Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

nhận thức của sinh viên về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.53 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
o0O0o
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH
Đề tài:Nhận thức của sinh viên về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân hiện
nay.
Giảng viên: Lê Thái Thị Băng Tâm
Họ tên sinh viên: Đoàn Ngọc Vĩ
Mã sinh viên: 11031010
Lớp: K56 _ Xã Hội Học
Hà Nội, ngày 07 tháng 01 năm 2013
1. Dẫn Nhập.
Trong những năm gần đây, sự phát triển vượt bậc của kinh tế - chính trị - văn hóa
đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin đã đem lại những thành
tựu đáng ghi nhận cho nước ta. Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta phải đối mặt với mặt trái
của nó đó là sự du nhập quan niệm, khuynh hướng phát triển khác nhau từ phương tây.
Chính vì vậy quan niệm, lối sống của giới trẻ hiện nay đang là chủ đề thu hút rất nhiều sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục đào tạo và nhiều nhà hoạch định
chính sách. Xã hội càng phát triển thì thế hệ trẻ tiếp theo cũng sẽ biến đổi, thay đổi để
thích ứng, chấp nhận và đi theo những khuynh hướng phát triển xã hội mới sao cho phù
hợp. Ở xã hội hiện đại, những quan điểm, thái độ của giới trẻ về cuộc sống đã thay đổi
nhiều so với quan niệm của xã hội truyền thống, đặc biệt là thái độ đối với mối quan hệ
giữa nam và nữ, về tình dục, hôn nhân và gia đình của người Á Đông.
Hiện nay, với xu hướng biến đổi nhanh chóng voi quan điểm nhận thức và tư duy
đã có rất nhiều hiện tượng xã hội nảy sinh liên quan đến sự biến đổi lối sống của thế hệ
trẻ như hiện tượng sống thử, quan hệ tình dục trước hôn nhân (QHTDTHN), hiện tượng
nạo phá thai,…
Niên giám thống kê của bộ y tế năm 2004 cho thấy: hằng năm hệ thống y tế các
nước tiếp nhận 1,3 đến 1,5 triệu ca nạo phá thai. Tuy nhiên, nêú thống kê được đầy đủ số


liệu từ các cơ sở y tế tư nhân thì con số nạo phá thai ở nước ta không chỉ dừng lại ở đó.
Nhưng cũng không cần đến con số đầy đủ như vậy Việt Nam cũng “đủ tiêu chuẩn” xếp
thứ 3 về tỉ lệ nạo phá thai và đứng đầu thế giới về tỉ lệ nạo phá thai vị thành niên.
Kéo theo đó, tình dục được xác định là một trong những nguyên nhân dẫn đến
HIV/AIDS và thanh niên là lực lượng có nguy cơ mắc HIV/AIDS cao. Ở nước ta, tỉ lệ
thanh thiếu niên mặc HIV/AIDS chiếm rất cao, hàng năm số người chết vì HIV/AIDS
chiếm lượng rất lớn.
Những hậu quả gây ra đã khiến cho thực trạng QHTDTHN trở thành một vấn nạn
trong xã hội nước ra hiện nay. Để cổ xúy đúng đắn những hành vi hợp lí và loại bỏ những
hành vi bất hợp lí, hơn bao giờ hết thực tiền cuộc sống đặt ra yêu cầu phải có những tìm
hiểu thấu đáo về quan hệ tình dục trước hôn nhân của tầng lớp thanh niên, sinh viên, từ
quan điểm, nhân thức tới thái độ, hành vi.
Sinh viên là một bộ phận có hàm lượng tri thức cao, song sự tiếp nhận thông tin và
quan điểm cũng như hành vi của họ có thực sự “tiến bộ” hơn tầng lớp thanh niên nói
chung? Mỗi ngày vẫn có hàng loạt ca nạo phá thai ngoài ý muốn trong sinh viên? Vậy
đâu là nguyên nhân dẫn tới những tình trạng này? Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh
viên với các vấn đề QHTDTHN như thế nào? Hàng loạt các câu hỏi được đặt ra từ thực
tiễn cuộc sống thôi thúc tác giả có một cái nhìn đầy đủ về vấn đề QHTDTHN trong thanh
niên, sinh viên hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, vấn đề sức khỏe sinh sản (SKSS) sinh viên, thanh niên (SV/TN) đang là
một trong những nội dung thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới, bởi chăm
sóc cho SV/TN hôm nay là tạo bước khởi đầu tốt đẹp cho tương lai. Hơn thế, giới trẻ
ngày nay đang phải đối diện với nhiều thách thức, lối sống thay đổi, giá trị sống cũng có
nhiều biến đổi. Vì thế nếu không được trang bị kiến thức một cách đầy đủ sẽ khiến cho
những thế hệ thanh niên, sinh viên gặp lúng túng, khó khăn trong cuộc sống và có thể sẽ
lựa chọn những hành vi sai lệch để lại nhiều hậu quả đáng tiếc.
Trong những năm gần đây, có nhiều nghiên cứu đã hướng sự quan tâm đến Sinh
viên, thanh niên nhất là về nhận thức của sinh viên, thanh niên về SKSS, QHTDTHN và
quan hệ tình dục (QHTD) an toàn.

Đề tài nghiên cứu: Phạm Thị Anh Minh, “Thái độ xã hội đối với hành vi quan hệ
tình dục của vị thành niên”, luận văn thạc sĩ, 2011. Đã đưa ra những nhận định: Phần lớn
ý kiến cho rằng vị thành niên hiện nay có QHTDTHN là do ảnh hưởng của lối sống hiện
đại (66,3%), của lối sống vật chất(51,7%), muốn khẳng định bản thân mình và muốn trở
thành người lớn, nhưng không lường trước được hậu quả của nó như thế nào. Đưa ra kiến
nghị, giáo dục SKSS, QHTD an toàn cho vị thành niên là quan trọng và rất cần thiết.
Phần lớn ý kiến không tán thành QHTDTHN nhưng họ nhận thức được rằng hành vi
QHTD ở vị thành niên hiện nay là hành vi khó tránh khỏi. Cho rằng quan niệm và cách
nhìn nhận giữa nam và nữ là khác nhau và do đó đánh giá của họ cũng khác nhau, tỉ lệ
nam giới tán thành QHTDTHN nhiều hơn nữ giới.
Cùng với đề tài: Phan Thanh Nguyệt, “nhận thức, thái độ, hành vi của thanh niên,
công nhân về quan hệ tình dục trước hôn nhân”, luận văn thạc sĩ, 2010. Như đã nêu ở
trên, tác giả đưa ra nhận định: tỉ lệ thanh niên công nhân có nhân thức về khái niệm tình
dục, QHTD, QHTD an toàn là khá cao, tuy nhiên vẫn còn một tỉ lệ không nhỏ thanh niên
có nhận thức chưa đúng, chưa đủ. Cũng như các nghiên cứu đã nêu trước, ở nghiên cứu
này, tác giả cũng đưa ra khẳng định, thanh niên công nhân có thái độ rất cởi mở, thoáng
trong vấn đề chấp nhận QHTDTHN. Tỉ lệ thanh niên công nhân đã có QHTDTHN chiếm
khá cao 37,9%, 39,3% khẳng định QHTDTHN không sử dụng bao cao su. Đa số thanh
niên được hỏi không sử dụng biện pháp tránh thai trong quá QHTD là do không muốn sử
dụng (81%). Những yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ, hành vi của cá nhân về
QHTDTHN là những yếu tố mang tính đặc điểm về nhân khẩu học như giới tính, lứa
tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân,… Ngoài các yếu tố đặc điểm cá nhân còn các
yếu tố như gia đình, truyền thông đại chúng, nhóm bạn bè cũng có tác động không nhỏ.
Có thể thấy rằng các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí, các cơ quan chức năng ở
nước ta đã dành sự quan tâm và lo lắng nhiều đến những vấn đề SKSS vị thành niên,
những chỉ báo về tình trạng QHTDTHN ở thanh niên, sinh viên, về mang thai, nạo phá
thai, kết hôn sớm, sinh con ngoài ý muốn, mại dâm, nghiện hút,… và mắc các bệnh lây
truyền qua đường tình dục nhất là HIV/AIDS ở vị thành niên Việt Nam ngày càng có xu
hướng gia tăng và hết sức đáng lo ngại, vấn đề thực sự cấp bách khi nước ta hòa nhập với
thế giới. Tuy nhiên, hiện nay có rất ít các đề tài nghiên cứu về sự nhìn nhận, thái độ đánh

giá của sinh viên về hành vi QHTDTHN. Chính vì vậy, đề tài này sẽ góp một phần nhỏ
trong việc tìm hiểu thực trạng nhận thức đánh giá của sinh viên về hành vi QHTDTH của
sinh viên hiện nay.
3. Lý thuyết áp dụng.
Lý thuyết hành động xã hội
Max.Weber chỉ rõ đối tượng nghiên cứu cuả xã hội học là lý giải hành động xã
hội. Ông chỉ sự khác nhau giữa hành động xã hội khác và những hành vi tác động của
con người. Nói tới hành động là nói tới chủ thể gắn cho hành vi của mình một ý nghĩa
chủ quan nào đó. Hành động kể cả hành động thụ động và hành động đều được coi là
hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó có tính đến hành vi của người khác trong
quá khư, hiện tại, hay trong tương lai; ý nghĩa chủ quan đó định hướng hành động.
Max.Weber cho rằng xã hội học là một đính lý giải thích các lý do của hành động
xã hội, quy trình và tác động cuả chúng. Hành động có nghĩa là một thái độ của con
người (từ hành động bên ngoài đến hành động bên trong, không được phếp hay được
phép) khi và chỉ khi hành động gắn liền ý nghĩa của mình với một ý nghĩa chủ quan.
Hành đọng xã hội thì có định hướng ý nghĩa theo thái độ của những người khác.
Không phải hành động nào cũng có tính xã hội hay đều là hành động xã hội.
Không phải tương tác nào của con người cũng là hành động xã hội.
Hành động giống nhau của các cá nhân trong một đám đông cũng không đươc coi
là hành động xã hội. Thậm chí hành đọng bắt trước hay làm theo người khác cũng không
phải là hành động xã hội. Hành động xã hội có thể coi là hành có nguyên nhân từ phía
người hành động xã hội. Tuy nhiên cũng là hành động bắt trước người khác, nhưng nếu
bắt trước đó là do một và mẫu mực, nếu không bắt trước theo sẽ bị người khác chê cười
thì coi là hành động xã hội.
Để hiểu hơn về hành động xã hội ông phân làm bốn loại hành động xã hội sau:
• Hành động duy lý công cụ là hành động được thức hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa
chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất.
• Hành động duy lý giá trị là hành động được thực hiện vì bản than hành động. Thực chất
hành động có thể nhằm vào những mục tiêu phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những
công cụ, phương tiện duy lý.

• Hành động cảm tính là hành động do các trạng thái cảm xúc hoạc tính toán bộc phát gây
ra mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện
và mục đích hành động.
• Hành động theo truyền thống là loại hành động tuân thủ những thói quen nghi lễ, phong
tục, tập quán đã được truyền từ đời này sang đời khác.
Đối với đề tài nghiên cứu này lý thuyết hành động của Max.Weber không chỉ giúp
ích về mặt lý thuyết khi áp dụng phân biệt các đẳng thức hành động xã hội trong nước
ngày nay, mà còn giúp đánh giá được mức độ của các hành đông, đi tìm hiểu lý do của
hành động xã hội, của hành vi quan hệ tình dục, nhưng lý do của sự từ chối hay chấp
nhận… Ngược lại kết quả nghiên cứu còn làm sang tỏ những tri thức mà Max.Weber chỉ
ra.
Lý thuyết lựa chọn hợp lý:
Lý thuyết này được biết với tên tuổi của Coleyman- chủ tịch hiệp hôi Mỹ năm
1992. Trong ý tưởng cơ bản của mình công cho rằng hành động xã hội có mục đích của
các cá nhân hướng tới một mục tiêu, mục tiêu đó và do đó cả hành động nửa định hình
bởi các giá trị hay sở thích. Tức là ông thừa nhận cả hai yếu tố khách quan và chủ quan
trong hành đông có tính mục đích cá nhân. Không những thế ông còn cụ thể các yếu tố ấy
là giá trị và yếu tố sở thích. Như vậy sự lựa chọn hợp lý là sự cân nhắc của các giá trị, sở
thích.
Mối quan tâm của các cá nhân không hoàn toàn quy định quá trình của các sự kiên
của cả một tập thể mà cá nhân là thành viên nhưng sẽ quyết định tới hành vi lựa chọn bởi
mối quan tâm chính là sự biểu hiện rõ nhất của những gì lien quan đến lợi ích, quyền
lợi… Tức là có lien quan đến cá nhân đó, hoặc đến tập thể mà cá nhân đó thuộc về.
Trong các điểm căn bản, học thuyết sự lụa chọn hợp lý cho rằng hành vi của một
người được xác định bởi thái độ của hộ với kết quản của hành động và phản ứng của môi
trường xung quanh họ.
Những chuẩn mực cá nhận:Được tạo nên bởi những niềm tin mà một người tích
lũy suốt cả cuộc đời. Vài đức tin được hình thành từ những kinh nghiệm trực tiếp, một
vài cái khác tự người khác, hoặc truyền từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên chỉ có một
số ít những đức tin này tạo nên thái độ của cá nhân.Chúng được gọi là những đức tin nổi

bật, quan trọng nhất và được dọi là những yếu tố quyết định tức thời cho thái độ của mọi
người. Chuẩn mực khi đó là niềm tin nổi bật nhất để xem biểu hiện hành động của một
người là tích cực hay tiêu cực. Nếu người đó có niềm tin chủ đạo mang tính tích cực về
biểu hiện hành động của mình thì sẽ có thái độ tiêu cực với hành vi. Đó gọi là sức mạnh
của niềm tin. Sức mạnh của niềm tin và sự đánh giá được nâng lên thành chuẩn mục xã
hội.
Rằng buộc xã hội là những niềm tin về việc người khác nghĩ gì về hành vi của
mình chúng là những khái niệm: Về gia đình và bạn bè sẽ nhận thức thế nào về biểu hiện
hành vi và mức độ ảnh hưởng đến hành vi có được thực hiện hay không. Hai nhân tố này
được nhân lên để tạo thành rằng buộc xã hội. Cần phải chú ý rằng những rằng buộc xã
hội được tạo thành chỉ trong các mối tương quan giữa các ý kiến được coi là quan trọng
hoạc có ý nghĩa của nhiều người.
Dự định hành động: Được đánh giá bởi chủ thể, là khả năng một người có thể thực
hiện hành vi của mình hay không. Ý định này được tạo nên từ những chuẩn mực cá nhân
và rằng buộc xã hội. Tuy nhiên những biểu hiện này phản ánh sâu sắc đến chuẩn mực
hoặc những yếu tố cấu thành đức tin chuẩn mực và quan tầm quan trọng của chúng.
Những yếu tố này bao gồm các biến về nhân khẩu học vận dụng đặc điểm tính cách.
Trong nghiên cứu này lý thuyết được sử dụng để lý giải sự lựa chọn cho hành vi tình dục
của sinh viên… hành vi tình dục rất đa dạng, nhưng với đặc điểm chuẩn mực của mình
thì sinh viên đã lựa chọn hành vi tình dục như thế nào? Hành vi tình dục trước hôn nhân
của sinh viên chịu sự chi phối của những nhân tố nào? Chuẩn mực cá nhân và hành đong
xã hội trong trường hợp này được thể hiện ra sao. Đó là một trong những nội dung trọng
tâm để tìm hiểu thong qua việc vận dụng lý thuyết sự lụa chọn hợp lý này trong nghiên
cứu của minh.
4. Các khái niệm liên quan.
Khái niệm Sinh viên
Là người học tập tại các trường đại học hay cao đăng, hay trung cấp chuyên
nghiệp. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công
việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá
trình học. Quá trình học của họ theo phương pháp chính quy, tức là họ đã phải trải qua

bậc tiểu học và trung học. Họ là một nhóm dân số xã hội lớn, với các đặc điểm được xác
định bởi vai trò, vị trí của hệ thống tái sản xuất và phát triển xã hội.
Khái niệm Nhận thức
Các nhà tâm lý cho rằng hành động nhận thức chủ yếu của con người là phản ánh
thực tế khách quan, để thích nghi với nó hoặc để cải tạo nó. Quá trình hoạt động nhận
thức đi từ chưa biết đến biêt: từ các thuộc tính bên ngoài( cảm tính, trực quan, riêng rẽ)
đến sự chọn vẹn (ổn định, có ý nghĩa đi sâu vào bản chất của sự vật của nó). Sau đó đến
các thuộc tính bên trong đi sâu vào bản chất thực sự của sự vật hiện tượng được nghiên
cứu; cuối cùng từ đó trở về thực tiễn. Hành động nhận thức của con người diễn ra hai
hình thưc cơ bản là hành động nhận thức hay quá trình nhận thức.
Hành động nhận thức là hành dông nhận ra, biết được, hiểu được về một vấn đề cụ
thể trong đời sống vật chất hoạc tinh thần của con người. Quá trình nhận thức là kết quả
hiểu biết của con người về một vấn đề cụ thể của thế giới khách quan. Kết quả này được
tìm thấy trong một khoảng thời gian nhât định.
Còn theo từ điển Tiếng Việt: nhận thức là quá trình hay kết quả phản ánh và tai
hiện hiện thực vào tư duy, quá trình con người nhận biết thế giới khách quan trên kết quả
nghiên cứu đó. Tức là nhận thức la nhận ra, biết được va hiểu được.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng; nhận thức là sự phản ánh biện
chứng thế giới khách quan vao bộ óc con người. nhận thức la quá trinh xâm nhập cua ý
thưc con người vào hiện thực làm cho con người chịu sự chi phối của chủ thể và quá trình
này cũng chính là quá trình con người làm phong phú them tri thức của mình bằng những
tri thức mới. Đây chính là sự tương tác giữa chủ thể nhận thức vói khách thể nhận thức
trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.
Trong đề tài này tôi khái niệm nhận thức theo từ điển tiếng việt. theo đó “ nhận
thức là điều hiểu biết về sự vật do quan sát, xem xét mà có, là hiểu biết về sự kiện”.
Khái niệm Tình dục
Theo cuốn một số vấn đề lý luận về tình dục của tác giả Khuất Thu Hồng, Viện
Nghiên cứu và Phát triển xã hội thì: Tình dục la sự thể hiện tính dục của con người gồm:
- Tưởng tượng, mơ ước về quan hệ tình dục với đối tượng.
- Nói chuyện về vấn đề tình dục.

- Tự kích thích, thủ dâm.
- Quan hệ tình dục âu yếm, giao hợp với đối tượng.
Nói tóm lại, tình dục là những hoạt động, những suy nghĩ đem lại cảm xúc tình
dục cho con người. Tình dục không chỉ bao hàm hoạt động và hành vi tình dục mà cả suy
nghĩ, thái độ và cảm xúc. Như vậy hành vi tình dục là các hành đông( vuốt vê, ôm hôn,
kích thích, giao hợp) thể hiên tính dục của một người. Hoạt động tình dục hay hành vi
tình dục là những gì mà con người thể hiện với nhau hoặc với bản thân.
Nhưng trong cuốn vốn từ vựng của người Việt Nam hiện nay, theo cách hiểu
thong thường của đại đa số, quan hệ tình dục được dung để chỉ sự giao hợp mà con người
thực hiện với nhau.
Khái niệm Quan hệ tình dục trước hôn nhân
Xuất phát từ khái niệm “tình dục” vừa được định nghĩa và khu trú định nghĩa như
trên, khái niệm “ quan hệ tình dục trước hôn nhân” diễn ra trước khi kết hôn, trước sự
thừa nhận hôn nhân về mặt pháp lý hay về khía cạnh xã hội.
Trinh tiết ở nữ giới và vấn đề chưa quan hệ tình dục trước hôn nhân của nam
giới
Đây là thuật ngữ rất gây tranh cãi song trong đề tài này, thuật ngữ trinh tiết được
hiểu la sự nguyên vện đối với hành vi quan hệ tình dục, nói khác đi là việc chưa từng
quan hệ tình dục trước hôn nhân ở cả hai giới nam và nữ.
5. Nhận thức của sinh viên và xu hướng về quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Quan hệ tình dục trước hôn nhân có thể chia thành 2 trường hợp: trường hợp thứ
nhất là quan hệ nhưng không chung sống với nhau, trường hợp thứ hai là quan hệ và
chung sống với nhau như vợ chồng (sống thử).
Mặc dù quan niệm về giới tính và sức khỏe sinh sản (SKSS) hiện nay đã cởi mở
hơn và được thừa nhận là một vấn đề quan trọng trong sự phát triển con người, việc giáo
dục giới tính và SKSS ở trong các trường đại học, cao đẳng học nghề vẫn còn hạn
chế. Chăm sóc SKSS không chỉ thu hẹp ở những người đã có gia đình mà còn mở rộng
đến những người chưa kết hôn, đặc biệt là giới trẻ.
Trong môi trường đại học, các sinh viên đều trong độ tuổi còn trẻ. Bởi vậy, xu
hướng chung của thanh niên sinh viên là muốn được khám phá bản thân, tìm hiểu về giới

tính và SKSS. Tuy nhiên vấn đề này ở trong trường vẫn còn được ít đề cập đến. Sinh viên
thường hay tìm hiểu ở các nguồn thông tin khác trong đó có cả những thông tin sai lệch.
Do đó, hiểu biết và nhận thức của thanh niên, sinh viên về giáo dục giới tính, SKSS hiện
nay vẫn còn han chế.
Thanh niên ngày nay tỏ ra cởi mở hơn về tình dục trước hôn nhân. Theo một
nghiên cứu, nam thanh niên đã từng có quan hệ tình dục (QHTD) trước hôn nhân (kể cả
những người hiện đã kết hôn) là 13,6%, cao gấp hơn 2 lần so với nữ (5,2%) [Vũ Mạnh
Lợi,2011]. Một điều tra riêng trong nhóm sinh viên đại học chưa lập gia đình tại TP.HCM
[Trung tâm chăm sóc SKSS TP HCM, 2011] cho thấy, tỷ lệ có QHTD ở nam sinh viên là
hơn 19% và ở nữ là gần 6%. Trong số đã QHTD có 54,1% cho rằng QHTD trước hôn
nhân là sự biểu hiện của sự hấp dẫn về thể xác và tình cảm; 33,1% cho rằng QHTD trước
hôn nhân là chỉ sự thỏa mãn đơn thuần cho một đòi hỏi tự nhiên. Số sinh viên còn lại lựa
chọn ý kiến QHTD trước hôn nhân chỉ là một cách để có con hoặc không biết.
Theo khảo sát ở một số trường đại học tại Hà Nội, khoảng 28% số sinh viên được
hỏi trả lời có QHTD trước hôn nhân, 33% “đang lưỡng lự”, 24% “chưa có bạn trai (bạn
gái)” và 15% kiên quyết nói “không QHTD trước hôn nhân” [Viện nghiên cứu thanh
niên, 2011]. Như vậy, số lượng sinh viên có QHTD trước hôn nhân cũng như số “đang
lưỡng lự” chiếm một tỷ trọng tương đối (60,1%). Điều đó đồng nghĩa với việc SKSS của
họ sẽ bị tác động, ảnh hưởng nếu các sinh viên không biết cách bảo vệ nếu thiếu thông tin
và hiểu biết.
Tình dục trước hôn nhân được xem là hiện tượng mới nảy sinh trong xã hội hiện
đại. Quá trình hiện đại hóa đã dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quan niệm và hành
vi về tình yêu, tình dục, hôn nhân và gia đình. Trong quá trình hiện đại hóa, tuổi kết hôn
tăng lên nhưng tuổi có hoạt động tình dục lần đầu dường như không tăng, thậm chí giảm,
dẫn đến sự gia tăng hoạt động tình dục trước hôn nhân. Những nghiên cứu về tình dục
thường dựa trên giả thuyết rằng những người bị ảnh hưởng nhiều bởi các giá trị mới do
hiện đại hóa đem lại thường có xu hướng có hoạt động tình dục trước hôn nhân nhiều
hơn. Tình dục trước hôn nhân được xem là hiện tượng của thời hiện đại. Chúng tôi có giả
thuyết rằng ai chịu ảnh hưởng của hiện đại hóa nhiều hơn sẽ có sác xuất có tình dục trước
hôn nhân cao hơn.

Quan hệ tình dục trước hôn nhân hiên nay đang có xu hướng gia tăng bởi cách
nhận thức và thái độ của mọi người và vấn đề này ngày càng thoáng hơn.
Trong đề tài “Quan hệ tình dục trước hôn nhân của SV”- của Khắc Vũ, SV khoa
công nghệ thong tin và Truyền thông, Trường Đại học (ĐH) Cần Thơ. Bạn cho biết trong
năm 2008, nhóm đã khảo sát hơn hơn 8.000 SV tại Trường ĐH Cần Thơ và hơn 4.000
SV ở các trường ĐH khác tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Nguyên. Kết quả
cho thấy, tỷ lệ SV đồng ý với việc quan hệ tình dục trước hôn nhân ngày càng cao, có xu
hướng tăng lên ở một số khu vực nội thành đô thị lớn. Với câu hỏi “Bạn có muốn sống
quan hệ tình dục trước hôn nhân không?”, 73% bạn nam được hỏi trả lời có, hơn 61%
bạn nữ cùng quan điểm muốn quan hệ tình dục trước hôn nhân hôn nhân.(trích
/>nhan/59/2869905.epi). Thực trạng trong đề tài này cho thấy hầu hết tất cả nam và nữ đều
có quan niệm và nhận thức cởi mở về việc quan hệ tình dục trước hôn nhân. Coi đó là
bình thường và như một sự việc dĩ nhiên sẽ xảy ra. Quan điểm về tình yêu gắn với tình
dục trong sinh viên ngày càng được cởi mở hơn. Họ cho rằng tình yêu phải gắn liền với
tình dục thì mới có sức hấp dẫn, mới có sự mãnh liệt và làm cho họ hiểu nhau hơn.
Không có tình dục trong tinh yêu thì sẽ tẻ nhạt, yêu nhau mà chỉ dừng lại ở những cái
nắm tay, những cái ôm, hôn nhẹ thì nhàm chán quá.
Xã hội ngày càng hiện đại, tư tưởng và lối sống cũng theo đó mà thay đổi. Quan
niệm tình yêu, tình dục cũng tân tiến và thoáng hơn xưa. Đã qua rồi cái thời “nam nữ thụ
thụ bất tương thân”, “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Ngày xưa, nam nữ dù có yêu
thương nhau đến mấy, cũng chẳng bao giờ dám chạm vào nhau, dù chỉ là một cái nắm
tay. Ngày nay, giới trẻ cũng như sinh viên đã có nếp nghĩ phóng khoáng hơn rất nhiều.
Nhiều bạn trẻ ngày nay coi tình yêu như một trò chơi đầy ma lực. Sống trong thời
đại nam nữ bình đẳng, không chỉ nam giới “yêu mười, chọn một” mà nhiều bạn nữ cũng
rất “đáng mặt anh hào”. Tại khu vực phòng trọ gần trường ĐH SP quận Cầu Giấy, Hà
Nội, nhiều sinh viên tỏ ra rất bái phục V. một chàng trai không “hào hoa phong nhã” cho
lắm nhưng là tay “sát gái” có hạng. V. không chỉ bắt cá hai tay mà 5, 7 tay là đằng khác.
V. cũng rất có tài “căn” giờ chính xác. Cô này vừa đi cô khác đã tới. Cô nào đến cũng
cửa đóng then cài, khi bạn bè thắc mắc thì V. thản nhiên chia sẻ: “Tây còn hơn thế, mình
chưa thấm vào đâu, cuộc sống bây giờ là phải tận hưởng, có ai sống 2 lần trên đời

đâu…”. (trích />Trong mẫu nghiên cứu có 11,8% (16% tại phường 6 và 7,7% ở Khánh Hậu) thanh
niên đã từng quan hệ tình dục. Trong thực tế tỉ lệ này có thể cao hơn vì đây là câu hỏi
nhạy cảm do ảnh hưởng của các giá trị văn hoá Việt Nam nên không phải ai cũng dễ dàng
thừa nhận chuyện này. Số thừa nhận đã hoặc đang sống chung với người yêu, tức "sống
thử" trước hôn nhân là 6,4%. (trích- />niem-ve-tinh-duc-o-gioi-tre-tai-viet-nam-t610.html)
Khi sinh viên có quan điểm cởi mở hơn trong tình dục thì họ cũng có cái nhìn
nhận rộng hơn trong quan hệ tình dục trước hôn nhân và với những kết quả không mong
muốn như có thai khi quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Ngày xưa khi một người phụ nữ nếu quan hệ tình dục khi chưa lấy chồng mà có
con thì sẽ bị cả gia đình, xã hội tẩy chay bằng cách cạo đầu, bôi vôi,bị rêu rao và cho lên
bè chuối thả trôi sông và sẽ không ai cứu người này cả. Nhưng đến bây giờ khi xã hội
phát triển các quan hệ được cởi mở hơn thì chuyện đó không còn tồn tại nữa. Đó là
chuyện bình thường của xã hội ngày nay. Thời đại hiện nay nếu một người con gái có lỡ
quan hệ tình dục và có con thì họ cũng không còn lo lắng như xưa vì họ có nhiều lựa
chọn, một là đẻ ra mình tự nuôi hoặc cho những người hiếm muộn nuôi, hai là có thể đi
phá bỏ cái thai đó vì xã hội hiện nay công nghệ phát triển mạnh nên cách dịch vụ phục vụ
việc này cũng phát triển theo. Có thể thấy rằng những phong tục lễ giáo của xã hội truyền
thống về quan hệ tình dục cũng không còn ,khắt khe như trước nữa. Những vấn đề này
giờ đây chỉ còn có trong việc đánh giá đạo đức, nhân phẩm mà thôi.
Có một thực tế là tuổi quan hệ tình dục ở giới trẻ ngày càng trẻ hóa: tuổi quan hệ
tình dục lần đầu giảm xuống 18,1 (so với 19,6 của 5 năm trước) qua một khảo sát mới
đây của Tổng cục Dân số, kế hoạch hóa gia đình và Tổng cục Thống kê. (trích -
/>vien%C2%A0som-khong.html)
Không phải ngẫu nhiên khi trên máy tìm kiếm Google, số thống kê bài liên quan
đến từ khóa "Tình dục trước hôn nhân " lại có đến trên 440.000 kết quả. Điều này cho
thấy đây là vấn đề được nhiều người quan tâm, đặc biệt là khi Việt Nam đang ở trong bối
cảnh gia tăng hội nhập về kinh tế, xã hội và văn hóa với thế giới.
Nhiều nghiên cứu xã hội học gần đây cho thấy, xã hội hiện đại thúc đẩy tự do cá
nhân nhiều hơn, tăng tính di động về địa lý và nghề nghiệp khiến cho các mối quan hệ
gia đình thêm dân chủ. Kết quả là thanh - thiếu niên ngày nay khá tự do trong hò hẹn, yêu

đương và lựa chọn hôn nhân hơn các thế hệ cũ, dẫn đến sự gia tăng tình dục trước hôn
nhân (TDTHN). Hơn nữa phái mạnh đa số còn có quan điểm quan hệ tình dục trước hay
sau cũng chẳng sao vì chúng ta có mất mát gì đâu đây cũng là yếu tố làm gia tăng
TDTHN.
Quan hệ tình dục trước hôn nhân là sự khác biệt căn bản giữa tình bạn và tình yêu
vì nó không thể thiếu trong tình yêu để đi đến kết hôn, vì ngày nay có nhiều người nghĩ
rằng phải thử trước xem có ( thai ) không mới lấy, nhỡ đâu lấy về mà không sinh con
được thì sao. Chính vì thế mới có chuyện cưới nhau được vài ba tháng đã sinh con. Hoặc
họ quan hệ trước để xem họ có hợp với nhau trong khoản chăn gối không vì khi lấy nhau
về mà không hợp nhau trong việc này thì sẽ dẫn đến việc chán và ngoại tình, thậm chí
còn có những trường hợp ly hôn vì việc này. Đây cũng là một nhận thức mới của sinh
viên về tình dục và tình dục trước hôn nhân.
Các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, vốn coi trọng sự tiết dục, coi tình
dục chỉ là việc trong hôn nhân, thanh, thiếu niên nam, nữ còn "trong trắng" không được
phép quan hệ thiếu lành mạnh. Tuy nhiên, hiện đã có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề
này. Quan niệm không quan hệ tình dục trước khi lập gia đình nay đã có phần được nới
lỏng.
Một số vụ việc như băng sex của một diễn viên xảy ra gần đây là ví dụ giúp mọi
người nhìn thẳng hơn vào sự thật: đời sống tình dục trong giới trẻ là có thật, không phải
là việc trong phim ảnh hay ở nước ngoài nữa. Trước thực trạng này, một chuyên gia tâm
lý của dự án Tư vấn sức khỏe sinh sản, tình dục, HIV và tâm lý tình cảm cho rằng: Nếu
phụ huynh vẫn tự tin con cái mình không như thế thì sẽ dễ rơi vào tình trạng bị động và
bất ngờ khi vô tình nhìn thấy một mặt khác trong đời sống tình dục của chúng. Đó là điều
bất lợi cho giới trẻ bởi họ sẽ không được định hướng thông tin đúng đắn từ bố, mẹ. Trước
đây có nhiều bài viết phản ánh hậu quả của quan hệ TDTHN nhưng điều đó không làm
thay đổi thái độ sống của giới trẻ. ( trích- />nhan-den-xanh-hay-den-do-20090228090032502.htm)
Quan hệ tình dục trước hôn nhân còn bị ảnh hưởng bởi việc xem các loại văn hóa
phẩm đồi truy, các câu truyện tiếu lâm ám chỉ tình dục, các bộ phim tình cảm lãng mạn
Xu hướng quan hệ tình dục trước hôn còn chịu ảnh hưởng lơn từ các nên văn hóa
phương Tây. Học theo kiểu sống thoáng của Tây.

Bên cạnh những quan điểm thoáng hơn, cởi mở hơn về tình dục trước hôn nhân thì
vẫn còn nhiều người, nhiều sinh viên phản đối vì họ cho rằng việc này là không phù hợp
với phong tục tập quán, họ muốn giữ lần đầu tiên của mình cho người sau này họ lấy làm
vợ (chồng). Và theo những người con gái khi trao thân, trao cái ngàn vàng của mình
trước hôn nhân là một thiệt thòi lớn, nếu không đến được vợ chồng thì người con gái sẽ
thiệt thòi nhất và đàn ông thì chẳng mất gì cả. Khi đó người con gái sẽ bị xã hội đánh giá
về mặt phẩm hạnh của mình.
6. Kết luận
Quan điểm về QHTDTHN được bộc lộ ở nhiều chiều hướng khác nhau, cách nhìn
nhận của cả nam và nữ đều có điểm khác nhau nhưng đa số ý kiến đều mang tính chất rất
thoáng về TDTHN. Nghiên cứu về nhận thức của sinh viên về vấn đề QHTDTHN đã và
đang đề ra tính cấp bách của vấn về này trong xã hội hiện đại ngày nay. Nó nêu lên xu
hướng về vấn đề này một cách khái quát chung cho toàn xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Minh. Thái độ đối với hành vi quan hệ tình dục của vị thành
niên, 2011.
2. Trương Thị Thúy Hạnh.2009. Thực trạng nhận thức, hành vi về quan hệ tình dục và
các biện pháp tránh thai của sinh viên các trường đại học hiện nay.
3. Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tình dục trước hôn
nhân hiện nay. Nguyễn Thị Thanh Loan. 2009.
4. Hành vi tình dục và kiến thức tình dục an toàn của học sinh phổ thong trung học
trên địa bàn Hà Nội hiện nay. Nguyễn Thanh Vân. 2008.

×