Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bình luận (và lấy ví dụ cụ thể cho từng nội dung) về quy tắc xuất xứ hàng hóa của khu vực thương mại tự do asean theo quy định của hiệp định thương mại hàng hóa asean

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.15 KB, 12 trang )

Một hàng hóa muốn được hưởng những ưu đãi thương mại trong khu vực
thương mại tự do ASEAN ( AFTA) thì trước tiên hàng hóa đó phải có xuất xứ
ASEAN. Vì vậy, cần phải đặt ra những tiêu chuẩn để xác định đâu là hàng hóa
có xuất xứ ASEAN. Đây là vấn đề quan trọng và cần thiết nên Hiệp định thương
mại hàng hóa ASEAN năm 2009 (ATIGA) đã dành ra hẳn một chương để quy
định về quy tắc xuất xứ hàng hóa. Để hiểu sâu hơn về những quy định này, dưới
đây là bài bình luận về quy tắc xuất xứ hàng hóa của khu vực thương mại tự do
ASEAN.
I. Quy tắc xuất xứ hàng hóa của khu vực thương mại tự do ASEAN
Quy tắc xuất xứ được quy định tại Chương 3 từ Điều 25 đến Điều 39 Hiệp
định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), theo đó thì hàng hóa có xuất xứ
ASEAN bao gồm hai loại xuất xứ: hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được
sản xuất toàn bội và hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản
xuất toàn bộ.
1. Hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ
Căn cứ vào Điều 27 ATIGA hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản
xuất toàn bộ gồm 4 nhóm:
Nhóm 1: Nhóm hàng hóa là động thực vật sinh trưởng và được thu hoạch ở
quốc gia thành viên:
+ Thực vật và các sản phẩm từ thực vật được trồng và thu hoạch ở
quốc gia thành viên xuất khẩu;
+ Động vật sinh trưởng và được nuôi dưỡng tại quốc gia thành
viên xuất khẩu;
+ Hàng hóa thu được từ săn bắn, bẫy, câu, đánh bắt…tại quốc gia
thành viên xuất khẩu.
Nhóm 2: Nhóm các hàng hóa phi sinh vật được khai thác ở quốc gia thành
viên:
+ Khoáng sản và các sản phẩm tự nhiên khác;
+ Phế thải, phế liệu có nguồn gốc từ quá trình sản xuất của quốc
gia đó;
1


1
+ Phế phẩm thu nhặt được tại quốc gia thành viên được dùng làm
nguyên liệu thô.
Nhóm 3: Nhóm các sản phẩm (bao gồm cả sinh vật và phi sinh vật) được
khai thác, chế biến hoặc đánh bắt từ các vùng biển bằng tàu được đăng ký và
treo cờ của quốc gia thành viên:
+ Được khai thác hoặc đánh bắt trong vùng lãnh hải và đặc quyền
kinh tế của quốc gia thành viên;
+ Được khai thác hoặc đánh bắt trên vùng biển quốc tế;
+ Được khai thác, chế biến hoặc đánh bắt từ đáy biển hoặc đánh
bắt từ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển ngoài lãnh hải quốc gia
thành viên, nơi mà quốc gia đó có quyền khai thác.
Nhóm 4: Nhóm các sản phẩm chế tạo: là các hàng hóa được sản xuất tại
quốc gia xuất khẩu, hoàn toàn bằng các nguyên liệu thuộc các nhóm trên.
Loại hàng hóa này được xác định có xuất xứ ASEAN theo tiêu chí “toàn
bộ”. Tiêu chí “toàn bộ” trong quy tắc xuất xứ của các quốc gia và các liên kết
kinh tế quốc tế, thông thường đều được xác định ở “mức độ tuyệt đối”. Tức là
hàng hóa phải hoàn toàn được sinh trưởng, phát triển và thu hoạch ở nước xuất
xứ hoặc được gia công hoàn toàn bằng các nguyên liệu của nước xuất xứ. Một
thành phần nhỏ nhất của nguyên liệu hoặc bộ phận, phụ tùng không có xuất xứ
của nước xuất khẩu sẽ làm cho sản phẩm hoàn thành liên quan mất đi tính chất
“xuất xứ toàn bộ”.
Như vậy, tất cả các loại hàng hoá này đều là hàng hoá có xuất xứ “100%
ASEAN”. Hàng hóa từ nhóm 1 đến nhóm 3 là hàng hóa có tính chất “xuất xứ
thuần túy”, còn nhóm 4 là hàng hóa được “sản xuất toàn bộ”.
2. Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ
Là những sản phẩm được sản xuất toàn bộ hoặc từ một phần nguyên vật
liệu, bộ phận, phụ tùng nhập khẩu hoặc không rõ xuất xứ (hay còn gọi là nguyên
liệu không xuất xứ). Trong số đó, chỉ những sản phẩm được sản xuất, gia công,
chế biến đạt “mức độ đầy đủ” đó. Theo các quy định pháp luật của ASEAN,

hàng hóa thuộc loại này được coi là có xuất xứ ASEAN khi đáp ứng một trong 3
2
2
tiêu chuẩn: tiêu chuẩn hàm lượng giá trị khu vực, tiêu chuẩn chuyển đổi mã số
hàng hóa hoặc tiêu chuẩn cộng gộp.
*Tiêu chuẩn hàm lượng giá trị khu vực (Regional Value Content – RVC)
Theo quy định tại Điều 28 và 29, hàng hóa được sản xuất tại quốc gia thành
viên và có RVC không dưới 40% thì được coi là có xuất xứ ASEAN.
Có 2 cách tính hàm lượng giá trị ASEAN:
- phương pháp trực tiếp:
RVC=
Chi phí
nguyên vật
liệu ASEAN
+
Chi phí
nhân công
trực tiếp
+
Chi phí
phân bổ
trực tiếp
+
Chi phí
khác
+
Lợi
nhuận
x100%
Trị giá FOB

- phương pháp gián tiếp:
RVC=
Trị giá FOB -
Trị giá của nguyện vật liệu, phụ tùng
hoặc hàng hóa không có xuất xứ
x100%
Trị giá FOB
Trong đó:
- Giá FOB là giá trị của hàng hóa được giao tại boong tàu, bao gồm chi
phí vận tải đến cảng hoặc khu vực giao hàng cuối cùng tại nước ngoài.
- Chi phí phân bổ trực tiếp gồm khấu hao tài sản, thiết bị, tiền sáng chế,
chi phí điện, nước, các khoản trả lãi, thuê mua…
Tuy các quốc gia thành viên ASEAN chỉ được sử dụng một trong hai
phương pháp tính RVC nói trên để xác định xuất xứ của hàng hoá xuất khẩu,
nhưng có thể thấy các quốc gia thành viên đã linh hoạt trong việc thay đổi
phương pháp tính, với điều kiện sự thay đổi đó phải được thông báo cho Hội
đồng AFTA ít nhất là 6 tháng trước khi áp dụng phương pháp mới.
3
3
*Tiêu chuẩn chuyển đổi mã số hàng hóa (Change in Tariff Classification –
CTC)
Theo tiêu chuẩn này, hàng hóa được coi là có xuất xứ ASEAN nếu “tất cả
các nguyên vật liệu không có xuất xứ sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đó đã trải
qua quá trình chuyển đổi mã số hàng hóa (CTC) ở cấp số 4 số của Hệ thống hài
hòa”.
Khác với tiêu chuẩn hàm lượng giá trị khu vực (dùng để xác định tỷ lệ phần
trăm giá trị nội địa so với giá trị nhập khẩu trong tổng giá trị hàng hóa), tiêu chí
này có tính kỹ thuật (về hải quan), được dùng để xác định xem liệu các nguyên
vật liệu dùng để sản xuất ra hàng hóa (chứ không phải bản thân hàng hóa đó)
không có xuất xứ đã được gia công, chế biến ở mức độ “đáng kể” tại quốc gia

thành viên hay chưa.
Về nguyên tắc chung, hoạt động gia công, chế biến được coi là “đáng kể”
khi đã thay đổi thực chất tính chất hoặc đặc tính riêng của nguyên liệu đã sử
dụng. Sự thay đổi đặc tính đó được xác định (một cách kĩ thuật) theo tiêu chí
này là các nguyên vật liệu được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đã được chuyển
đổi mã số hàng hóa trong hệ thống hài hòa.
Hệ thống hài hòa mô tả và mã số hàng hóa thường được gọi tắt là hệ thống
hài hòa hoặc hệ thống HS, là hệ thống tên gọi và mã số hàng hóa được tiêu
chuẩn hóa quốc tế và dùng để phân loại hàng hóa. Tùy vào tên gọi, mô tả về tính
chất, thành phần, cấu tạo, công dụng, quy cách đóng gói và các thuộc tính khác,
mỗi loại hàng hóa sẽ được xác định và sắp xếp vào một mã số nhất định trong hệ
thống hài hòa, trên cơ sở các quy tắc của hệ thống hài hòa đó. Trong mỗi hệ
thống mã số và mô tả hàng hóa, thông thường, mã số ở cấp số 2 là mã hiệu của
loại hàng (đồng thời là mã hiệu của các chương của hệ thống hài hòa), cấp 4 số
là mã hiệu của nhóm hàng, 6 số là mã hiệu của phân nhóm hàng 6 số, 8 số là mã
hiệu của phân nhóm hàng 8 số…
Chuyển đổi mã số hàng hóa ở cấp 4 số (CTC) hay còn gọi là chuyển đổi
nhóm hàng được thể hiện ở việc thành phẩm được sản xuất ra phải có mã số HS
ở cấp 4 số khác với mã số HS (cũng ở cấp 4 số) của tất cả các nguyên liệu đầu
4
4
vào (không có xuất xứ ASEAN) dùng để sản xuất ra sản phẩm đó. Hay nói cách
khác, thành phẩm phải được xếp ở hạng mục cấp 4 số (nhóm hàng) khác với
hạng mục của tất cả nguyên vật liệu nhập khẩu đã sử dụng, điều này có nghĩa là
thành phẩm không nằm trong các nhóm hàng của các nguyên vật liệu nhập khẩu
đã sử dụng.
Trường hợp hàng hóa có tỉ lệ không đáng kể nguyên vật liệu không đáp ứng
được tiêu chí CTC (trường hợp De Minimis) vẫn được coi là hàng hóa có xuất
xứ ASEAN nếu phần trị giá của nguyên vật liệu không có xuất xứ sử dụng để
sản xuất ra hàng hóa không đạt tiêu chí CTC nhỏ hơn hoặc bằng mười phần trăm

(10%) trị giá FOB của hàng hóa đồng thời hàng hóa đó phải đáp ứng tất cả các
quy định khác của Quy tắc xuất xứ hàng hóa ASEAN.
Tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa là tiêu chí hiện đại và khá mới mẻ đối
với Việt Nam và nhiều nước ASEAN nhưng do nó có nhiều ưu điểm nên đã
được ASEAN đưa vào ATIGA 2009. Việc áp dụng tiêu chí này để xác định
hàng hóa có xuất xứ ASEAN sẽ không bị lệ thuộc vào tỉ giá hối đoái, giá nguyên
vật liệu, quy tắc kế toán…như áp dụng tiêu chí hàm lượng giá trị khu vực RVC,
nó chỉ đơn giản là dựa vào sự thay đổi đáng kể (ở cấp 4 số) về mã số HS của sản
phẩm so với mã số HS của nguyên vật liệu được sử dụng để sản xuất ra sản
phẩm đó đồng thời nó cũng tiện lợi cho việc lưu trữ hồ sơ.
*Tiêu chí mặt hàng cụ thể
Ngoài hai tiêu chí chung được áp dụng cho tất cả các loại mặt hàng là tiêu
chí hàm lượng giá trị khu vực RVC và tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa CTC,
khoản 2 Điều 28 ATIGA 2009 còn quy định về quy tắc xuất xứ cụ thể cho một
số mặt hàng nhất định. Những mặt hàng này được liệt kê tại Phụ lục 3 của
ATIGA 2009 (phụ lục về Danh mục các quy tắc xuất xứ mặt hàng cụ thể), kèm
theo mỗi mặt hàng đó sẽ bao gồm quy tắc xuất xứ tương ứng riêng cho mỗi mặt
hàng. Nếu hàng hóa đáp ứng được tiêu chí xuất xứ tương ứng quy định cho mặt
hàng cụ thể đó sẽ được coi là có xuất xứ ASEAN, cho dù có đáp ứng hay không
các tiêu chí RVC và CTC như đã trình bày ở trên.
5
5
Các quy tắc xuất xứ cụ thể cho các loại hàng hóa này cũng được xây dựng
dựa trên các yêu cầu đối với loại hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản
xuất toàn bộ; hoặc trên cơ sở yêu cầu về RVC, hoặc chuyển đổi mã số ở một cấp
độ nào đó của hàng hóa, hoặc yêu cầu hàng hóa phải được gia công, chế biến
một công đoạn nào đó tại quốc gia xuất khẩu (tiêu chí SP); hoặc kết hợp các tiêu
chí nói trên. Tuy nhiên, yêu cầu RVC trong các quy tắc xuất xứ cụ thể của các
mặt hàng này luôn bằng hoặc thấp hơn so với yêu cầu trong tiêu chí RVC chung
(chẳng hạn chỉ yêu cầu RVC không dưới 35%). Yêu cầu chuyển đổi mã số hàng

hóa có thể cao hơn hoặc thấp hơn CTC trong tiêu chí chung (tùy từng mặt hàng,
tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa có thể đòi hỏi chuyển đổi ở cấp 2 số hoặc 4
số hoặc 6 số).
Khi quy tắc xuất xứ cho mặt hàng cụ thể cho phép lựa chọn giữa các tiêu chí
RVC, CTC, SP hoặc kết hợp giữa các tiêu chí nêu trên, mỗi nước thành viên
phải cho phép nhà xuất khẩu hàng hóa quyết định lựa chọn sử dụng tiêu chí nói
trên để xác định đối với xuất xứ hàng hóa.
Riêng đối với hàng dệt may, quy tắc xuất xứ được quy định tại danh mục
đính kèm của Phụ lục 3. Theo danh mục đính kèm này, Quy tắc xuất xứ hàng dệt
may được quy định theo tiêu chí SP (yêu cầu hàng hóa phải trải qua công đoạn
gia công, chế biến nào đó tại nước xuất khẩu. Chẳng hạn, khoản iii Điều 1 quy
định hàng dệt may nếu trải qua công đoạn kéo xơ thành sợi tại nước thành viên
sẽ được coi là có xuất xứ của nước thành viên đó).
3. Đánh giá chung
Kể từ khi ra đời, quy tắc xuất xứ hàng hóa đã có rất nhiều vai trò quan trọng
trong việc xác định hàng hóa nhập khẩu thuộc diện hưởng ưu đãi thương mại,
tránh các biện pháp gian lận như đánh thuế hai lần, áp dụng các biện pháp phi
thuế quan như chống bán phá giá.
Quy tắc này giúp việc dỡ bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với
thương mại hàng hóa nội khối và xây dựng, triển khai các hoạt động, chương
trình thuận lợi hóa thương mại hàng hóa trong khu vực.
6
6
Quy tắc này giúp cho việc xây dựng một thị trường đơn nhất và cơ sở sản
xuất chung. Tạo cho ASEAN một khung pháp lý ổn định và thống nhất giúp cho
việc quản lý việc tự do di chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn, đầu tư và lao động
thuận tiện giữa các nước ASEAN.
II. So sánh quy tắc xuất xứ hàng hóa của khu vực thương mại tự do
ASEAN với khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA)
1. Khái quát quy tắc xuất xứ hàng hoá trong hiệp định AKFTA

Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ hai mà ASEAN đàm phán Hiệp
định thương mại tự do (sau Trung Quốc). Ngày 16 tháng 5 năm 2006,
tại Manila, Phi-líp-pin, các Bộ trưởng Thương mại ASEAN (trừ Thái Lan) và
Hàn Quốc đã ký Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc
(AKFTA). Theo đó, hai bên sẽ cắt giảm thuế đối với 90% các mặt hàng nhập
khẩu vào năm 2010. Hai bên nhận định rằng Hiệp định này sẽ mở rộng cơ hội
buôn bán hàng hóa, thúc đẩy hợp tác thương mại và đầu tư giữa ASEAN và Hàn
Quốc, có lợi cho tất cả các đối tác liên quan. Hiệp định AKFTA đã quy định quy
tắc xuất xứ hàng hóa có những tương đồng với Hiệp định AFTA nhưng cũng có
những khác biệt để phù hợp đặc thù của đối tác với đối tác.
Quy tắc xuất xứ (ROO) quy định chi tiết tiêu chí xuất xứ chung, tiêu chí
xuất xứ riêng đối với sản phẩm cụ thể, tiêu chí xuất xứ một số sản phẩm đặc biệt
và một số quy định khác có liên quan trực tiếp, gián tiếp đến việc xác định xuất
xứ của hàng hóa cũng như quy định về Giấy chứng nhận xuất xứ (được viết tắt
là C/O Mẫu AK) để được hưởng ưu đãi thuế quan AKFTA. Những tiêu chí cơ
bản để xác định xuất xứ bao gồm quy tắc Xuất xứ thuần túy (WO), Xuất xứ
thuần túy từ bất kì một nước AKFTA nào (WOA), Chuyển đổi dòng thuế (CTC)
và tiêu chí Hàm lượng giá trị khu vực (RVC).
2. Nội dung so sánh quy tắc xuất xứ hàng hóa của khu vực thương mại tự
do ASEAN với AKFTA
Mỗi hiệp định FTA đều có quy tắc xuất xứ riêng để bảo đảm hàng hóa nếu
đáp ứng các quy tắc xuất xứ sẽ được hưởng các ưu đãi thuế quan của các nước
thành viên dành cho. Trong các hiệp định FTA của các nước ASEAN, về cơ
7
7
bản, các quy tắc xuất xứ trong các hiệp định này đều có cấu trúc tương đối giống
nhau. Cơ sở cho việc thực hiện Hiệp định thương mại hàng hóa trong khu vực
AKFTA là quy tắc xuất xứ (ROO) được quy định tại phụ lục 3 của Hiệp định.
Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định AKFTA (ROO-AK) được xây dựng dựa trên
nền tảng của Hiệp định AFTA (ROO-AF). Do vậy, quy tắc xuất xứ trong Hiệp

định AKFTA có nhiều điểm tương đồng với quy tắc xuất xứ trong Hiệp định
AFTA .
a. Giống nhau
Về tiêu chí xuất xứ chung thì đây là điểm có tính ảnh hưởng quan trọng đến
việc xác định xuất xứ của từng sản phẩm là tiêu chí xuất xứ chung. Quy tắc xuất
xứ trong khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc tập trung vào tiêu chí
hàm lượng giá trị khu vực (RVC) và chuyển đổi mã số hàng hoá (CTC). Quy
định về chuyển đổi mã số hàng hoá của AKFTA được xây dựng chủ yếu dựa
trên quy định về chuyển đổi mã số hàng hoá của AFTA (quy định tại ATIGA).
Trong các hiệp định ATIGA, AKFTA đều có tiêu chí xuất xứ chung là chuyển
đổi mã số hàng hóa ở cấp 4 số (CTH) hoặc hàm lượng giá trị khu vực 40%
(RVC (40)).
b. Khác nhau
Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định AKFTA (ROO-AK) được xây dựng dựa
trên nền tảng của Hiệp định AFTA (ROO-AF). Do vậy, quy tắc xuất xứ trong
Hiệp định AKFTA có nhiều điểm tương đồng với quy tắc xuất xứ trong Hiệp
định AFTA như đã trình bày. Tuy nhiên, do trên tốc độ phát triển nền kinh tế,
đặc điểm các ngành công nghiệp và mức độ tự do hóa thương mại trong những
năm gần đây của các nước ASEAN và đặc biệt là của Hàn Quốc nên quy tắc
xuất xứ trong Hiệp định AKFTA có một số điểm khác biệt so với quy tắc xuất
xứ trong Hiệp định AFTA. Bên cạnh đó, kỹ thuật lập pháp cũng như việc tham
khảo thêm các quy tắc xuất xứ trong các hiệp định FTA trên thế giới cũng là
những lý do tạo ra những khác biệt này.
Thứ nhất, ROO-AK đã đưa ra thêm một số định nghĩa mới trong phần giải
thích thuật ngữ so với ROO-AF. Điều này khiến cho việc áp dụng ROO chính
8
8
xác hơn, cũng như tránh được việc lạm dụng các cách hiểu khác nhau để cố tình
vi phạm ROO trong một số trường hợp có thể xảy ra. Các định nghĩa mới được
đưa ra bao gồm định nghĩa về hệ thống mã hài hòa HS, hàng hóa không có xuất

xứ, hưởng ưu đãi thuế quan, quy tắc cụ thể cho mặt hàng (PSR), nước thứ ba,
quyền khai thác, luật quốc tế, giản đơn, trộn đơn giản, phản ứng hóa học và giết
mổ động vật.
Thứ hai, về hàng hóa có xuất xứ thuần túy, hiệp định thương mại tự do
ASEAN – Hàn Quốc có đưa ra thêm một số trường hợp có xuất xứ thuần túy
như sản phẩm thu được ngoài không gian vũ trụ bởi một bên hoặc bởi người của
bên đó tham gia Hiệp định. Đây là quy định đã được phổ biến của một số hiệp
định thương mại tự do trên thế giới tuy nhiên nó còn tương đối mới mẻ đối với
các nước ASEAN.
Thứ ba, đối với hàng hóa có xuất xứ không thuần túy. Trong hiệp định
thương mại hàng hóa của ASEAN thì hàm lượng giá trị khu vực (RVC) không
nhỏ hơn 40% tính theo trị giá FOB. Còn trong khu vực thương mại tự do
ASEAN – Hàn Quốc là “RVC của khu vực AKFTA không nhỏ hơn 40% tính
theo trị giá FOB hoặc có sự chuyển đổi mã HS ở cấp độ 4 số (CTH)”. Ta thấy
quy định trong hiệp đinh thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc linh hoạt hơn
so với quy định của hiệp định thương mại hang hóa ASEAN ( ATIGA) bởi lẽ nó
cho phép nhà xuất khẩu nhà sản xuất có điều kiện lựa chọn một trong hai tiêu
chí nói trên để xin cấp Giấy chứng nhận xuất xứ trong khi đó ở hiệp định thương
mại hàng hóa của ASEAN, người xuất khẩu, người sản xuất chỉ được phép áp
dụng quy tắc chung là RVC 40% và hàng hóa sẽ dễ dàng có điều kiện để đạt
được xuất xứ khu vực AKFTA.
Thứ tư, về công thức tính RVC trong khu vực thương mại tự do ASEAN –
Hàn Quốc sử dụng phương pháp “build-up” và “build –down”. Còn hiệp định
thương mại hàng hóa của ASEAN sử dụng các phương pháp tính trực tiếp hoặc
gián tiếp (“direct method” và “indirect method”). Về phương pháp tính trực tiếp,
công thức này hoàn toàn giống với phương pháp build-up, chỉ khác ở phần hình
9
9
thức thể hiện công thức. Tuy nhiên, công thức build-down lại tương đối khác
biệt với công thức gián tiếp của ASEAN.

+ Công thức gián tiếp:
RVC
=
Giá trị nguyên phụ liệu
nhập khẩu từ nước không
phải là thành viên
+
Giá trị nguyên phụ liệu có
xuất xứ không xác định
được
x100% ≤60%
Giá FOB của hàng hóa xuất khẩu
+ Công thức Build-Down:
RVC
=
Giá FOB của hàng hóa xuất
khẩu
-
Giá trị nguyên phụ liệu không có
xuất xứ
x100%
Giá FOB của hàng hóa xuất khẩu
Sau khi áp dụng công thức build-down này thì cuối cùng cũng quay trở về
việc tính hàm lượng RVC giống như cách tính của công thức build-up (Giá FOB
của hàng hóa xuất khẩu - Giá trị nguyên phụ liệu không có xuất xứ = Giá trị của
nguyên liệu có xuất xứ và từ đó tính ra được RVC). Còn cách tính gián tiếp của
ASEAN lại không thể quay trở về việc xác định hàm lượng RVC một cách trực
tiếp mà phải xác định hàm lượng không có giá trị khu vực và hàm lượng này
phải nhỏ hơn 60% theo như quy định của ROO-AF.
Thứ năm, về các công đoạn gia công: hiệp định thương mại hàng hóa

ASEAN không đưa ra các quy định về các công đoạn gia công chế biến giản đơn
nhưng hiệp định thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc thì lại đưa ra một danh
mục chi tiết về những hoạt động này. Các công đoạn đó bao gồm: các hoạt động
bảo quản hàng hóa nhằm đảm bảo duy trì hàng hóa trong điều kiện tốt trong khi
vận chuyển và lưu trữ; thay đổi bao bì; tháo ra hoặc đóng gói hàng; lau rửa đơn
10
10
giản, tẩy bụi, tẩy ô xít, dầu mỡ, sơn hoặc các chất phủ khác; sơn đơn giản hoặc
đánh bóng, v.v… Trong quá trình sản xuất hàng hóa, những công đoạn này sẽ
không được xét đến trong việc xác định xuất xứ hàng hóa, kể cả việc những
công đoạn này có dẫn tới việc chuyển đổi mã số HS hay chiếm tới 40% giá trị
gia tăng.
Trong khi các Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc quy định cụ
thể từng hành vi được coi là gia công đơn giản, Hiệp định ATIGA lại quy định
các công đoạn gia công đơn giản theo hướng quy định các nguyên tắc, chẳng
hạn như những công đoạn thuộc diện bảo quản hàng hóa trong quá trình vận
chuyển, bốc dỡ hàng, xếp hàng, đóng gói hàng hóa. Việc quy định mang tính
chung nhất này có thể đảm bảo mọi hành vi liên quan nếu có những đặc điểm
chung như quy định sẽ được loại trừ, trong khi việc quy định cụ thể hiệp định
có thể dẫn tới việc bỏ sót những hành vi sẽ phát sinh trên thực tế sau này.
Ngoài ra, Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc có thêm một
quy tắc mới mà hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN không có đó là quy tắc
“De-minimis”. Quy tắc này được áp dụng cho mọi hàng hóa áp dụng tiêu chí
xuất xứ chuyển đổi mã số HS (CTC) trong ROO-AK. Theo đó, một sản phẩm
không đạt được sự chuyển đổi mã số HS (ví dụ như có sự trùng mã HS giữa
nguyên liệu không có xuất xứ và sản phẩm) sẽ vẫn được coi là có xuất xứ nếu
giá trị của tất cả các nguyên vật liệu không có xuất xứ dùng để sản xuất ra sản
phẩm đó (chỉ những nguyên liệu không có xuất xứ mà không đạt được tiêu chí
chuyển đổi mã số HS như quy tắc yêu cầu) không vượt quá 10 % của tổng giá trị
hàng hoá đó tính theo giá FOB. Đối với hàng dệt may từ chương 50 đến chương

63, ngưỡng tối đa cho nguyên vật liệu phi xuất xứ cũng là 10% nhưng tính theo
trọng lượng sản phẩm". Ngưỡng 10% được gọi là ngưỡng De-minimis. Quy
định này được các nước tham gia đàm phán đưa vào nhằm làm giảm bớt sự khó
khăn cho việc đạt tiêu chí xuất xứ, hoặc để giải quyết khi hàng hóa có “sự cố”
không đạt được xuất xứ ví dụ như khi hàng hóa mà chỉ trùng mã HS với nguyên
liệu không có xuất xứ ở một tỉ lệ rất nhỏ. Việc giải quyết này sẽ khiến cho nhà
sản xuất cảm thấy được đối xử một cách công bằng hơn bởi không chỉ vì bị
11
11
trùng mã HS một phần trăm rất nhỏ nào đó mà hàng hóa của họ lại không được
công nhận xuất xứ.
3. Đánh giá chung
Như vậy, có thể nói mặc dù việc xây dựng và đàm phán các quy tắc của
ROO-AK ban đầu dựa trên các quy tắc của ROO-AF nhưng nó sau này nó lại tỏ
ra là một bộ quy tắc hoàn thiện hơn so với ROO-AF. Các quy định trong ROO-
AK được đàm phán rất chi tiết và dễ áp dụng, phù hợp các thông lệ và các quy
tắc xuất xứ trong các Hiệp định FTA trên thế giới. Việc hài hòa hóa này nhằm
tạo thuận lợi cho việc áp dụng của nhà xuất khẩu, nhà sản xuất cũng như người
cấp dễ dàng, tránh nhầm lẫn khi các FTA được ký kết ngày càng trở lên nhiều
hơn. Bên cạnh đó, cùng với việc kỹ năng đàm phán, nghiên cứu cùng với sự
phát triển của thương mại trong khu vực cũng như các điều kiện mới phát sinh
cũng đòi hỏi các ROO phải được sửa đổi cho phù hợp hơn.
Việc xây dựng hiệp định toàn diện về thương mại hàng hoá cũng nhằm thực
hiện mục tiêu chung của Cộng đồng kinh tế ASEAN mà trong đó quy tắc xuất
xứ hàng hóa được xác định là một trong những yếu tố quan trọng cơ bản, với
mục tiêu dỡ bỏ các rào cản để tạo điều kiện thuận lợi về lưu chuyển hàng hoá
trong nội khối ASEAN, giúp các nước giao tiếp thương mại dễ dàng trong phạm
vi khu vực và tăng cường khả năng phát triển kinh tế.
12
12

×