này qua đời khác mà chưa
nhận thức đúng về bản chất của các hiện tượng tự nhiên. Lúc này, con người cũng
bắt đầu tìm cách tác động vào tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ mình như đắp đê
ngăn nước, làm thủy lợi dẫn nước… nhưng cơ bản vẫn lệ thuộc vào thiên nhiên:
Đêm trời lạnh, trăng sao không tỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

19
Đó là điềm mưa gió tới nơi
Đêm nào sao sáng xanh trời
Ấy là nắng ráo, yên vui suốt ngày [50; tr.661].
Hay việc dân gian quan sát các hiện tượng tự nhiên để biết mùa vụ:
Trên trời có ông sao Thần
Bốn mùa chỉ lối cho dân ăn làm
Sang xuân thần cúi lom khom
Là mùa trồng đậu dân làng biết chăng?
Bước sang tháng chín rõ trăng
Lưng thần hơi đứng là đang gặt mùa [50; tr.687].
Lúc bấy giờ, thiên nhiên với con người vẫn là điều bí ẩn. Trước những hiện
tượng thiên nhiên mà họ không thể chống chọi hoặc lí giải được nguyên nhân thì
họ lại thần thánh hóa nó lên và gắn cho nó một sự tích hay một hình tượng nào đó
để thờ cúng như Sơn Tinh, Thủy Tinh gắn với hiện tượng lũ lụt hằng năm. Họ
khao khát có được khả năng chống lại nước lụt bằng cách nước dâng đến đâu thì
đất cao lên đến đó; tháng bảy mưa nhiều làm nên câu chuyện tình của Ngưu Lang
- Chức Nữ… Khi đó, những tai biến của thiên nhiên chưa được nhìn nhận dưới
góc độ môi trường sinh thái. Ngày nay, khi con người đã nhận thức được tự nhiên,
chinh phục được tự nhiên lại không tìm cách chung sống hài hòa với nó mà dùng
sức mạnh của khoa học, kỹ thuật có được để đe dọa sự ổn định của giới tự nhiên,
can thiệp quá sâu vào cái hoang sơ, vốn có của tự nhiên khiến chúng dần mất đi

dáng dấp và bản chất vốn có của mình.
Có thể thấy rằng không phải đến bây giờ các tác phẩm văn học mới nói đến
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên mà ngay từ những tác phẩm văn học dân
gian, ý thức về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên đã được hình thành và
xây dựng. Do những nhận thức ban đầu của con người về tự nhiên còn mơ hồ nên
họ thần thánh hóa tự nhiên và cầu mong các hiện tượng tự nhiên giúp đỡ con
người trong sản xuất nông nghiệp

×