Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

xu hướng tuổi kết hôn muộn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.03 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
LỚP K55 – XHH
MÔN XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH
Giảng viên : Lê Thái Thị Băng Tâm
Sinh viên : Vũ Huy Hiệp
Đề tài: Xu hướng tuổi kết hôn muộn ở Việt Nam.
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, xu hướng tăng tuổi kết hôn bắt đầu xuất hiện tại các
nước châu Á như một phần tác động của yếu tố hiện đại hóa. Xu hướng kết hôn sớm
chuyển sang kết hôn muộn cũng đã diễn ra ở Việt Nam từ những thập niên đầu của thế kỷ
XXI. Tầm quan trọng của hôn nhân trong văn hóa truyền thống, gia đình và hệ thống thân
tộc trong thời kỳ phong kiến đã tạo ra một áp lực mạnh mẽ đối với việc kết hôn sớm của
người Việt Nam, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Tự bao đời nay hôn nhân được xem là
sự kiện trọng đại trong cuộc đời mỗi con người. Là sự cam kết đồng ý giữa các cá nhân
nam và nữ về các khía cạnh luật pháp, xã hội và tôn giáo. Hôn nhân là nền tảng của gia
đình trong hầu hết các dạng hình xã hội. Tuy nhiên, dưới tác động mạnh mẽ của phát
triển kinh tế - xã hội, cùng với khuyến khích kết hôn muộn, tuổi kết hôn trung bình lần
đầu của nam và nữ ở Việt Nam cũng đã dần tăng lên.
Trong những năm gần đây thì giá trị hôn nhân và gia đình đang ở Việt Nam
có rất nhiều biến đổi mang tính “nóng hổi” đòi hỏi chúng ta cần có thái độ ứng xử và giải
quyết đặt ra như: vấn đề về gia đình đơn thân, xu hướng làm mẹ đơn thân, về hôn nhân
lưỡng giới, đồng giới… Xu hướng tuổi kết hôn muộn tuy đã bắt đầu diễn phổ biến và
mang tính “bức thiết”, được khoa học xã hội quan tâm từ năm 2009, song bản thân tôi
vẫn chọn đề tài này bởi trong những năm gần đây và tương lai xu hướng vẫn sẽ tiếp tục
diễn ra và được xã hội Việt Nam hiện đại chấp nhận và khuyến khích. Với bài tập của
mình tôi xin được phân tích một số khía cạnh về xu hướng kết hôn muộn ở Việt Nam
1
trong thời gian qua. Từ các phân tích của mình tôi xin đưa ra dự đoán về xu hướng này
trong thời gian tới.
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH


I. MỘT SỐ KIẾN THỨC CHUYÊN NGÀNH, KIẾN THỨC THỰC TẾ ĐỂ PHÂN
TÍCH VẤN ĐỀ
1. Lý thuyết áp dụng
a. Lý thuyết hành động xã hội
Theo M.Weber, hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gắn cho một ý
nghĩa chủ quan nhất định. Ông nhấn mạnh đến động cơ bên trong chủ thể như là nguyên
nhân của hành động.Ông phân biệt rõ 4 loại hành đông là: duy lý- công cụ; duy lý - giá
trị; cảm tính; truyền thống.
Áp dụng lý thuyết này vào giải thích xu hướng tuổi kết hôn muộn chúng ta
thấy hành động chọn bạn đời, quan niệm về hôn nhân của mỗi người là khác nhau. Mỗi
người đều có những tiêu chuẩn, những mong muốn riêng trong hôn nhân, nhằm đạt được
mục đích của họ. Xã hội học nghiên cứu hành động xã hội thực chất là tập trung vào
nghiên cứu loại hành động duy lý- công cụ. Trong xã hội hiện đại thì hành động của con
người ngày càng trở nên duy lý, hợp lý với tính toán chi ly, tỉ mỉ, chính xác về mối quan
hệ giữa công cụ/ phương tiện và mục đích/ kết quả (Duy lý – giá trị). Người ta muốn kết
hôn muộn vì họ muốn có thời gian và sức lực để có thể cống hiến nhiều hơn và hết mình
cho công việc, có cơ hội chọn lựa cao hơn, sẽ tìm thấy người bạn đời tốt nhất cho mình,
sẽ tiết kiệm được nhiều tiền cho cuộc sống sau này Việc họ kết hôn muộn cũng nằm
trong ý muốn chủ quan của mỗi người (Cảm tính). Chính mong muốn đó đã thúc đẩy, chi
phối và dẫn dắt các cá nhân hành động để đạt mục đích đã đề ra.
 Như vậy, theo lý thuyết hành động của M. Werber ta có thể lý giải một cách dễ hiểu:
trong xã hội hiện đại hiện nay với nhiều giá trị chuẩn mực bị thay đổi, con người cũng
không bị áp lực từ phía gia đình, người thân về việc phải kết hôn sớm như trước kia nữa,
mặt khác nền tri thức được nâng cao cùng với việc bản thân mỗi người xác định phải đạt
được một vị thế xã hội nào đó, tính toán cái lợi – mất trong việc kết hôn, thấy việc kết
2
hôn ở lứa tuổi cao là bình thường… mà con người trong xã hội hiện đại chọn việc kết hôn
muộn. Đây là xu hướng sẽ tiếp tục diễn ra và được nhiều người chấp nhận.
b. Thuyết trao đổi xã hội và lựa chọn hợp lý.
Trong quan hệ cá nhân, các nguồn lực, điều được và điều mất không hẳn

chỉ là những đồ vật mà còn là tình yêu, địa vị, quyền lực, nỗi sợ…Khi con người gia nhập
một mối quan hệ, họ có những nguồn lực nhất đinh mà người khác coi là có giá trị và
đánh giá cao như: trí thông minh, vẻ đẹp bề ngoài, địa vị xã hội cao…Con người ta có ý
thức hoặc vô thức sử dụng những nguồn lực này nhằm đạt được cái họ muốn. Tiền đề
mặc định cơ bản của thuyết trao đổi cho rằng con người ta tác động qua lại để tăng tối đa
lợi ích hay những điều được của bản thân và làm giảm tối thiểu điều mất và cái giá phải
trả. Theo lý thuyết này, chúng ta cân đo các hành động và quan hệ của chúng ta trên cơ sở
lợi – hại, được – mất. Trong quan hệ, chúng ta có tối đa cái lợi và điều được, tối thiểu hóa
cái hại và điều mất.
Thuyết lựa chọn duy lý dựa vào tiền đề cho rằng con người luôn hành động
một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý
nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Theo Marx, mục đích tự giác của con
người như là quy luật quyết định toàn bộ cấu trúc, nội dung, tính chất, phương pháp của
hành động và ý chí của con người.
Áp dụng những lý thuyết trên, ta có thể lý giải xu hướng kết hôn muộn của
thanh niên ngày nay. Trong xã hội hiện đại, nam nữ bình đẳng, có cơ hội được học tập
ngang nhau nên nhiều phụ nữ bắt đầu có tư tưởng “kén cá chọn canh”, họ chờ người đàn
ông có thể lo cho cuộc sống sau này của mình dư giả, yên ấm. Chí ít đó phải là người đàn
ông thành đạt, hay có tiềm năng phát triển, do đó nhiều thiếu nữ thời nay thích kết hôn
muộn. Một nguyên nhân khác nữa là, kết quả tích cực của phong trào giải phóng phụ nũ
đã khiến cho phụ nữ có quyền được hưởng thụ những giá trị văn hóa, tinh thần, vui chơi
giải trí chẳng kém gì người đàn ông nên họ có xu hướng muốn hưởng thụ khoảng thời
gian “tự do”, độc thân lâu hơn. Còn đối với đàn ông,họ còn muốn vui chơi, hưởng thụ,
chưa muốn bị trói buộc vào cuộc sống gia đình với bao nhiêu lo toan và phức tạp. Thực tế
không phải ai muốn trì hoãn việc hôn nhân cũng là do kén chọn hay muốn hưởng thụ tự
do. Nhiều người không hề thích “chăn đơn gối chiếc” hay lý tưởng cuộc sống độc thân gì
3
cả. Họ cũng mong sớm có một mái ấm gia đình song phải miễn cưỡng chịu đựng sự cô
đơn của mình vì nhiều nguyên nhân khác nhau:
Người mê mải chạy theo công danh, sự rồi mới tính chuyện gia đình.Nhưng

đến khi đạt được những mục tiêu ấy, nhìn lại họ mới nhận ra mình không còn trẻ. Nhiều
người sau khi đã có địa vị cao trong xã hội thì đã ngoài 30, 40 tuổi, khi đó họ đã bị coi là
“quá lứa lỡ thì” và khó để có được một cuộc hôn nhân hạnh phúc với người bạn đời tâm
đầu ý hợp. Ví dụ từ phỏng vấn của Báo Tin Nhanh Việt Nam về vấn đề hôn nhân: Cô
T.L., tiến sĩ ngữ văn một trường ĐH giải thích về cuộc sống quạnh hưu ở tuổi trên 40 của
mình: "Lúc trẻ, sự đam mê nghiên cứu khoa học gần như lấn át những hứng thú khác.
Lúc danh phận đã yên định thì chẳng còn ai dám làm đối tác với một bà vợ tiến sĩ đã
đứng tuổi như mình". (Trích từ nguồn Báo Tin Nhanh) Cũng theo một độc giả nữa của
báo Tin Nhanh Việt Nam - Chị T.H.M., công tác ở ngành du lịch, lập gia đình ở tuổi 40
trả lời: "Thoạt đầu mình nghĩ khi công ăn việc làm ổn định thì mới tính đến lập gia đình.
10 năm phấn đấu, nay mình là trưởng phòng, thu nhập cao, có nhà riêng nhưng chuyện
kết hôn quả là nan giải. Tìm được một người tâm đầu ý hợp không dễ chút nào. Cuối
cùng việc lấy chồng như là một biện pháp tình thế. Sống chung với nhau có đến 2 mặt
con, nhưng đến giờ nói thật là hồn ai nấy giữ, hy vọng tìm thấy sự thăng hoa trong tình
yêu là điều gần như không tưởng".
Áp lực cuộc sống hiện đại khiến con người ta có quá nhiều việc phải làm, phải lo
nghĩ cũng như “phải” hưởng thụ. Áp lực đó sẽ không giảm đi mà luôn tăng lên theo thời
gian. Vì thế xu hướng kết hôn muộn là điều tất yếu.Mỗi người đều có những tiêu chuẩn,
những mong muốn riêng trong việc lựa chọn bạn đời, nhằm đạt được mục đích của họ.
Thực tế cho thấy: không nên kết hôn quá sớm khi vợ (chồng) còn quá trẻ, chưa có
tích lũy về kinh tế, kiến thức, kinh nghiệm sống, không có khả năng duy trì cuộc sống ổn
định cũng như hạnh phúc gia đình. Đó là sự lựa chọn hợp lý để có cuộc sống hôn nhân
hạnh phúc bền lâu.
4
 Tóm lại, theo cách giải thích từ hai lý thuyết: lý thuyết hành động xã hội của M. Werber
và thuyết trao đổi xã hội và lựa chọn hợp lý, ta phần nào có thêm cơ sở để lý giải về xu
hướng kết hôn, chung quy bởi các yếu tố: trình độ dân trí nâng cao, mong muốn có được
địa vị xã hội trước khi kết hôn, tính toán mong muốn kết quả có lợi nhất với bản thân
mình, các yếu tố xã hội tác động tới cá nhân như nghề nghiệp, sự chấp nhận của xã hội…
2. Khái niệm hôn nhân

Khái niệm hôn nhân có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng ở bài phân tích
của mình tôi xin đưa ra khái niệm hôn nhân dưới góc độ của khoa học Xã hội học.
Dưới góc độ xã hội học: Hôn nhân có hai nghĩa, thứ nhất, nó chỉ quá trình
chung sống trong hôn thú của một cặp vợ chồng, với nghĩa này, hôn nhân là một thiết chế
xã hội. Nghĩa thứ hai chỉ các sự kiện và quá trình dẫn đến sự hình thành một gia đình mới
hay là việc kết hôn (Trong Tập bài giảng XHH GĐ của Lê Thái Thị Băng Tâm dẫn từ Gia
đình truyền thống một số tư liệu XHH - Khuất Thu Hồng. NXB KHXH. Hà Nội, 1996)
Với cách giải thích của khoa học Xã hội học ta có thể thấy rằng,hôn nhân xuất
hiện từ mối quan hệ giữa nam và nữ khi họ được gọi là vợ chồng - gia đình, hay còn là
lúc bắt đầu của một sự kiện không còn độc thân nữa. Hôn nhân là một nhu cầu xã hội. Nó
hình thành trong quá trình phát triển của loài người, và nó cũng thay đổi theo từng giai
đoạn lịch sử, từng nền văn hóa.
3. Tuổi kết hôn
Tuổi kết hôn là tuổi mà một người được phép lấy chồng/vợ cũng như quyền làm
hoặc buộc phải làm cha mẹ hoặc các hình thức khác đồng thuận khác. Độ tuổi và các yêu
cầu khác nhau ở mỗi nước, nhìn chung thì độ tuổi kết hôn là 18 tuổi ở nhiều quốc gia, tuy
nhiên nhiều nước cho phép độ tuổi kết hôn sớm hơn nếu có sự đồng ý của cha/mẹ hoặc
luật pháp, hoặc trong trường hợp mang thai (nữ). (Trích Nguồn Bách khoa toàn thư mở :
)
Tại Việt Nam, theo điều 9: "Điều kiện kết hôn" của Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2012 thì nam phải 20 tuổi và nữ 18 tuổi trở lên.
5
 Từ cách hiểu của Khái niệm “hôn nhân” và “Tuổi kết hôn” cùng các kiến thức có được
tôi xin được trình bày cách hiểu của mình về “Xu hướng tuổi kết hôn muộn”.
4. Xu hướng kết hôn muộn
Theo từ điển tiếng việt: Xu hướng là làm theo mọi người,sự tiếp nhận, bắt trước
thực hiện theo số đông và bản thân mình cho là đúng. Cùng với cách hiểu về hôn nhân và
tuổi kết hôn tôi xin được trình bày cách hiểu về “Xu hướng kết hôn muộn”: Là việc chấp
nhận, bắt trước việc lấy vợ, lấy chồng- lập gia đình ở lứa tuổi cao hơn so với trước đây.
Để hiểu rõ hơn về xu hướng kết hôn muộn ta phải tìm hiểu về tuổi kết hôn trước

đây ở độ tuổi nào, để trả lời cho câu hỏi: tuổi kết hôn như thế nào thì được gọi là muộn?
Truyền thống dựng vợ, gả chồng của người Việt xưa ở độ tuổi có thể kết
hôn có câu ca như:
“ Nữ thập tam, nam thập lục ”. ( Nữ lấy chồng ở độ tuổi 13, nam thì lấy vợ
ở độ tuổi 16 được coi là vừa và dĩ nhiên nếu sau độ tuổi này mà chưa lập gia đình thì bị
ông bà ta quy cho là “lỡ lứa”, bà cô…)
Hay như:
“Lấy chồng từ thuở mười ba
Đến năm mười tám thiếp đà năm con
Ra đường người tưởng còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng”
Nhưng hiện nay, giới trẻ thường có xu hướng kết hôn muộn đặc biệt là nữ
giới tại các nước phát triển. Một số nghiên cứu cho thấy, từ những năm 1970, khuôn mẫu
hôn nhân ở châu Á đã bắt đầu thay đổi theo xu hướng kết hôn muộn. Đáng chú ý nhất là
việc kết hôn trước tuổi 20 không còn phổ biến ở nhiều nước và tuổi kết hôn lần đầu của
phụ nữ hiện nay đã vượt quá tuổi 20 ở tất cả các nước, ngoại trừ các nước Nam Á.
Những minh chứng gần đây cho thấy, trong khi vào những năm 1966, 20%
những người ở độ tuổi 20 đã kết hôn thì đến năm 2001, con số này ở dưới mức 5%. Và
hiện nay, độ tuổi trung bình kết hôn lần đầu có xu hướng tăng, từ khoảng 24 cho đến cận
30 tuổi.
6
Phụ nữ lấy chồng và sinh con đầu muộn hơn khá nhiều so với bất cứ thời điểm nào
trong lịch sử. Theo số liệu trong Bản tường trình thế giới về sinh sản (World Fertility
Report) của Liên Hợp Quốc, tuổi lấy chồng trung bình của toàn thế giới hiện nay so với
thập kỷ 70, thế kỷ trước đã cao hơn 2 tuổi (từ 21.2 lên 23.2). Tại các quốc gia công
nghiệp phát triển xu hướng này còn rõ hơn, từ 22,0 lên 26,1 tuổi. (Trích từ nguỗn Báo
Mới -
dẫn theo Số liệu trong bản tường trình thế giới về sinh sản)
Ngày nay, ở nhiều nước tiên tiến, tuổi kết hôn của phụ nữ ngày càng cao,
như ở Nhật, cách nay một thập niên tuổi kết hôn trung bình của phái nữ là 25 và nay là

29, 30. Ở Mỹ, phụ nữ từ 30 tuổi lập gia đình được xem là lý tưởng nhưng 40 cũng chưa
bị xem là “lỡ lứa”.Tuổi kết hôn của nam giới và nữ giới có xu hướng tăng lên qua các
giai đoạn và được cho là thể hiện rõ nhất ở giai đoạn 1989 – 1999:
Theo kết quả điều tra dân số tháng 4/1999, cơ cấu dân số từ 15 tuổi trở lên theo
tình trạng hôn nhân như sau:
BẢNG 1: cơ cấu dân số từ 15 tuổi trở lên theo tình trạng hôn nhân 1989 - 1999
(Bảng số liệu được lấy từ kết quả của cuộc Tổng điều tra về Dân số và nhà ở của Tổng
cục dân số kế hoạch hóa gia đình năm 1999 từ trang trang web
chính thức của Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình – Bộ y tế)
Nhận xét:
7
Năm 1989: chưa vợ, chưa chồng 29,2%; có vợ, có chồng 62,5%.
Năm 1999: chưa vợ, chưa chồng 28,3%; có vợ, có chồng 63,6%.
Gia đình có tính ổn định tương đối mặc dù tỷ lệ ly hôn đã tăng từ 0,5% lên 0,8%,
nhưng xu hướng kết hôn chậm xét về tuổi kết hôn lần đầu và tỷ lệ người sống độc thân
đang gia tăng.
Tuổi kết hôn trung bình lần đầu tiên ở thời điểm 1/4/1999 nam là 25,4 tuổi, nữ là
22,8 tuổi. Nhìn chung cả nước năm 1999 tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi chưa kết hôn đã tăng
lên 3% so với năm 1989. Tuổi kết hôn chậm đi 0,5 tuổi ở nữ và 1 tuổi ở nam.

Tuổi kết hôn bình quân lần đầu của một số dân tộc nước ta năm 1989 như sau:
BẢNG 2: Tuổi kết hôn bình quân lần đầu của một số dân tộc nước ta năm 1989
(Bảng số liệu được lấy từ kết quả của cuộc Tổng điều tra về Dân số và nhà ở của Tổng
cục dân số kế hoạch hóa gia đình năm 1989 từ trang />Nhận xét:
Các số liệu phản ánh xu hướng kết hôn chậm đi đang diễn ra ở nước ta, đặc biệt
ở dân tộc Kinh.
8
Tỷ lệ kết hôn giảm trong khi tỷ lệ ly hôn gia tăng, số người sống độc thân cũng
ngày càng nhiều.
Tỷ lệ độc thân của dân số từ 15 tuổi trở lên so sánh từ 1/4/1989 với 1/4/1999

 Như vậy, nhìn chung ở nước ta những năm qua và đến nay vẫn tiếp tục diễn ra xu hướng
kết hôn lần đầu chậm đi và số người độc thân tăng lên, gắn liền với hiện tượng lập gia
đình chậm và không lập gia đình ở nhiều nam nữ thanh niên.
Còn theo kết quả mới nhất từ điều tra quốc gia lần đầu tiên về gia đình
được Bộ Văn hóa – Thể thao và du lịch cùng với UNICEF phối hợp thực hiện năm 2009
thì tuổi kết hôn trung bình của người Việt Nam đã tăng lên ở cả nam và nữ.
Bảng 3. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu giai đoạn 1989-2009
Năm Nam Nữ Chênh lệch (Nam-Nữ)
1989 24,4 23,2 1,2
1999 25,4 22,8 2,6
2009 26,2 22,8 3,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK),Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009
( Trích dẫn từ nguồn Báo mới Việt Nam- dẫn từ kết quả của Bộ Văn hóa – Thể
thao- Du lịch công bố năm 2009)
Nhận xét : Theo Tổng cục Thống kê, tuổi kết hôn trung bình lần đầu ở cả hai giới
đều tăng nhẹ (kết hôn muộn hơn) trong 10 năm qua: năm 2009, kết hôn lần đầu của nam
trung bình 26,2 tuổi và 23 tuổi đối với nữ. So với năm 2000, độ tuổi này là 22,8 với nữ và
25,4 với nam.
Bảng 4: Tuổi kết hôn trung bình lần đầu chia theo thành thị, nông thôn, các
vùng kinh tế và giới tính, năm 2009.
Vùng và nơi cư trú
Chênh lệch
(Nam - Nữ)
Nam Nữ
Toàn quốc 26,2 22,8 3,4
9
Vùng và nơi cư trú
Chênh lệch
(Nam - Nữ)
Nam Nữ

Thành thị 27,7 24,4 3,3
Nông thôn 25,6 22,0 3,6
Trung du và miền núi
phía Bắc
24,2 21,3 2,9
Đồng bằng sông Hồng 26,2 22,5 3,7
Bắc Trung Bộ và DH
miền Trung
26,8 23,0 3,8
Tây Nguyên 25,2 21,8 3,4
Đông Nam Bộ 27,4 24,2 3,2
Đồng bằng sông Cửu
Long
26,1 22,6 3,5
( Trích dẫn từ nguồn Báo mới Việt Nam- dẫn từ kết quả của Bộ Văn hóa – Thể
thao- Du lịch công bố năm 2009)
Nhận xét:
Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam và nữ theo vùng và thành thị, nông
thôn. Số liệu cho thấy, Đông Nam bộ là vùng có tuổi kết hôn trung bình lần đầu cao nhất
trong cả nước (27,4 năm đối với nam, và 24,2 năm đối với nữ). Nhìn chung, ở đâu có
mức độ đô thị hóa cao hơn hoặc kinh tế phát triển hơn thì ở đó người dân kết hôn muộn
hơn. Những người sinh ra và lớn lên ở đô thị thường kết hôn muộn hơn những người sinh
ra và lớn lên ở nông thôn đặc biệt tại các thành phố lớn. Điều này có thể xuất phát từ sự
tự do và đa dạng trong chọn lựa vốn là đặc trưng của cuộc sống thành thị.
 Như vậy, từ thực trạng của xu hướng tuổi kết hôn muộn từ các số liệu nghiên cứu trên có
thể cho thấy : không chỉ ở các nước phát triển và nhiều quốc gia khác trên thế giới xu
hướng kết hôn muộn đã và đang diễn ra phổ biến ở Việt Nam. Ở nước ta xu hướng này có
10
sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền. Ở thành thị, các vùng kinh
tế phát triển xu hướng này diễn ra phổ biến hơn. Giữa dân tộc Kinh – dân tộc chiếm đa số

và có trình độ dân trí, kinh tế phát triển thì xu hướng này diễn ra phổ biến hơn các dân tộc
ít người khác.
5. Nguyên nhân của xu hướng kết hôn muộn
Trong bài tập của mình tôi xin điểm qua một số nguyên nhân chủ yếu của
xu hướng này nhằm làm cơ sở dự báo kết quả của nó trong tương lai như sau:
• Thành công của Đảng, Nhà nước, các nhà hoách định chính sách trong việc nỗ lực
tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chính sách KHHGĐ.
Kết quả không kết hôn sớm, dãn khoảng cách sinh, nhận thức của người
dân cũng tăng lên. Điều quan trọng dẫn đến sự chuyển đổi từ mô hình kết hôn truyền
thống (kết hôn sớm ở cả nam và nữ) sang mô hình hôn nhân theo luật pháp và thực hiện
nếp sống văn minh hiện đại (kết hôn đúng độ tuổi) trong những thập niên qua.
 Nói cách khác, những yếu tố cho quá trình hiện đại hóa, chính sách, văn hóa và
quyền tự do trong hôn nhân đã góp phần hình thành xu hướng kết hôn muộn của người
Việt Nam.
• Điều kiện kinh tế - xã hội phát triển : Đô thị hóa
Trong các xã hội trước, đất rộng người thưa, nông nghiệp giữ vai trò chủ
đạo, kỹ thuật canh tác lạc hậu, đòi hỏi nhiều nhân lực để gia tăng sản xuất. Thêm vào đó,
mục đích chính của hôn nhân được xem là để duy trì nòi giống và đông con được hiểu là
nhiều phúc nhiều lộc. Vì thế việc kết hôn sớm là cách giải quyết nhiều vấn đề xã hội thời
bấy giờ. Nhưng trong xã hội công nghiệp hoá – hiện đại hóa hiện nay, đông dân là một
vấn nạn của xã hội. Cơ thể xã hội điều chỉnh hiện tượng này bằng cách chủ trương kế
hoạch hoá và ở cấp độ nào đó khuyến khích kết hôn muộn.
Không giống như cuộc sống ở nông thôn bị gắn chặt với đồng ruộng, nhiều
thế hệ canh tác trên một mảnh đất, ít di chuyển và thay đổi nhưng cuộc sống ở thành thị
đa ngành, đa nghề, con người di chuyển thường xuyên và tham gia rất nhiều loại hình
quan hệ xã hội đồng thời áp lực cuộc sống hiện đại khiến con người có quá nhiều việc
11
phải làm, phải lo nghĩ và cũng phải hưởng thụ. Áp lực đó sẽ không giảm đi mà tăng lên
theo thời gian. Vì thế xu hướng kết hôn tuổi muộn là điều tất yếu khách quan.
Sự tự do chọn lựa là kết quả đồng thời là điều kiện cơ bản để con người gia

nhập vào cuộc sống thành thị. Đi cùng với nó, quyền quyết định của các ông bố bà mẹ
ngày càng trở nên mờ nhạt và thụ động. Tuổi kết hôn nhờ đó được nới lỏng ra và có tính
co giãn lớn hơn.
Hơn nữa, quá trình đô thị hóa cũng là nhân tố dẫn đến tuổi kết hôn muộn.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy những người sinh ra và lớn lên ở đô thị thường kết hôn
muộn hơn những người sinh ra và lớn lên ở nông thôn.
Đặc biệt, ngày nay y học tiến bộ vượt bậc nên những trở ngại sinh con có
thể kịp thời khắc phục. Đây cũng là nhân tố góp phần làm cho nữ giới ngày càng có xu
hướng kết hôn muộn.
• Ảnh hưởng của giáo dục
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tuổi kết hôn muộn là ảnh hưởng từ
giáo dục. Hiện nay, nam nữ bình đẳng và có cơ hội trong học tập, làm việc như nhau nên
vai trò và vị trí xã hội của phụ nữ ngày càng khẳng định chỗ đứng của mình trong gia
đình và xã hội. Người phụ nữ không còn cảm thấy bị thúc bách về nhu cầu phải lập gia
đình và có con khi ở tuổi 20 nữa. Phụ nữ có không gian tiếp xúc rộng rãi, đa dạng hơn
xưa, có nhiều sự lựa chọn nên việc kết hôn muộn cũng không có gì là khó hiểu.
Hơn nữa, với những bạn trẻ có công ăn việc làm ổn định, có đời sống tinh
thần vui nhộn với các hoạt động vui chơi, giải trí hấp dẫn trong một xã hội có cái nhìn
ngày càng thoáng hơn đối với các mối quan hệ nam nữ, thì cuộc sống tự do luôn được
quan tâm.
Theo chuyên gia cố vấn tuổi trẻ - tình yêu Paula Hill của hãng Relate: “
Một trong những lý do khiến các thanh niên kết hôn muộn bởi họ đang mải chú tâm học
hành, chuyên tu sự nghiệp. Khi ở trong môi trường đại học, họ sẽ không bị chi phối nhiều
12
đến cuộc sống gia đình, trong vòng kết hôn luẩn quẩn hay vướng bận con cái. Họ sẽ chỉ
phải chú ý đến mỗi việc học, học và học.” (Trích từ Nguồn báo Dantri.com.vn).
Trong các cấp học Nhà nước cũng xen kẽ các chính sách kế hoạch hóa gia
đình của mình với những nội dung, chương trình khuyến khích việc kết hôn khi đã học
xong bậc đại học, có công ăn, việc làm ổn định để mỗi cá nhân có thể chăm lo cho mái
ấm của mình. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc nhận thức, suy nghĩ của các cá nhân về

vấn đề hôn nhân.
Như vậy, giáo dục cũng là một trong những nhân tố có vai trò quan trọng
trong việc xu hướng kết hôn muộn diễn ra và được chấp nhận.
• Kỹ thuật chuyên môn, cơ cấu việc làm
Thay đổi cơ cấu việc làm, trình độ chuyên môn cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng kết hôn muộn. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, hiện nay
nhiều lao động nữ ở các doanh nghiệp thường xem chuyện lứa đôi là chưa cần thiết khi
chưa có thu nhập ổn định, không đảm bảo cho cuộc sống gia đình. Đây là một trong
những lý do khiến nhiều người đã xấp xỉ tuổi 30 mà chưa có gia đình. Mặt khác, cường
độ công việc cũng đẩy chị em ngày càng xa với chuyện đi tìm người yêu. Theo thống kê
của Liên đoàn lao động TP HCM, toàn thành phố có 503.730 lao động nữ, làm việc tại
gần 8.500 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 48,89%. Riêng ở các ngành dệt may, chế biến thuỷ
sản tỷ lệ lao động nữ ở độ tuổi xấp xỉ 30 chiếm 60-94%. Tỷ lệ lao động nữ ngày càng
tăng, cường độ làm việc cao, thu nhập thấp, nguy cơ mất việc cao là những nguyên nhân
dẫn đến xu hướng kết hôn muộn. (Trích từ báo Tin Nhanh Việt Nam
/>2359624.html dẫn theo thống kê liên đoàn lao động TP HCM )
Xin được lấy lại 2 ví dụ đã trình bày ở phần trên: Cô T.L., tiến sĩ ngữ văn
một trường ĐH giải thích về cuộc sống quạnh hưu ở tuổi trên 40 của mình: "Lúc trẻ, sự
đam mê nghiên cứu khoa học gần như lấn át những hứng thú khác. Lúc danh phận đã yên
định thì chẳng còn ai dám làm đối tác với một bà vợ tiến sĩ đã đứng tuổi như mình".
(Trích từ nguồn Báo Tin Nhanh) Cũng theo một độc giả nữa của báo Tin Nhanh Việt
13
Nam - Chị T.H.M., công tác ở ngành du lịch, lập gia đình ở tuổi 40 trả lời: "Thoạt đầu
mình nghĩ khi công ăn việc làm ổn định thì mới tính đến lập gia đình. 10 năm phấn đấu,
nay mình là trưởng phòng, thu nhập cao, có nhà riêng nhưng chuyện kết hôn quả là nan
giải. Tìm được một người tâm đầu ý hợp không dễ chút nào. Cuối cùng việc lấy chồng
như là một biện pháp tình thế. Sống chung với nhau có đến 2 mặt con, nhưng đến giờ nói
thật là hồn ai nấy giữ, hy vọng tìm thấy sự thăng hoa trong tình yêu là điều gần như
không tưởng".
Như vậy, trên thực tế cũng cho thấy không chỉ những người làm các

công việc có trình độ kỹ thuật cao có tuổi kết hôn trung bình cao hơn những người làm
các công việc lao động chân tay đơn giản, mà ngay cả những người có công việc bấp
bênh cũng có xu hướng này vì họ cần phải ổn định việc làm của mình thì mới lo tới việc
lập gia đình.
• Luật Hôn nhân gia đình (1959, 1986, 2000)
Theo điều 9, Luật hôn nhân và gia đình quy định về điều kiện kết hôn là:
nam đủ 20 tuổi và nữ đủ 18 tuổi mới được kết hôn.
. Dân tộc Kinh chiếm đa số trong cộng đồng người Việt Nam, có nhiều cơ
hội tiếp xúc với đời sống hiện đại, dễ dàng tiếp cận nhiều hơn các chủ trương, chính sách,
pháp luật của nhà nước nên có xu hướng kết hôn muộn hơn các dân tộc ít người. Và cả
những người làm việc trong khu vực nhà nước kết hôn muộn hơn những người làm việc
trong khu vực tư nhân hay tại hộ gia đình, họ chịu áp lực nhiều từ công việc và thực hiện
nghiêm chỉnh các chính sách của nhà nước liên quan đến hôn nhân và gia đình.
 Như vậy, luật hôn nhân và gia đình cũng có tác động nhất định đến xu
hướng kết hôn muộn như hiện nay.
• Kết hôn sẽ mất đi vẻ đẹp hình thể
Theo một nghiên cứu mới đây tại trường đại học Queensland ở Australia –
đăng tải trên tạp trí Tri thức trẻ số 21 - 2011 thì sau khi kết hôn người phụ nữ thường phát
14
phì. Thêm vào đó, sau khi kết hôn, bận rộn với chuyện gia đình sẽ khiến họ mất đi những
thói quen ăn uống hay tập luyện hằng ngày để duy trì vóc dáng.
 Chính vì sợ mất đi vẻ đẹp hình thể mà có thể nhiều phụ nữ sợ phải lập
gia đình.
• Mất đi cơ hội chọn lựa
Đối với cả nam giới hay nữ giới, kết hôn đồng nghĩa với việc “chấm dứt
chọn lựa”. Kết hôn rồi, họ không thể thoải mái giao lưu với người khác giới bới sự bó
buộc từ phía người vơ/ chồng của mình, với một số người đây là điều rất khó.
• Kết hôn rất tốn kém
Thực tế chỉ ra rằng tổ chức một đám cưới không hề "rẻ". Và khi hai người
về chung sống với nhau, mọi chi tiêu đều phải tính toán.

Gần đây báo chí thường đưa tin về những đám cưới đình đám của những
người nổi tiểng ở Việt Nam có những đám cưới lên tới con số gần 10 tỷ đồng cho việc tổ
chức lễ cưới như đám cưới của con trai đại gia thủy sản Cần Thơ bà Pham Thị Diệu Hiền
hay một số người mẫu diễn viên nổi tiếng khác… (Dẫn nguồn Dantri.com.vn)
• Là sự ràng buộc dài
Thật khó để có thể hoàn toàn chiều theo ý nhau bởi mỗi người một tính
cách khác.
• Kết hôn và ly hôn thường đi liền với nhau
Kết quả từ cuộc Tổng điều tra về dân số và nhà ở năm 2009 đưa ra một số kết quả
sau:

Bảng 5: Tỷ lệ ly hôn và ly thân theo giới tính vá nhóm tuổi 2009
Tuổi Nam Nữ
% ly hôn % ly thân Tổng % ly hôn % ly thân Tổng
15-19 0,01 0,01 0,02 0,08 0,06 0,13
20-24 0,17 0,14 0,31 0,56 0,33 0,90
25-29 0,50 0,34 0,84 1,19 0,51 1,71
15
30-34 0,87 0,42 1,29 1,78 0,61 2,39
35-39 0,98 0,44 1,42 2,07 0,66 2,73
40-44 1,03 0,47 1,50 2,35 0,72 3,06
45-49 0,94 0,43 1,36 2,59 0,87 3,46
50-54 0,86 0,43 1,29 2,49 0,93 3,42
55-59 0,70 0,42 1,12 2,14 0,91 3,06
60-64 0,52 0,50 1,01 1,55 0,86 2,41
65-69 0,46 0,50 0,96 1,03 0,75 1,78
70-74 0,27 0,51 0,78 0,51 0,56 1,07
75+ 0,18 0,41 0,59 0,21 0,28 0,49
Chung 0,59 0,33 0,92 1,43 0,56 1,99
Số lượng 183539 102972 286512 471899 186167 658066

(Trích từ Chuyên khảo này trình bày kết quả phân tích sâu về cấu trúc tuổi – giới
tính, cấu trúc hộ và tình trạng hôn nhân của dân số Việt Nam dẫn từ kết quả điều tra của
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.)
Nhận xét:
Mức độ ly hôn/ly thân của nữ cao hơn khá nhiều so với của nam, cả về số lượng
cũng như tỷ lệ. Nếu tính chung cho dân số từ 15 tuổi trở lên thì tỷ lệ này là 0,9% cho nam
và 2% cho nữ, tương ứng với khoảng 286,5 và 658,1 nghìn người. Lý do chính có lẽ là
nam giới có khả năng tái hôn cao hơn và có tỷ xuất tử vong lớn hơn của nữ. Nhóm tuổi
có tỷ số ly hôn/ly thân cao nhất là 40-44 tuổi với nam (1,6%) và 50-54 tuổi với nữ
(4,4%). Tỷ lệ ly hôn/ly thân ở thành thị cao hơn ở nông thôn với tất cả các nhóm tuổi từ
30-34 trở lên.
Nhìn chung, tình trạng ly hôn/ly thân ở Việt Nam hiện nay liên quan nhiều đến
các nhóm trình độ: học vấn thấp, phụ nữ tuổi trung niên, phụ nữ chưa có con, nam giới
không làm việc, bệnh về tâm trí, dân tộc Kinh, ở một số khu vực.Cũng vì lẽ đó mà nhiều
cặp đôi nghĩ không cần phải tốn kém thời gian và tiền của cho một đám cưới để rồi lại
phải chia ly.
6. Ảnh hưởng của xu hướng kết hôn muộn
16
a. Tích cực
Trước hết, khi kết hôn muộn thì sẽ có thời gian và sức lực để có thể cống
hiến nhiều hơn và hết mình cho công việc nhất là đối với những người làm nghiên cứu
khoa học.
Thứ hai, khi kết hôn muộn chúng ta sẽ có cơ hội chọn lựa cao hơn, sẽ tìm
thấy người bạn đời tốt nhất cho mình.
Thứ ba, kết hôn muộn sẽ tiết kiệm được nhiều tiền. Giáo sư Masahiro
Yamada cho biết, với đà này, số phụ nữ kết hôn muộn sẽ còn tăng lên nữa. Giải thích
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phụ nữ lập gia đình muộn, ông nói: “Nữ giới phải chịu
mức sống thấp hơn nếu như họ lấy chồng. Trung bình họ bị mất 2/3 chi tiêu cho cá nhân
và còn phải làm việc nhà. Khoảng cách giữa trước và sau kết hôn chênh lệch nhay ngày
càng lớn.”

Thứ tư, chúng ta sẽ có nhiều thời gian dành cho bạn bè, bản thân.
b. Tiêu cực
Do ảnh hưởng của xu hướng tuổi kết hôn muộn, vì thế mà độ tuổi sinh đẻ
của phụ nữ tăng lên. Cho dù sinh con khi đã lớn tuổi ngày càng trở nên phổ biến thì mang
thai muộn vẫn rất nguy hiểm, khi đã ở vào độ tuổi cuối 30, nguy cơ sảy thai, sinh non sẽ
tăng lên.
Xu hướng phụ nữ lớn tuổi mang thai ở châu Á cũng ngày càng tăng. Cơ
quan thống kê quốc gia Hàn Quốc vừa cho biết, tỉ lệ sinh năm 2009 tiếp tục giảm 5,5% so
với năm 2008. Phụ nữ Hàn Quốc ngày càng sinh con muộn do xu hướng kết hôn muộn,
một phần do tác động của khủng hoảng kinh tế. Tỉ lệ sinh bình quân ở một phụ nữ trong
độ tuổi từ 25 đến 49 tại Hàn Quốc đã giảm mạnh trong năm qua. Theo Cục Phụ trách vấn
đề lão hóa dân số thuộc Bộ Y tế, Phúc lợi và Gia đình Hàn Quốc, kinh tế khủng hoảng đã
gây áp lực lớn đối với nhiều người, buộc họ từ bỏ hoặc tạm hoãn hôn nhân và sinh con.
Vào những năm 1980, chỉ có 8% phụ nữ mang thai ở độ tuổi trên 40 thì đến nay, con số
17
này đã tăng hơn gấp đôi (19%). Y học đã chứng minh sinh con muộn có thể hại đến sức
khỏe em bé và bà mẹ. Phụ nữ ngoài 40 tuổi rất khó thụ thai và ngay cả khi họ có thể
mang thai, nguy cơ sinh con dị dạng cao hơn những sản phụ trẻ tuổi.
Theo một số nhà nghiên cứu xã hội học, tại Việt Nam, khoảng 10 năm trở
lại đây hiện tượng độc thân của nữ thanh niên để theo đuổi tự do cá nhân tương đối phổ
biến. Nhiều phụ nữ có cuộc sống vật chất đầy đủ, chọn sống thử trước hôn nhân theo kiểu
phương Tây. Thế nhưng, không phải ai kết hôn muộn cũng không có hạnh phúc những
cuộc hôn nhân muộn màng ít đem lại kết quả như mong muốn vì rất nhiều lí do khác
nhau.
II. CƠ SỞ DỰ BÁO VỀ XU HƯỚNG TUỔI KẾT HÔN MUỘN TRONG TƯƠNG LAI
Từ các kết quả đã phân tích ở trên về tình hình, các nhân tố tác động cũng như ảnh
hưởng của xu hướng tuổi kết hôn muộn ở Việt Nam đã và đang diễn ra cùng với những
kiến thức xã hội được biết tôi xin đưa ra dự báo về xu hướng trong thời gian tới.
“Xu hướng tuổi kết hôn muộn vẫn sẽ tiếp tục diễn ra phổ biến và được chấp nhận
từ phía xã hội” bởi các cơ sở sau:

• Đảng, nhà nước, các nhà hoạch định chính sách vẫn tiếp tục nỗ lực tuyên truyền, vận
động người dân thực hiện chính sách KHHGĐ. Kết hợp chính sách qua giáo dục ngay từ
trong nhà trường, các bậc học, qua phương tiện truyền thông đại chúng, phim ảnh
Bằng chứng là: Đến nay, đã có 42 tỉnh thành lập Trung tâm Tư vấn dịch vụ
dân số-gia đình- trẻ em (trên kế hoạch các Trung tâm này sẽ tiếp tục được thành lập ở
nhiều địa phương, vùng miền) để thực hiện các hoạt động tư vấn trực tiếp, tư vấn cộng
đồng về lĩnh vực KHHGĐ. Các mô hình truyền thông dân số tiếp tục được xây dựng,
củng cố và mở rộng trên cơ sở thế mạnh của mỗi ngành, đoàn thể và đảm bảo tiếp cận
phù hợp với từng nhóm đối tượng. Các hoạt động truyền thông, tư vấn về dân số, phát
triển, SKSS/KHHGĐ đã và sẽ được lồng ghép vào các hoạt động thường xuyên của các
ban ngành, mặt trận, đoàn thể các cấp.Để nâng cao hiệu quả thông tin cho lãnh đạo các
cấp, các tờ tin với nội dung ngắn gọn, súc tích, hình thức đẹp định kỳ đã được xuất bản.
Được sự hỗ trợ của UNFPA, Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội đã xây dựng tờ
18
tin "Vấn đề dân số hôm nay" cung cấp miễn phí đến đại biểu dân cử các cấp.Trong hai
năm từ tháng 6/2001 đến tháng 6/2003, Tiểu dự án GDDS thuộc Dự án Dân số - Sức
khoẻ gia đình nhằm tăng cường chất lượng giáo dục dân số - sức khoẻ sinh sản (GDDS -
SKSS) vị thành niên trong trường trung học phổ thông đã được triển khai thực hiện. Hiện
nay, trên toàn quốc vấn đề GDDS - SKSS cho học sinh phổ thông trung học đã triển khai
được ở 43 tỉnh, thành. Kết quả của việc thực hiện GDDS - SKSS trong nhà trường những
năm qua cho thấy nhu cầu cần được GDDS - SKSS trong nhà trường là bức thiết, được sự
đồng thuận ngày càng cao của những lực lượng đang tham gia vào quá trình GDDS -
SKSS.
 Trong tương lai sự chỉ đạo, xây dựng kế hoạch từ phía Đảng. Nhà nước, các Ban –
Nghành việc định hình KHHGĐ/ sức khỏe, trong đó có việc khuyến khích kết hôn ở lứa
tuổi đã hoàn thành các bậc học, có công ăn, việc làm ổn định vẫn sẽ được quan tâm ở
ngay các bậc học – tác động rất lớn tới nhận thức của mỗi cá nhân trong xã hội Việt Nam,
chính vì vậy mà chắc chắn xu hướng tuôỉ kết hôn vẫn sẽ tiếp tục diễn ra trong tương lai
tới.
• Kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng nghèo đói và đang vươn mình trở thành nền

kinh tế phát triển.Những dự báo lạc quan trên về tăng trưởng kinh tế năm 2013 được các
chuyên gia kinh tế, nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đưa ra tại Diễn đàn Tăng
trưởng kinh tế Việt Nam 2012 do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM)
và Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) tổ chức cuối tuần qua đã khẳng định : năm 2013
là năm bản lề cho những năm kế tiếp nên cần tập trung duy trì ổn định vĩ mô, giữ tăng
trưởng ổn định. ( Trích từ nguồn báo: dẫn theo kết quả của Diễn đàn
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2012 do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
(CIEM) và Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) )
Kinh tế tiếp tục phát triển hơn trước cùng với việc mở cửa, hội nhập vì vậy
kéo theo đó là : Nhận thức, trình độ dân trí của người dân ngày càng tăng lên. Việc tuân
theo luật pháp và thực hiện nếp sống văn minh hiện đại (kết hôn đúng độ tuổi) đã và tiếp
tục được thực hiện. Hiện nay, quy mô giáo dục và mạng lưới trường lớp vẫn đang tiếp tục
19
được củng cố và phát triển. Xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ
sở được đẩy mạnh. Đã có 14 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập tiểu học
đúng độ tuổi; 15 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh lưu
ban, học sinh bỏ học đã giảm dần. (Kết quả Phổ cập giáo dục từ Bộ Giáo dục và đào tạo
năm 2010). Các biện pháp pháp luật bảo đảm cho sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ
nữ tiếp tục được khẳng định và phát triển trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - dân
sự, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia hoạt động văn hoá nghệ thuật. Dự
án "Lồng ghép dân số với phát triển gia đình bền vững thông qua tín dụng-tiết kiệm và
phát triển kinh tế gia đình" đã được triển khai tại 32 tỉnh, có sự tham gia của nhiều Bộ,
ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội. Hiệu quả của
việc lồng ghép này không chỉ giới hạn ở việc cải thiện trực tiếp đời sống kinh tế, chất
lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình, đặc biệt là những gia đình nghèo, mà
còn góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia đình và cộng đồng, tạo cho họ
niềm tin và khả năng tổ chức thực hiện các hoạt động tập thể. Việc nhận thức tăng lên,
thời giant ham gia vào các hoạt động xã hội nhiều hơn trong tương lai của các cá nhân
cũng ảnh hưởng lớn tới việc quyết định ở lứa tuổi muộn hơn trước đây…Như các nước

phát triển bên cạnh nước ta như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản thì một điều chắc chắn
theo tư duy lo gic trong tương lai sự vươn lên mạnh mẽ của Việt Nam xu hướng tuổi kết
hôn muộn sẽ tiếp tục được chấp nhận và phổ biến.
Để chứng minh cho điều này kể tới việc sáng ngày 28/11, tại trường Đại
học Văn hóa Hà Nội đã diễn ra buổi họp báo giới thiệu về hội thảo “Thực tại và tương lai
của gia đình trong thế giới hội nhập”. Và tiếp đó là Hội thảo khoa học quốc tế Thực tại và
tương lai các gia đình Việt Nam trong thế giới hội nhập, được trường Đại học Văn hóa
Hà Nội tổ chức vào ngày 29/11/ 2012 với sự tham gia của các nhà khoa học trong và
ngoài nước, tại Hội trường Nhà văn hóa của trường. Cũng có nói về nhiều vấn đề về hôn
nhân –gia đình trong đó Hội thảo có đề cập qua xu hướng tuổi kết hôn tăng sẽ tiếp tục
diễn ra phổ biến ở Việt Nam ( Trích từ nguồn Dân trí dẫn theo kết quả của Hội thảo khoa
học quốc tế Thực tại và tương lai các gia đình Việt Nam trong thế giới hội nhập 2012)
20
Như vậy, trong tương lai kinh tế phát triển, nhận thức của người dân tăng
lên, xã hội vẫn sẽ chấp nhân xu hướng tuổi kết hôn muộn.
• Nền kinh tế phát triển song cũng có một thực tế cho thấy vấn đề việc làm ổn định, và ổn
định việc làm đang là một trong những bài toán khó cho các những bài toán khó đặt ra
cho nhà nước về việc giải quyết việc làm cho nguồn lao động “dồi dào” hiện nay. Thất
nghiệp đồng nghĩa với việc cá nhân phải tìm việc, phải đạt mục tiêu “sự nghiệp”, miếng
cơm manh áo lên trên. Khi giải quyết xong vấn đề này thì mới nghĩ tới việc kết hôn, lập
gia đình. Bài viết của TS. Trương An Quốc cho biết mỗi con người để tìm được việc làm
ổn định rồi ổn định việc làm của mình thì phải mất từ 5 – 10 năm sau khi được đào tạo
qua trường lớp chuyên nghiệp, có người thì lâu hơn.
Cùng với những thuận lợi thì các cá nhân trong tương lai còn phải đối
mặt với vấn đề “thất nghiệp”, “ổn định việc làm”, “việc làm ổn định”…nên các cá nhân
cần phải lo cho bản thân họ trước sau đó mới quyết định kết hôn. Quãng thời gian này
không hề ngắn.
• Càng ngày “cái tôi cá nhân”, lối sống ưa thích hưởng thụ, đề cao bản thân càng diễn ra
phổ biến trong giới trẻ bởi họ được sống trong môi trường đầy đủ về vật chất, tiện nghi,
giao tiếp với các nền văn hóa, văn minh nhanh chóng qua các công nghệ cao. Bên cạnh

đó cũng có một phần đông đảo các bạn trẻ rất năng động, có nhiều định hướng, ước mơ
hoài bão to lớn, họ cần thời gian để thực hiện những hoài bão, ước mơ của mình. Vì vậy
họ sẽ rất ngại phải kết hôn sớm –sợ bó buộc cuộc đời mình với gia đình chồng/ vợ, con
cái…Họ sẽ tiếp tục vui chơi, theo đuổi những mơ ước, hoài bão, khám phá thế giới cho
tới khi thấy dấu hiệu của thời gian, của sự chin chắn, trưởng thành thực sự thì họ mới lập
gia đình và kết hôn.
 Trên đây là một vài nhận định được bản thân tôi rút ra từ các tài liệu được đọc, các chính
sách được biết tới của nước ta trong thời gian tới, làm cơ sở cho việc khẳng định của
mình rằng: “Trong tương lai xu hướng tuổi kết hôn muộn vẫn tiếp tục diễn ra ở Việt
Nam.”
PHẦN III: KẾT LUẬN
21
Tuổi kết hôn trung bình của người Việt Nam, ở cả nam giới và nữ giới đều có xu
hướng tuổi kết hôn tăng so với những thập niên trước. Đây là thành công của Việt Nam
trong việc nỗ lực tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chính sách KHHGĐ, không
kết hôn sớm, dãn khoảng cách sinh, nhận thức của người dân cũng tăng lên. Điều quan
trọng dẫn đến sự chuyển đổi từ mô hình kết hôn truyền thống (kết hôn sớm ở cả nam và
nữ) sang mô hình hôn nhân theo luật pháp và thực hiện nếp sống văn minh hiện đại (kết
hôn đúng độ tuổi) trong những thập niên qua. Nói cách khác, những yếu tố cho quá trình
hiện đại hóa, chính sách, văn hóa và quyền tự do trong hôn nhân đã góp phần hình thành
xu hướng kết hôn muộn của người Việt Nam. Và trong thời gian tới xu hướng này sẽ tiếp
tục được chấp nhận và phổ biến trong xã hội nước ta. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của
nam cao hơn so với nữ ở tất cả các giai đoạn và khu vực. Nam giới thường muốn có địa
vị xã hội trước khi lập gia đình. Còn đối với phụ nữ, áp lực hôn nhân cao hơn nam giới và
do ở vị trí “thụ động” trong quan hệ hôn nhân nên vì thế họ có xu hướng kết hôn sớm hơn
so với nam giới. Thanh niên thành thị kết hôn muộn hơn so với thanh niên nông thôn, vì
sức ép của vấn đề việc làm, thu nhập, sự bận rộn của cuộc sống đô thị. Ngoài ra, ở thành
thị cũng có nhiều người thích cuộc sống độc lập, không thích ràng buộc sớm vào cuộc
sống gia đình. Dân tộc Kinh có nhiều cơ hội tiếp xúc với đời sống hiện đại, dễ dàng tiếp
cận nhiều hơn các chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước nên có xu hướng kết

hôn muộn hơn các dân tộc ít người. Những người làm việc trong khu vực nhà nước kết
hôn muộn hơn những người làm việc trong khu vực tư nhân hay tại hộ gia đình, họ chịu
áp lực nhiều từ công việc và thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách của nhà nước liên
quan đến hôn nhân và gia đình. Những người có học vấn thấp và làm nông nghiệp thường
có xu thế kết hôn sớm.
Để xu hướng kết hôn muộn phát huy tối đa vai trò tích cực của nó trong tương lai
thì cần có sự bình đẳng giới trong cơ hội tìm kiếm việc làm và hỗ trợ tài chính nhằm
khuyến khích, nâng cao tỷ lệ sinh đẻ trong các gia đình. Ví dụ như : Chế độ nghỉ sau khi
sinh con đối với cả 2 vợ chồng là giải pháp điển hình trong chính sách hỗ trợ bình đẳng
giới, phân chia trách nhiệm gia đình. Như ở: Chính phủ Đan Mạch cho phép thời gian
22
nghỉ sau khi sinh con là một năm; Hà Lan, Lúc-xăm-bua áp dụng chính sách lao động
tính đến yếu tố trợ giúp, nhất là với nữ giới, những khả năng tối ưu về thời gian để chăm
sóc con cái, nhất là trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, trẻ vị thành niên.
Các chính sách gia đình cần chú trọng tới việc đáp ứng nguyện vọng về việc làm
ổn định, ổn định việc làm, quỹ thời gian cho người lao động, đặc biệt là nữ giới. Ngày
nay, vấn đề không còn là nữ giới có tham gia hoạt động xã hội hay không, mà là thay đổi
cách nhìn nhận khi họ là thành phần đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế. Sự bấp
bênh trong công việc và nguy cơ thất nghiệp sẽ dẫn đến tình trạng gia đình mất ổn định.
Yếu tố tự chủ và việc làm của nữ giới góp phần ổn định tổng thu nhập của gia đình, khắc
phục được tình trạng khó khăn cho gia đình hộ nghèo.
Ngoài công việc ổn định, điều kiện nhà ở, hệ thống cung cấp dịch vụ ưu đãi như
trông trẻ, hệ thống trường học có chất lượng cũng là những yếu tố hỗ trợ thiết thực. Nâng
cao phúc lợi xã hội cho gia đình, trẻ em, …Trợ giúp của chính phủ đối với nhu cầu tối
thiểu của các gia đình không chỉ là trợ cấp tài chính trước mắt mà là cả quá trình lâu dài
nhằm đầu tư cho xã hội tương lai.
Qua bài phân tích của mình trên đây, tôi đã chỉ rõ ra những nhân tố tác động tới
Xu hướng kết hôn muộn đang diễn ra và sẽ tiếp tục diễn ra trong thời gian tới ở Việt Nam
để qua đó phác họa lên mối quan hệ tác động lẫn nhau nhiều chiều, giữa các yếu tố dân
số - kinh tế- chính sách với hôn nhân và gia đình, từ đó việc tiếp tục cho phép xu hướng

tuổi kết hôn muộn diễn ra ở Việt Nam tiếp tục trong tương lai hay không? Và cho phép
nó diễn ra như thế nào để đem lại kết quả mong muốn cần có sự tính toán từ Đảng, Nhà
nước, các nhà hoạch định chính sách về kế hoạch hóa gia đình. Việc tổ chức và chỉ đạo
các chiến dịch, các cuộc vận động trong mối quan hệ qua lại và sự thống nhất để ổn định
dân số, qua việc điều tiết các vấn đề, xu hướng hôn nhân như xu hướng tuổi kết hôn
muộn…Cần được chỉ đạo cụ thể đểtạo ra sự chuyển biến tích cực của hôn nhân và gia
đình nâng cao cuộc sống các gia đình dựng nền tảng cho xã hội Việt Nam phát triển.

23
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Lê Ngọc Hùng ,Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB ĐHQGHN
2. Lê Thái Thị Băng Tâm ,Tập bài giảng Xã hội học gia đình.
3. Trương An Quốc, Bài viết: Ổn định việc làm và việc làm ổn định tới các vấn đề xã hội
đăng trên tạp chí Xã hội học.
4. Nguồn: />muon/10793916/114/
5. Nguồn: />dan-so-va-moi-quan-he-voi-hon-nhan-va-gia-dinh-o-nuoc-ta-hien-nay.htm
6. Nguồn: />7. Báo Tin Nhanh Việt Nam: Tinnhanh.com.vn
8. Báo Dân trí: Dantri.com.vn
24

×