Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

quy mô gia đình việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 22 trang )

®¹i häc quèc gia Hµ Néi
Trêng §¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n
KHOA XÃ HỘI HỌC

BÀI TẬP CUỐI KỲ
MÔN XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH
Đề tài: Quy mô gia đình Việt Nam hiện nay
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Lê Thái Thị Băng Tâm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Khánh Duy
Mã số sinh viên: 10030113
Lớp: K55 – Xã hội học
Nhóm: 3
DẪN NHẬP
Sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã tác động rất lớn tới đời sống kinh tế, xã hội và gia đình Việt Nam. Tác
động rõ nét nhất về kinh tế là hàng hoá phong phú hơn, đời sống của người dân được
nâng lên rõ rệt. Sự tác động rõ nét nhất về mặt xã hội là nó làm cho quan hệ giữa con
người với con người thiên về lợi ích kinh tế. Tác động tới dân số là góp phần làm giảm tỷ
lệ sinh và làm phân hóa gia đình. Số liệu của các cuộc điều tra thống kê về dân số những
thập kỷ qua cho thấy tác động của sự chuyển đổi nền kinh tế tới quy mô hộ gia đình.
Trình độ kinh tế xã hội phát triển, sự giao thoa hội nhập với nhiều nền văn hoá khác nhau
trên thế giới, cùng với nhịp độ của công cuộc hiện đại hoá, công nghịêp hoá đất nước
ngày càng nhanh chóng đã và đang tác động đến quy mô và nếp sống của gia đình Việt
Nam.
CÁC LÝ THUYẾT ÁP DỤNG
1. Lý thuyết biến đổi xã hội
Lý thuyết này chỉ ra rằng xã hội cũng như tự nhiên không ngừng biến đổi, sự ổn
định chỉ mang tính tương đối. Vì thế, bất kỳ một xã hội, một nền văn hóa nào cũng có sự
thay đổi. Biến đổi xã hội là một quá trình thông qua đó mà những khuôn mẫu của hành vi
xã hội, quan hệ xã hội, thiết chế xã hội , hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi qua thời
gian. Có những biến đổi nhỏ, diễn ra nhanh chóng nhưng cũng có những biến đổi kéo


dài, phức tạp.
Vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội vào giải thích xu hướng quy mô gia
đình ngày càng nhỏ chúng ta thấy khi cá nhân thực hiện hành động kết hôn đều chịu ảnh
hưởng của chuẩn mực giá trị. Cùng với sự phát triển kinh tế, những giá trị mới trong
chuẩn mực cũng biến đổi theo làm thay đổi định hướng xã hôi của con người. Khi xã hội
phát triển, nhu cầu, quyền lợi của cá nhân được nâng lên. Những hủ tuc lạc hậu, những
quan niệm lỗi thời không còn phù hợp và nó tất yếu sẽ bị thay thế. Nếu như trước kia
trong xã hội truyền thống thì gia đình Việt Nam phần lớn là “tam đại, tứ đại đồng đường”
là do nước ta chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, luôn đặt “chứ hiếu” lên hàng đầu. Vì
thế, việc thờ phụng bố mẹ là rất quan trọng trong cách thể hiện chữ hiếu ấy, và thường thì
con cái (đặc biệt là con trưởng) phải sống chung một nhà cùng bố mẹ. Bên cạnh đó, đặc
trưng là một nước nông nghiệp nên trong gia đình cần nhiều lao động hơn.
Còn trong xã hội hiện đại, cùng với những sự biến đổi về kinh tế, văn hóa,
giá trị, chuẩn mực, con cái hiếu thảo với bố mẹ không nhất thiết phải cùng sống chung
trong một mái nhà. Hơn nữa, ngày nay khi con cái đã trưởng thành có xu hướng thích
sống độc lập với bố mẹ mình. Trong guồng quay của xã hội thì đòi hỏi con người phải
hoàn thành rất nhiều vai trò và nó không chỉ hạn hẹp trong khuôn khổ gia đình mà còn có
cả công việc, sự nghiệp bên ngoài. Con cái khó có thể chỉ ở nhà và chăm sóc bố mẹ. Đặc
biệt, điều đáng chú ý ở đây là do sự thay đổi trong quan niệm giá trị, chuẩn mực của
những thế hệ trước so với thế hệ sau cho nên việc tách nhỏ gia đình cũng không có gì là
khó hiểu.
2. Lý thuyết lựa chọn hợp lý
Lý thuyết lựa chọn hợp lý bắt nguồn từ những quan điểm của các nhà Kinh tế,
Nhân loại học, Tâm lí học.Dù vậy, nguồn gốc kinh tế với những khái niệm chi phí – lợi
nhuận là một trong những luận điểm gốc của quan điểm này.
Thuyết lựa chọn duy lí dựa vào tiên đề cho rằng con người hoạch định hành động
một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lí
nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu.
Tức là trước khi quyết định một hành động nào đó con người luôn luôn đặt lên bàn
cân để cân đo, đong đếm giữa chi phí và lợi nhuận mang lại, nếu chi phí ngang bằng hoặc

nhỏ hơn lợi nhuận thì thực hiện hành động và ngược lại nếu chi phí lớn hơn hành động
thì họ không hành động.
Các chủ thể (Actor) được xem là có mục đích hay mục tiêu về cái mà hành động
của họ hướng tới. Các chủ thể (Actor) cũng được xem là có sở thích (như các giá trị, tiện
ích). Thuyết lựa chọn hợp ly’ không quan tâm đến tính chất các sở thích này cũng như
các nguồn của chúng. Cái quan trọng là hành động được thực hiện để đạt được các hành
động phù hợp với hệ thống sở thích của chủ thể (Actor). Về nguyên tắc, ly’ thuyết này
cho rằng mỗi cá nhân đều xuất phát từ động cơ duy ly’ là lựa chọn hành động nào đem lại
lợi ích lớn nhất với nguy cơ chi phí và thiệt hại nhỏ nhất.
Theo Friedman và Hechter thì các chủ thể hành động được xem là những nhân vật
hành động có mục đích, có mục tiêu và có sở thích riêng. Hành động của các chủ thể
được thúc đẩy để đạt được các mục đích, mục tiêu phù hợp với hệ thống sở thích của chủ
thể hành động. Tuy nhiên, trong quá trình hành động, chủ thể chịu tác động của 2 nhóm
yêu tố:
Yếu tố 1: Sự hiếm hoi của các tiềm năng. Mỗi chủ thể hành động có các tiềm năng
khác nhau. Ở đây, tiềm năng được hiểu là các điều kiện như mức sống, điều kiện kinh tế,
thời gian. Đối với những người có tiềm năng thì mục đích có thể đạt được dễ dàng hơn so
với những người ít tiềm năng. Liên quan tới tiềm năng những chi phí, giá phải trả trong
việc theo đuổi mục đich, các chủ thể phải quan tâm tới cái giá của hành động lôi cuốn
nhất kế tiếp của họ. Các chủ thể có thể chọn cách không theo đuổi mục đích có giá trị cao
nhất nhưng tiềm năng của bản thân là không đáng kể nếu cơ may là quá ít và nếu trong
việc cố gắng để đạt mục đích, chủ thể hành động hủy hoại các cơ may có giá trị cao hơn
kế tiếp của mình. Các chủ thể hành động được xem là luôn tối đa hóa điều lợi cho mình.
Yếu tố 2: Theo Friedman và Hechter thì các thể chế xã hội đã áp đặt khuôn mẫu
hành động cho các cá nhân thông qua các tiêu chí, các quy luật, các lịch trình, nguyên tắc
tạo ra sự ảnh hưởng có hệ thống với các kết quả xã hội.
Trong thực tế cuộc sống xã hội, quá trình tương tác theo mô hình trao đổi xã hội
cũng như việc hành động dựa trên sự lựa chọn hợp ly’ là rất phổ biến. Theo Homans,
toàn bộ các tương tác xã hội là một tập hợp phức tạp những trao đổi.
Thuyết lựa chọn hợp lý đòi hỏi phải phân tích hành động lựa chọn của các cá nhân

trong mối liên hệ với cả hệ thống xã hội của nó bao gồm các cá nhân khác với những nhu
cầu và sự mong đợi của họ.
Thuyết lựa chọn hợp lý không chỉ giải thích hành động xã hội trên cấp độ vi mô –
hành động cá nhân mà nó còn được xây dựng và phát triển để xem xét hoạt động chức
năng của các hệ thống và thiết chế kinh tế, xã hội, tức là trên cấp độ vi mô.
Áp dụng lý thuyết lựa chọn hợp lý vào xu hướng biến đổi ngày càng nhỏ của quy
mô gia đình để giải thích nguyên nhân tại sao lại có xu hướng đó. Các nguyên nhân được
xem xét từ góc độ hành vi duy lý của con người được đặt trong mối liên hệ với hệ thống
xã hội và các nhu cầu mong đợi của các cá nhân khác trong gia đình. Trong bối cảnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa, sự tự do của các cá nhân trong gia đình ngày càng được đề
cao. Gia đình hạt nhân có sự độc lập về quan hệ kinh tế và tạo cho mỗi thành viên
khoảng không gian tự do tương đối để phát triển tự do cá nhân.
CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1. Gia đình
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống
hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau… (Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000). Các thành viên gia đình có mối quan hệ gắn bó với nhau về
trách nhiệm và quyền lợi, giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước
thừa nhận và bảo vệ.
G.P. Murdock , trong “Cấu trúc xã hội ”,1949 : “Gia đình là một nhóm xã hội có
đặc trưng là cùng cư trú, hợp tác và tái sản xuất kinh tế ( người lớn của cả hai giới), và ít
nhất trong đó có quan hệ tính dục với nhau, được xã hội tán thành, một hoặc nhiều con
cái ( do họ đẻ ra hoặc do họ nhận con nuôi)”.
E.W. Burgess và H.J.Locke trong “ Gia đình”, 1953, đã đưa ra định nghĩa sau:
“Gia đình là một nhóm người đoàn kết với nhau bằng những mối liên hệ hôn nhân,
huyết thống và việc nhận con nuôi tạo thành một hộ đơn giản, tác động lẫn nhau trong
vai trò tương ứng của họ là người chồng và người vợ, người mẹ và người cha , anh em và
chị em, tạo ra một nền văn hoá chung” ( theo Tương Lai, 1996:27)
Một cách định nghĩa đầy đủ và cụ thể hơn về gia đình Việt Nam, được dùng trong
nghiên cứu xã hội học gia đình của một cơ quan nghiên cứu

1
về gia đình như sau: “Gia
đình là khái niệm được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan
hệ hôn nhân ( quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ
quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại). Gia đình có thể hiểu
như một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi phối của xã hội song có tính ổn định, độc
lập tương đối. Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là một thiết chế xã hội đặc thù.
Những thành viên gia đình được gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi kinh tế,
văn hoá, tình cảm một cách hợp pháp, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ ( Lê Ngọc
Văn và đồng sự, 2002: 21)
2. Quy mô gia đình
Qui mô gia đình chỉ độ lớn của gia đình- đó là một đơn vị đo lường để thấy được
số lượng các thành viên cùng chung sống trong một gia đình. Do vậy, khi nói đến qui mô
gia đình người ta thường đề cập cụ thể đến số lượng thành viên của gia đình trong đố số
lượng con cái và những thành viên khác cùng chung sống (Đỗ Thị Bình-Lê Ngọc Văn-
Nguyễn Linh Khiếu, 2002: 231). Qui mô gia đình là một hàm số của số con trong gia đình
(phản ánh mức độ sinh đẻ) và những người đã trưởng thành cùng ở chung. (Charles
Hirschman & Vũ Mạnh Lợi, 1996: 162).
3. Hộ gia đình
Cần phân biệt hai khái niệm gia đình và hộ gia đình. Hộ gia đình được hiểu như một nhóm
người sống chung trong một mái nhà nhưng không nhất thiết phải có mối quan hệ hôn nhân,
quan hệ huyết thống (hộ tập thể, hộ độc thân). Mỗi hộ gia đình có sổ đăng ký hộ khẩu, ghi rõ
số nhân khẩu, người chủ hộ và quan hệ của từng thành viên với chủ hộ. Đây là hồ sơ mang
tính pháp lý để chính quyền địa phương thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với gia đình
4. Gia đình hạt nhân
1
Trung tâm nghiên cứu khoa học về Phụ nữ và Gia đình, nay đổi thành Viện khoa học về Phụ nữ và Gia đình
Gia đình hạt nhân là nhóm người thể hiện mối quan hệ của chồng và vợ với các con,
hay cũng là mối quan hệ của một người vợ hoặc một người chồng với các con. Do vậy, cũng
có thể có gia đình nhỏ đầy đủ và gia đình nhỏ không đầy đủ. Gia đình nhỏ đầy đủ là loại gia

đình chứa trong nó đầy đủ các mối quan hệ (chồng, vợ và các con), ngược lại gia đình nhỏ
không đầy đủ là loại gia đình trong nó không đầy đủ các mối quan hệ đó, nghĩa là trong đó chỉ
tồn tại quan hệ của chỉ người vợ với người chồng hoặc chỉ của người bố hoặc người mẹ với
các con.
Gia đình hạt nhân là dạng gia đình đặc biệt quan trọng trong đời sống gia đình. Nó là kiểu
gia đình của tương lai và ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại và công nghiệp phát triển.
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu “Sự thay đổi về quy mô và cơ cấu hộ gia đình ở Việt Nam” của
ThS. Lê Văn Dụy, Viện Khoa học Thống kê in trên tạp chí Dân số và Phát triển số 12
(93) năm 2008 của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đã chỉ ra rằng quy mô hộ
gia đình ở Việt Nam đang ngày một thu nhỏ. Tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của hiện
tượng này là do tỷ lệ sinh đã giảm một cách mạnh mẽ và mô hình gia đình truyền thống
ngày càng không có vị trí lớn trong xã hội Việt Nam.
Nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt giữa các vùng giữa quy mô và cơ cấu hộ gia
đình. Cụ thể, Tây Nguyên và Tây Bắc, hai vùng có đồng bào dân tộc sinh sống, có quy
mô bình quân cao nhất; tiếp đến là các vùng Đông Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long,
Duyên hải miền Trung; duy nhất chỉ có Đồng bằng sông Hồng là có quy mô hộ thấp hơn
mức bình quân của cả nước. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn chưa chỉ ra được nguyên nhân
của sự khác biệt đó.
2. Trong bài viết “Công tác DS – KHHGĐ giai đoạn 2001 – 2010 và phương
hướng, nhiệm vụ công tác DS – KHHGĐ trong giai đoạn 2011 – 2020” in trên tạp chí
Dân số và Phát triển số 3 (120) năm 2011 cũng chỉ ra rằng trong giai đoạn 2001 – 2010,
quy mô gia đình nhỏ đi, nguyên nhân chính là do chính sách kế hoạch hóa gia đình.
3. Bài viết “Quy mô gia đình ở Việt Nam đang thu nhỏ” đăng trên tạp chí Sài
gòn tiếp thị online ngày 26/06/2006 cũng chỉ ra rằng quy mô gia đình ở Việt Nam đang
thu nhỏ dần tuy nhiên chưa đề cập đến nguyên nhân của thực tế này
Bài viết cũng chỉ ra rằng quy mô gia đình ở các vùng miền cũng khác nhau và
nguyên nhân chủ yếu là do trình độ dân trí, đặc điểm về kinh tế - xã hội, phong tục tập
quán cùng các đặc trưng văn hóa.
Tóm lại, cả 3 nghiên cứu đều chỉ ra rằng, quy mô hộ gia đình ở Việt Nam hiện nay

đang có xu hướng thu nhỏ dần, nguyên nhân chủ yếu là do chính sách kế hoạch hóa gia
đình của nhà nước cũng như việc mô hình hạt nhân đang dần trở nên phỏ biến trong xã
hội.
Cả 3 nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, quy mô gia đình ở Việt Nam có sự khác biệt
giữa các vùng miền. Nguyên nhân của sự khác biệt này là do sự khác biệt về trình độ dân
trí, các đặc điểm về kinh tế - xã hội, phong tục tập quán và các đặc trưng văn hóa của các
vùng miền.
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Trong 10 năm trở lại đây, chương trình dân số Việt Nam triển khai mạnh mẽ các
hoạt động kế hoạch hóa gia đình và hạt nhân hóa gia đình làm cho quy mô gia đình
truyền thống Việt Nam ngày càng nhỏ đi. Những mô hình gia đình nhiều thế hệ theo kiểu
“tứ đại đồng đường”, có khi tới hơn chục người cùng chung sống trong một ngôi nhà
đang dần được thay thế bằng mô hình gia đình ít người, thường chỉ có hai thế hệ cha mẹ -
con cái hay có thể đến thế hệ thứ ba, rất hiếm thấy gia đình có 4-5 thế hệ cùng chung
sống. Qua số liệu của Tổng cục thống kê về điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá
gia đình ta có thể thấy rõ điều đó.
1. Quy mô trung bình cả nước số người/hộ ngày càng nhỏ.
Bảng 1: Quy mô trung bình cả nước số người/hộ gia đình qua các năm
Năm Quy mô hộ trung bình (người/hộ)
1-2
người
3
người
4
người
1-4
người
5+
người
Số

người
bình quân
1 hộ
1979 5,22
1999 4,6
2001 4,5
2004 14,1 16,6 28,3 59,1 40,9 4,4
2005 14,9 17,3 28,8 61,0 39,0 4,3
2006 16,7 18,8 29,4 64,9 35,1 4,1
2009 72,0 28,0 3,8
(Nguồn: tổng cục thống kê về điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình
năm 1979, 1999, 2001, 2004, 2005, 2006, 2009)
Biểu đồ 1: Quy mô trung bình cả nước số người/hộ gia đình qua các năm
(Đơn vị: người)
Trong phạm vi toàn quốc, quy mô hộ của dân số Việt Nam liên tục giảm. Theo kết
quả của điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình, quy mô hộ trung bình của
Việt Nam đã giảm từ 5,22 người năm 1979 xuống còn 4,6 người năm 1999, và sau đó là
4,5 người năm 2001 và xuống 4,4 người năm 2004. Năm 2005 chỉ còn 4,3 người và còn
tiếp tục giảm xuống. Năm 2006 xuống còn 4,1 người và chỉ còn 3,8 người năm 2009.
Quy mô hộ trung bình của năm 2009 là 3,8 người, thấp hơn 1,42 người so với kết quả
của tổng điều tra dân số 1979 (5,22 người). Qua đó ta có thế thấy rõ ràng rằng qui mô gia
đình Việt Nam ngày càng có xu hướng giảm qua các năm.
2. Qui mô trung bình số người trong hộ gia đình ở thành thị và nông thôn.
2.1. Qui mô trung bình số người trong hộ gia đình ở thành thị
Bảng 2. Tỷ lệ phần trăm hộ theo số người trong hộ và quy mô hộ trung bình hộ ở
thành thị qua các năm
Năm
Số người trong hộ
Số
người

bình quân
một hộ
1-2
người
3
người
4
người
1-4
người
5+
người
2004 14,1 16,6 28,3 59,1 40,9 4,4
2005 16,4 20,6 30,5 67,4 32,6 4,1
2006 18,3 21,9 30,5 70,7 29,3 3,9
2009 75,8 24,2 3,7
(Nguồn: tổng cục thống kê về điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình
năm 2004, 2005, 2006, 2009)
Biểu đồ 2: Số người bình quân một hộ ở thành thị qua các năm
(Đơn vị: người)
Qua bảng số liệu và biểu đồ 2 ta có thể thấy rõ rằng qui mô gia đình ở thành thị đang
ngày càng có xu hướng giảm. Theo kết quả của điều tra biến động dân số và kế hoạch
hoá gia đình, từ năm 2004 số người bình quân một hộ là 4,4 người, tới năm 2005 giảm
còn 4,1 người và sau đó là 3,9 người ở năm 2006. Và năm 2009 giảm xuống chỉ còn 3,7
người. Điều đó chứng tỏ rõ ràng rằng qui mô gia đình thành thị đang ngày có xu hướng
thu hẹp dần qua các năm.
Biểu đồ 3: Tỷ lệ phần trăm hộ theo số người trong hộ ở thành thị qua các năm
(Đơn vị: %)
Quy mô gia đình nhỏ (hộ có 4 người trở xuống) là hiện tượng phổ biến ở thành thị và
nó đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Năm 2004 số người trong hộ gia đình từ 1-4

người chiếm 59,1 %, nhưng tới năm 2005 tăng lên 67,4%, năm 2006 tăng lên 70,7% và
năm 2009 đã chiếm tới 75,8%. Chỉ trong vòng 5 năm từ 2004 đến 2009 qui mô hộ gia
đình nhỏ đã gia tăng rất nhanh tới 16,7%. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng gia đình nhỏ
hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang ngày càng phổ biến, qui mô gia đình vì thế cũng
ngày càng nhỏ đi, thay thế cho kiểu gia đình truyền thống gia đình mở rộng từng giữ vai
trò chủ đạo trước đây.
2.2. Qui mô trung bình số người trong hộ gia đình ở nông thôn
Bảng 3. Tỷ lệ phần trăm hộ theo số người trong hộ và quy mô hộ trung bình hộ ở
nông thôn qua các năm
Năm
Số người trong hộ Số
người
bình
quân một
1-2
người
3
người
4
người
1-4
người
5+
người
hộ
2004 13,7 15,3 27,6 56,7 43,3 4,4
2005 14,4 16,0 28,1 58,6 41,4 4,3
2006 16,1 17,6 28,9 62,6 37,4 4,1
2009 70,3 29,7 3,9
(Nguồn: tổng cục thống kê về điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình

năm 2004, 2005, 2006, 2009)
Biểu đồ 4: Số người bình quân một hộ ở nông thôn qua các năm
(Đơn vị: người)
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy, số người bình quân một hộ từ năm 2004 –
2009 giảm lần lượt qua các năm. Năm 2004 số người/hộ chiếm 4,4 người, tới năm 2005
giảm xuống còn 4,3 người, 2006 là 4,1 người và tới năm 2009 chỉ còn 3,9 người. Điều
này đã chứng minh rõ ràng rằng không chỉ ở thành thị, mà ở nông thôn qui mô gia đình
cũng đang ngày càng thu hẹp dần.
Biểu đồ 5: Tỷ lệ phần trăm hộ theo số người trong hộ ở nông thôn qua các năm
(Đơn vị: %)
Qua biểu đồ ta thấy, năm 2004 số người trong hộ gia đình từ 1-4 người chiếm 56,7
%, nhưng tới năm 2005 tăng lên 58,6%, năm 2006 tăng lên 62,6% và năm 2009 đã chiếm
tới 70,3%. Chỉ trong vòng 5 năm từ 2004 đến 2009 qui mô hộ gia đình nhỏ đã tăng tới
11,7%. Điều này cho thấy quy mô gia đình ở nông thôn ngày càng nhỏ. Nếu như các gia
đình ở nông thôn ngày trước với quan niệm “tam đại đồng đường”, “tứ đại đồng đường”,
các thành viên trong gia đình phải sống cùng nhau hoặc gần nhau, có những gia đình 4
thế hệ sống chung, tổng số thành viên trong gia đình đó có thể lên tới trên 10 người thì
ngày nay, quy mô gia đình ngày càng nhỏ.
3. Qui mô trung bình số người trong hộ gia đình ở các vùng trong cả nước.
Do ảnh hưởng của trình độ dân trí, đặc điểm về kinh tế xã hội, phong tục tập quán và
đặc trưng văn hóa, quy mô hộ gia đình ở các vùng miền có sự khác nhau.
Tại khu vực đồng bằng sông Hồng, quy mô hộ gia đình trung bình là 4,1 người, thấp
nhất trong cả nước. Vùng Tây Bắc có qui mô hộ gia đình trung bình cao nhất, trên 5
người/hộ, trong đó có một số dân tộc ở miền núi phía Bắc có quy mô hộ gia đình lớn hơn
rất nhiều so với quy mô hộ trung bình của cả nước.
Dự án "điều tra cơ bản về gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia
đình thời kỳ CNH - HĐH đất nước" - trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ
nữ thực hiện từ năm 1998 đến 2000 ở khu vực miền Bắc cho thấy: số người trung bình
trong hộ ở thành phố: 4,3 người; ở đồng bằng: 4,5 người và trung du miền núi: 4,7 người.
Theo số liệu của tổng cục thống kê qua phân tích điều tra cơ bản tình hình trẻ em -

phụ nữ năm 2001 tại 10 huyện trọng điểm vùng núi, vùng sâu, vùng xa cả 3 miền bắc,
trung, nam thì số hộ gia đình từ 1 đến 3 người chiếm 9,5%, hộ từ 5 người trở lên chiếm
70,21%, hộ từ 7 người trở lên chiếm 33,34%.
Bảng 4: Tỷ lệ phần trăm số hộ của từng loại hộ và quy mô hộ trung bình chia theo vùng,
Việt Nam, 2005
Quy mô hộ trung bình (người/hộ)
1-2
người
3
người
4
người
1-4
người
5 người Số người
bình quân 1 hộ
Đồng
bằng sông
Hồng
19,4 18,0 32,5 69,9 30,1 3,9
Đông
Bắc
14,4 18,6 31,6 62,7 37,3 4,2
Tây
Bắc
9,0 14,9 27,2 51,1 48,9 4,8
Bắc
Trung Bộ
16,5 14,8 26,0 57,3 42,7 4,3
Duyên hải

Nam
Trung Bộ
15,4 15,0 26,5 57,0 43 4,3
Tây
Nguyên
10,7 15,5 26,3 52,6 47,4 4,6
Đông
Nam Bộ
14,6 17,7 26,5 58,8 41,2 4,4
Đồng
bằng sông
Cửu Long
11,9 18,6 28,0 58,5 41,5 4,5
Trong phạm vi toàn quốc, quy mô hộ trung bình của năm 2005 là 4,3 người, thấp hơn
0,3 người so với kết quả của Tổng điều tra dân số 1999 (4,6 người). Số liệu của biểu này
cho thấy, trong phạm vi cả nước, số hộ 4 người chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó đến tỷ
trọng số hộ 5 người. Hiện tượng hộ gia đình nhỏ (hộ có từ 4 người trở xuống) là phổ biến
ở nước ta, nhất là ở khu vực thành thị.
Quy mô hộ gia đình nhỏ là phổ biến ở các vùng địa lý-kinh tế, trừ Tây Bắc và Tây
Nguyên. Tại vùng Tây Bắc, tỷ lệ hộ có từ 5 người trở lên chiếm tới 48,9%, còn tỷ lệ này
ở vùng Tây Nguyên cũng tới 47,4%. Tây Bắc và Tây Nguyên là nơi cư trú tập trung của
các dân tộc ít người, hơn nữa cả hai vùng này cũng là nơi có tỷ lệ sinh cao.
Trong khi đó, ở Đồng bằng sông Hồng, cứ ba hộ thì hai hộ có 4 hoặc dưới 4 người.
Bảng 5 trình bày tỷ trọng hộ theo số người trong hộ và quy mô hộ trung bình chia
theo các vùng kinh tế - xã hội. Số người bình quân/hộ năm 2009 là 3,8 người, giảm 0,8
người so với năm 1999. Khác biệt về quy mô hộ trung bình của thành thị và nông thôn là
không đáng kể, tương ứng là 3,7 và 3,9 người. Đồng bằng sông Hồng có số người bình
quân một hộ thấp nhất trong cả nước (3,5 người). Vùng có số người bình quân một hộ
cao nhất là Tây Nguyên (4,1 người), tiếp theo là Trung du và miền núi phía Bắc và Đồng
bằng sông Cửu Long (4,0 người). Quan sát theo nơi cư trú của dân cư, ở khu vực thành

thị, Trung du và miền núi phía Bắc có số người bình quân một hộ thấp nhất (3,2 người).
Vùng có số người bình quân một hộ cao nhất ở khu vực thành thị là Đồng bằng sông Cửu
Long (3,9 người). Điều này chứng minh rằng mô hình gia đình nhỏ là phổ biến ở thành
thị trong tất cả các vùng.
Bảng 5: Tỷ trọng hộ theo số người trong hộ và quy mô hộ trung bình chia theo thành
thị/nông thôn và các vùng kinh tế - xã hội, 2009
Các vùng
kinh tế
Phân bố phần trăm theo quy mô hộ Số
người
bình
quân 1
hộ
1
người
2-4
người
1-4
người
5-6
người
7+
người
Toàn quốc 7,3 64,7 72,0 23,0 5,1 3,8
Trung du và
miền núi phía
Bắc
5,4 63,2 68,6 24,1 7,3 4,0
Đồng bằng
sông Hồng

9,1 70,2 79,3 18,7 2,0 3,5
Bắc Trung
Bộ và DH miền
Trung
7,6 61,4 69,0 26,1 4,9 3,8
Tây Nguyên 5,3 58,8 64,1 27,4 8,5 4,1
Đông Nam
Bộ
7,7 65,3 73,0 20,9 6,1 3,8
Đồng bằng 5,9 63,4 69,3 24,7 6,0 4,0
sông Cửu Long
Số liệu của bảng trên cho thấy, trên phạm vi cả nước cũng như ở cả 6 vùng kinh tế -
xã hội, số hộ 1 người (hộ độc thân) đều chiếm tỷ trọng rất thấp. Số hộ có từ 7 người trở
lên chiếm tỷ trọng thấp nhất trên phạm vi cả nước và ở hầu hết các vùng. Quy mô gia
đình nhỏ (hộ có từ 4 người trở xuống) là hiện tượng phổ biến ở nước ta (72%). Có sự
khác biệt về quy mô hộ theo vùng. Tây Nguyên có số hộ từ 1 đến 4 người thấp nhất
(64%). Tây Nguyên là nơi cư trú tập trung của các dân tộc ít người, có mức độ sinh cao
và có tập quán sống theo gia đình nhiều thế hệ. Các vùng còn lại đều có tỷ trọng số hộ có
quy mô trung bình từ 1 đến 4 người chiếm trên 68%. Đặc biệt, ở Đồng bằng sông Hồng,
cứ năm hộ thì có tới bốn hộ chỉ có từ 1 đến 4 người (79%).
Như vậy, cùng với sự thay đổi quy mô gia đình giữa thành thị và nông thôn, sự thay
đổi quy mô gia đình theo các vùng lãnh thổ cũng diễn ra theo xu hướng chung - xu hướng
"hạt nhân hóa" gia đình. Những gia đình nhiều thế hệ được thay thế bằng mô hình gia
đình ít người, chỉ có 2 thế hệ hay có thể đến thế hệ thứ 3, rất hiếm thấy gia đình có 4-5
thế hệ cùng chung sống.
4. Số thế hệ trong hộ gia đình.
Bảng 6: Số thế hệ trong gia đình theo vùng điều tra (đơn vị tính:%)
Vùng
Số thế hệ
Thành

phố
Đồng bằng Trung du –
miền núi
Chung
1 3,3 4,7 0,9 3,3
2 65 81,7 80,6 78
3 31,3 13 18 18,2
4 0,3 0,7 0,4 0,5
(Nguồn: Số liệu điều tra cơ bản về gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia
đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (khu vực miền Bắc) – Trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn quốc gia, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ (Lê Văn
Ngọc – Nguyễn Linh Khiếu – Đỗ Thị Bình), NXB Khoa học xã hội, H.2002)
Bảng trên cho thấy, số thế hệ trong gia đình chủ yếu là hai thế hệ. Tuy nhiên, ở trung
du miền núi số gia đình có hai thế hệ chiếm tỷ lệ cao nhất: 80,6% trong khi ở thành phố
là 65%. Xưa nay, nông thôn vẫn là nơi thường sống tập trung nhiều thế hệ với nhau
nhưng gần đây do những lý do liên quan đến việc tách hộ vì vấn đề phân chia quyền sử
dụng đất canh tác và đất ở nên số hộ mới nảy sinh nhiều. Mặt khác, ở thành thị đất chật
người đông nên việc tách hộ nhỏ để ở riêng là không đơn giản do đó việc sống nhiều thế
hệ trong một hộ vẫn chiếm tỷ lệ cao: 65% và 31,3%.
Bảng 7: Số thế hệ trong gia đình Hà Nội (đơn vị tính: %)
Số thế hệ Nội thành Ngoại thành Tổng
2 84.3 81.1 82.9
3 15.7 18.9 17.1
(Nguồn: Nghiên cứu cấu trúc, chức năng, vai trò của gia đình Hà Nội, Mã số đề tài:
01X – 07/14/2002 của UBNDTPHN – UB Dân số, gia đình và trẻ em)
Số liệu điều tra ở bảng trên cho thấy khoảng trên 80% gia đình ở Hà Nội là gia đình
hai thế hệ. Nội thành là 84,3%, ngoại thành là 81.1%. Số gia đình có ba thế hệ trở lên
khoảng từ 15 – 19%.
NGUYÊN NHÂN CỦA VẤN ĐỀ
Nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Nguyễn Hùng Vỹ- Trường Đại học KHXH&NV

Hà Nội cho rằng, trong thời kỳ hội nhập, mô hình gia đình nhiều thế hệ theo kiểu "tam
đại đồng đường, ngũ đại đồng đường" cùng chung sống trong một ngôi nhà đang mất
dần. Mô hình gia đình ít người đang thay thế, thường chỉ có hai thế hệ cha mẹ - con cái
hay có thể đến thế hệ thứ ba, rất hiếm thấy gia đình có 4-5 thế hệ cùng chung sống.
Không chỉ ở thành thị mà ngay cả nông thôn, mọi người cũng nhanh chóng tách hộ sớm
để được hưởng quyền lợi của công dân và tạo khả năng để phát triển kinh tế.
Trong quá trình phát triển của xã hội, gia đình Việt Nam đang chịu những tác
động mạnh từ bên ngoài. Mô hình gia đình đang dần bị thu nhỏ và những giá trị gia đình
truyền thống cũng đang có nguy cơ bị mất mất hoặc suy giảm.
Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã mang lại cho xã hội Việt Nam những
tác động và thay đổi không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực văn hóa - xã
hội. Gia đình - đơn vị cấu thành cơ bản của xã hội tất yếu sẽ có những biến động, những
đổi thay trên nhiều khía cạnh. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
xuất hiện của các vấn đề phức tạp trong gia đình và xã hội Việt Nam.
Gia đình Việt Nam truyền thống được các nhà nghiên cứu cho là loại gia đình
được hình thành từ nền văn hóa bản địa, chứa nhiều yếu tố dường như bất biến, ít đổi
thay. Theo đó, hình thái gia đình phổ biến là gia đình mở rộng gồm nhiều thế hệ các
thành viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống và thường bị chi phối bởi
chế độ “gia trưởng”.
Trong quá trình phát triển, gia đình truyền thống đã thể hiện được các ưu điểm về
sự gắn bó tình cảm giữa các thành viên trong gia đình; về vấn đề bảo lưu các truyền
thống văn hóa, tập tục, nghi lễ và phát huy tốt nề nếp gia phong, gia đạo… Tuy nhiên, gia
đình truyền thống lại là một trong những nhân tố tham gia vào quá trình kìm hãm năng
lực phát triển của các cá nhân, đặc biệt là dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa-
hiện đại hóa, gia đình truyền thống có vẻ không còn là khuôn mẫu của gia đình hiện đại.
Sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái gia đình mới là
một điều tất yếu. Theo kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006, (Kết quả điều tra
gia đình Việt Nam năm 2006” do Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (nay là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới
thuộc Viện KHXHVN và qũy nhi đồng Liệp Hiệp Quốc (UNICEP) thực hiện và đã công

bố cuối tháng 6/2008) thì mô hình hộ gia đình 2 thế hệ (gồm cha mẹ và con cái) - gia
đình hạt nhân tồn tại khá phổ biến ở Việt Nam (chiếm tỉ lệ 63,4%). Hộ gia đình 3 thế hệ
trở lên - gia đình mở rộng có xu hướng giảm. Trong đó, mô hình gia đình qui mô nhỏ có
xu hướng phổ biến ở thành thị hơn nông thôn và ở nhóm hộ giàu hơn hộ nghèo; tỷ lệ hộ
gia đình có 3 thế hệ ở nông thôn thấp hơn thành thị, đặc biệt là khu vực nội thành.
Nguyên nhân của sự thay đổi này có thể được lí giải như sau:
Xu hướng này là do quá trình tách hộ diễn ra ngay từ trong xã hội truyền thống và
được đẩy mạnh dần tốc độ từ sau năm 1975 cho đến nay. Những đặc trưng của quá trình
này cũng khác nhau trong những giai đoạn khác nhau. Trong nghiên cứu của Mai Văn
Hai và Nguyễn Phan Lâm về “Luật đất đai và tác động ban đầu tới cơ cấu gia đình ở một
làng châu thổ Sông Hồng” (2001) đã chỉ ra rằng luật đất đai có tác động đến việc tách hộ
của các gia đình ở làng Đào Xá, điều đó dẫn tới cơ cấu gia đình, quy mô gia đình có sự
thay đổi.
Nguyên nhân nữa là do sự thành công của cuộc vận động sinh đẻ có kế hoach ở Việt
Nam. Số con trung bình trên một phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3.8 con năm 1989
xuống còn 2.3 con năm 2003. Tỷ lệ các gia đình sinh con thứ 3 giảm.
Do mức sống của các hộ gia đình được nâng lê rõ rệt, thúc đẩy việc tách hộ để có nơi
ở riêng cho độc lập và tiện cho sinh hoạt. Hơn nữa những người trong độ tuổi kết hôn
ngày càng không phải phụ thuộc nhiều vào cha mẹ, cho nên sau khi kết hôn thường ra ở
riêng ngay. Điều này cũng làm cho quy mô gia đình ngày càng nhỏ đi chủ yếu là do bớt
thành viên gia đình (mà không phải là thêm thành viên do con cái lấy chồng/vợ rồi sống
cùng với cha mẹ)
Xét từ nguyên nhân sâu xa, xu hướng này xuất phát từ chính những mâu thuẫn về
những quan điểm về cuộc sống, các chuẩn mực, giá trị giữa những thế hệ khác nhau trong
gia đình. Các thế hệ trước (ông bà) không thích sống chung với con cái (do lối sống của
con cái không phù hợp), còn con cái lại thích sống độc lập với cha mẹ.
Trong bối cảnh quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa không ngừng được đẩy mạnh
trên nhiều lĩnh vực, hình thái gia đình hạt nhân tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn một số loại
hình thái gia đình khác (gia đình mở rộng, gia đình khuyết…) bởi vì gia đình hạt nhân tồn
tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ và có khả năng thích ứng nhanh với các biến chuyển

của xã hội với công nghiệp hóa- hiện đại hóa với những đặc điểm sau:
Tương đối tự do so với sức ảnh hưởng của tập thể, dòng họ. Sau khi kết hôn, vợ
-chồng không sống chung với bà con nội ngoại mà chuyển sang nơi ở mới do đó hình
thành nên cộng đồng sinh sống độc lập.
Trọng tâm của gia đình đã chuyển từ mối quan hệ ông - bà, cha - mẹ và con cái
sang quan hệ vợ - chồng, cho nên sức hấp dẫn và tính thân mật về mặt tình cảm giữa hai
vợ chồng được đề cao và tính năng quan hệ về mặt tình cảm của gia đình được tăng
cường.
Gia đình hạt nhân có sự độc lập về quan hệ kinh tế và tạo cho mỗi thành viên
khoảng không gian tự do tương đối để phát triển tự do cá nhân.
Xã hội công nghiệp hóa- hiện đại hóa mang đặc tính “động” rất cao và cần đến
một cơ chế mở để vận hành cung - cầu của lực lượng lao động theo nguyên tắc của thị
trường một cách thuận lợi. Trong đó, tính “động” có được từ sự tự do lựa chọn nghề
nghiệp của cá nhân rất được quan tâm. Do vậy, gia đình hạt nhân vợ - chồng là trọng tâm
có thể tự do lựa chọn nơi ở mà không bị sức ép từ dòng họ mang đặc tính gắn liền với
nhu cầu của xã hội công nghiệp.
Xu hướng thanh niên di cư từ nông thôn ra thành thị để làm việc rồi lập gia đình ở
thành thị và điều kiện đất đai, nhà ở tại các thành thị bị hạn chế…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Cảnh Khanh – Lê Thị Quý, Gia đình học, NXB ĐHQGHN, 2009
2. Lê Thái Thị Băng Tâm, Tập bài giảng Xã hội học Gia đình
3. Mai Huy Bích, Xã hội học gia đình, NXB ĐHQGHN, 2009
4. Tổng cục thống kê về điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình
năm 1979, 2001, 2004, 2005, 2006

×