Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

quy chế pháp lý về vốn và chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.31 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA LUẬT
Bộ môn: Luật Kinh Tế

Đề tài tiểu luận:
QUY CHẾ PHÁP LÝ
VỀ VỐN VÀ CHUYỂN NHƯỢNG VỐN
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN


GIẢNG VIÊN: TS. LÊ VĂN HƯNG
LỚP: ĐÊM 12 – CAO HỌC K23
DANH SÁCH NHÓM:
1. Trần Tuấn Anh
2. Đỗ Thị Hồng Hạnh
3. Nguyễn Sơn Tùng
4. Trần Thị Ngọc Tú
5. Nguyễn Thị Thanh Vân
6. Nguyễn Trần Ngọc Yến

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2014
1
PHẦN 1: NỀN TẢNG LUẬT VỀ QUY CHẾ VỐN VÀ CHUYỂN NHƯỢNG
VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm
Pháp luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về công ty cổ phần
mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết công ty như sau:
Khoản 1 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Công ty cổ phần là doanh nghiệp,
trong đó:
a. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần


b. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa;
c. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.”
Công ty cổ phần được định nghĩa là một tổ chức thành lập theo pháp luật trong đó vốn
được chia làm nhiều phần bằng nhau, người sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của
công ty cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông có thể là cá nhân hay tổ chức và chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số
vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần mang bản chất là công ty đối vốn quy tụ các
cổ đông có thể là những người không quen biết nhau, tối thiểu phải là ba nhưng không hạn
chế số lượng tối đa.
Những định nghĩa về công ty cổ phần mặc dù có nhiều nội dung cụ thể khác nhau song
đều chứa đựng những điểm cơ bản giống nhau phản ánh bản chất của công ty cổ phần như:
là loại hình công ty đối vốn điển hình, cấu trúc vốn và cơ cấu thành viên có khả năng xã
hội hóa cao, việc tổ chức hoạt động cũng như quyền lợi , trách nhiệm của thành viên đều
được giải quyết chủ yếu dựa trên cơ sở nguyên tắc đối vốn.
2. Đặc điểm
- Về cấu trúc vốn và tài chính:
Công ty cổ phần có cấu trúc vốn linh hoạt. một doanh nghiệp không thể hoạt động nếu
không có vốn. Với đặc trưng là công ty đối vốn thì vấn đề vốn trong công ty cổ phần lại
2
càng quan trọng hơn. Có thế nói cấu trúc vốn trong công ty cổ phần khá đa dạng và giữ vai
trò quan trọng hơn cả vốn điều lệ. Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá của công ty cổ phần và
được phản ánh trong cổ phiếu. Tư cách cổ đông của công ty được xác định dựa trên căn cứ
quyền sở hữu cổ phần.
- Về thành viên trong công ty
Đặc điểm thành viên công ty là hệ quả của đặc điểm cấu trúc vốn. Với căn cứ xác lập tư

cách cổ đông là quyền sở hữu cổ phần, trong khi mua cổ phần có thể được chào bán rộng
rãi cho các đối tượng khác nhau, cổ đông của công ty cổ phần thường rất lớn về số lượng và
các thành viên không quen biết nhau. Chính vì thế việc không quy định số lượng thành viên
tối đa trở thành thông lệ Quốc tế. Nghị định 102/2010/NĐ- CP quy định công ty cổ phần
phải có tối thiểu là ba thành viên khi thành lập công ty.
- Về tư cách pháp lí
Khoản 2 điều 77 luật doanh nghiệp 2005 quy định:
“ Công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh kể từ ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.”
Pháp luật các nước đều xác định một cách cụ thể về các quyền và nghĩa vụ pháp lí của
Công ty cổ phần với tư cách là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư cách chủ thế riêng,
tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong công ty. Trong quá trình hoạt động, công
ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của mình, với tư cách chủ thể
là pháp nhân thông qua người đại diện của mình theo quy định của pháp luật. Công ty có thể
trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn khi tranh tụng tại tòa.
- Về chế độ trách nhiệm
Công ty cổ phần chịu trách nhiệm một cách độc lập về các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi tài sản của mình và các cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn
trong số vốn họ đã góp vào công ty. Đặc điểm này cho phép người ta mạnh dạn đầu tư vào
công ty mà không phải chịu rủi ro đối với tài sản cá nhân trong trường hợp công ty phá sản
vì cổ đông không bao giờ bị mất nhiều hơn so với số vốn đã bỏ ra đầu tư vào công ty cổ
phần. Cũng chính lợi thế này mà các công ty cổ phần có khả năng huy động rất lớn các
nguồn vốn đầu tư của xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Về quyền phát hành cổ phiếu, trái phiếu
3
Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có thể phát hành chứng khoán gồm cổ phiếu
và trái phiếu ra thị trường theo quy định của pháp luật để huy động vốn.
- Về tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp
Việc chuyển nhượng các phần vốn góp của cổ đông được thực hiện tự do. Hầu hết pháp
luật các nước trên thế giới đều cho phép chuyển nhượng một cách dễ dàng và tự do các

loại cổ phiếu do công ty phát hành. Các Cổ phiếu này thực chất là một loại hàng hóa đặc
biệt nên các cổ đông khi sở hữu cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng, hơn nữa trách nhiệm
của cổ đông chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu nên họ muốn bán cổ
phần đều được thực hiện dễ dàng theo quy định của pháp luật. Chính đặc điểm này đã thu
hút các nhà đầu tư vì với cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ đông có thể chuyển nhượng
cổ phần cho nhà đầu tư khác bất cứ lúc nào, họ được quyền rời bỏ công ty khi họ muốn.
II. QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ VỐN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần:
Vốn của doanh nghiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc
quyền sở hữu hoặc sử dụng của hợp pháp của doanh nghiệp, được doanh nghiệp sử dụng
trong kinh doanh. Có thể nói vốn là nhân tố cơ bản không thể thiếu của tất cả các doanh
nghiệp. Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, để tiến hành các hoạt động kinh doanh,
công ty cổ phần phải có vốn. Là loại hình công ty đối vốn điển hình nên vấn đề vốn của
công ty cổ phần là vấn đề hết sức phức tạp.
Cấu trúc vốn của một doanh nghiệp nói chung và của công ty cổ phần nói riêng là một
chỉnh thể bao gồm các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cấu
trúc vốn được pháp luật quy định là một trong những đặc điểm tạo lên bản chất pháp lí của
nó.
Vốn của công ty cổ phần có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ, dựa trên những tiêu chí
khác nhau. Ngoài vốn điều lệ là số vốn bắt buộc phải có khi thành lập công ty, căn cứ vào
nguồn gốc hình thành vốn, vốn của công ty cổ phần được chia thành: vốn chủ sở hữu (vốn
tự có) và vốn tín dụng (vốn vay).
a. Vốn điều lệ
Những khái niệm vốn điều lệ được giải thích và quy định trong khoản 6 điều 4 luật
doanh nghiệp 2005 như sau:“Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc
cam kết góp trong thời hạn nhất định và được ghi vào điều lệ công ty”.Luật doanh nghiệp
4
2005 hiện nay cũng không quy định mức vốn điều lệ tối thiểu trong doanh nghiệp trừ ngành
nghề như tài chính, ngân hàng…
Vốn điều lệ được quy định cụ thể hơn tại điều 6 Nghị định 102/2010/NĐ-CP:“ Vốn điều

lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh giá số cổ phần đã phát hành. Số cổ phần đã
phát hành là số cổ phần mà các cổ đông đã thanh toán đủ cho công ty. Tại thời điểm đăng
ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp, vốn điều lệ của công ty cổ phần là tổng giá trị mệnh
giá các cổ phần do các cổ đông sáng lập và các cổ đông phổ thông khác đã đăng ký mua và
được ghi trong Điều lệ công ty; số cổ phần này phải được thanh toán đủ trong thời hạn 90
ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.”
Vốn điều lệ là số vốn phải có khi thành lập công ty. Trong một số ngành nghề có quy
định số vốn pháp định thì vốn điều lệ của công ty không được thấp hơn vốn pháp định. Điều
84 Luật Doanh nghiệp qui định: “Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất
20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã
đăng ký mua trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh”.Vốn điều lệ có một phần cổ phần ưu đãi. Đối tượng được mua cổ phần
ưu đãi do pháp luật, điều lệ công ty hay do đại hội đồng cổ đông biểu quyết.
b. Vốn chủ sở hữu
Là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn đóng góp của cổ
đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty. Vốn chủ sở hữu bao
gồm: vốn kinh doanh (vốn góp và lợi nhuận chưa chia), chênh lệch đánh giá lại tài sản, các
quỹ của doanh nghiệp như: quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi, Ngoài
ra, vốn chủ sở hữu còn gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp (kinh phí do
ngân sách Nhà nước cấp phát không hoàn lại )
Vốn chủ sở hữu là chỉ số phản ánh khả năng tài chính thực sự của công ty cổ phần. Vốn
chủ sở hữu được hình thành từ nguồn đóng góp của cổ đông. Bộ phận chủ yếu trong vốn
chủ sở hữu là vốn điều lệ. Khác với vốn điều lệ trong công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn điều
lệ của công ty cổ phần bắt buộc phải chia ra thành nhiều phần nhỏ có giá trị bằng nhau gọi
là cổ phần.
Một đặc điểm quan trọng trong cấu trúc vốn của công ty cổ phần là vốn điều lệ của công
ty bao gồm nhiều loại cổ phần với tính chất pháp lí khác nhau. Theo quy định của luật
doanh nghiệp 2005, có hai loại cổ phần cơ bản là cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi.
Cổ phần phổ thông là loại cổ phần nền tảng của công ty cổ phần. Cổ phần phổ thông tạo
cho người sở hữu quyền và lợi ích cơ bản khi đầu tư vào công ty cổ phần. Cổ phần phổ

5
thông không thể chuyển thành cổ phần ưu đãi. Khoản 1 điều 78 LDN 2005 có quy định cổ
phần phổ thông là cổ phần bắt buộc có khi thành lập công ty cổ phần. Cổ phần phổ thông có
hai loại: cổ phần phổ thông của cổ đông phổ thông và cổ phần phổ thông của cổ đông sáng
lập.
Cổ phần của cổ đông phổ thông là loại cổ phần thông dụng nhất. Người sở hữu cổ phần
phổ thông được hưởng đầy đủ quyền và lợi ích của một cổ đông, được quy định tại điều 79
Luật Doanh nghiệp 2005. Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập được quy định tại khoản
1 điều 84 Luật Doanh nghiệp 2005.
Ngoài cổ phần phổ thông bắt buộc, công ty cổ phần còn phát hành cổ phần ưu đãi nhằm
thiết lập cơ cấu vốn linh hoạt phù hợp với nhu cầu phát triển của công ty cổ phần. Cổ phần
ưu đãi gồm các loại cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn
lại và các cổ phần ưu đãi đặc biệt khác do điều lệ công ty quy định.Có thể thấy, với cấu trúc
vốn điều lệ có thể bao gồm nhiều loại cổ phần với tính chất đa dạng, công ty cổ phần thiết
lập cơ chế vốn linh hoạt là cơ sở quan trọng để hình thành thị trường vốn mà đỉnh cao là thị
trường chứng khoán.
c. Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác nhau:
vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân khác hoặc vay bằng cách phát hành trái phiếu.
Theo lí thuyết thì trong các nguồn vốn vay của công ty cổ phần , nguồn vốn vay bằng
phát hành trái phiếu có vị trí quan trọng và thể hiện rõ ưu thế của công ty cổ phần so với
nhiều loại hình doanh nghiệp khác. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, công ty cổ
phần có thể tạo lập cơ cấu vốn vay linh hoạt với các khoản vay có tính chất pháp lý khác
nhau bằng việc phát hành các loại trái phiếu.
Theo khoản 3 điều 6 Luật chứng khoán năm 2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu với một phần vốn nợ của tổ chức phát
hành”. Mệnh giá trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu khi phát hành. Trái phiếu có mệnh
giá là 100.000 đồng Việt Nam và bội số của 100.000 đồng Việt nam.Điều quan trọng là
công ty cổ phần phải có một tỉ lệ vốn vay trên vốn cổ phần hợp lí để phản ánh thế mạnh tài
chính của công ty, vừa tạo niềm tin cho các đối tác của mình.
2. Quy trình góp vốn

Khoản 4 điều 4 luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào công
ty để trờ thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể
là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền
6
sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ công ty do
thành viên góp để tạo thành vốn của công ty.”
Góp vốn là việc thành viên công ty chuyển tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu
hoặc các đồng sở hữu công ty. Trên thực tế, việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp
khác nhau sẽ tạo nên quy chế pháp lý khác nhau đối với người góp vốn. Với vai trò là đạo
luật ghi nhận các mô hình kinh doanh, việc tạo lập nên sự phong phú của các mô hình là
một điều cần thiết cho các lựa chọn khởi nghiệp. Trong một chừng mực nào đó, Luật Doanh
nghiệp 2005 đã thành công trong việc đa dạng hoá các lựa chọn này.
a. Tài sản góp vốn: Tiền hoặc hiện vật. Hiện vật theo nghĩa rộng nhất, là tài sản hữu
hình hoặc vô hình mà không phải là tiền, có thể kể ra đây: vàng, máy móc, thiết bị,
nhà xưởng, quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, các yếu tố vô hình của sản
nghiệp thương mại (biển hiệu, tên thương mại, mạng lưới tiêu thụ hàng hoá, ).
- Định giá tài sản góp vốn: Luật quyết định rằng những tài sản mà không phải là tiền
Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi và vàng thì phải được định giá. Theo điều 30 Luật
doanh nghiệp 2005: “Điều 30. Định giá tài sản góp vốn
1. Tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải
được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá.
2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông sáng
lập định giá theo nguyên tắc nhất trí; nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá
trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập liên đới chịu trách
nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa
giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá.
3. Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do doanh nghiệp và người góp vốn thoả
thuận định giá hoặc do một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức
định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn và
doanh nghiệp chấp thuận; nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời

điểm góp vốn thì người góp vốn hoặc tổ chức định giá và người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp cùng liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn
tại thời điểm kết thúc định giá”.
- Phương thức định giá.
7
Định giá theo thoả thuận giữa các bên: Các bên có thể xác định giá trị của tài sản góp
vốn bằng con số cụ thể, ví dụ: 1 triệu đồng, 2 triệu đồng,…. Hoặc xác định công thức tính
giá trị bằng các tham số có tác dụng làm cho giá trị của tài sản trở nên chắc chắn xác định
được tại thời điểm góp vốn. Giá trị của tài sản phải được thông qua bằng nguyên tắc nhất trí.
Tài sản góp vốn cũng có thể được định giá bởi một người thứ ba do các bên nhất trí chỉ
định.
Định giá bởi một người thứ ba.:Người thứ ba thông thường là các tổ chức định giá tài
sản chuyên nghiệp (các công ty tài chính, ngân hàng…), được các bên uỷ quyền để định giá.
Người thứ ba phải thực hiện công việc một cách độc lập, không chịu sự chi phối của bất kỳ
bên góp vốn nào trong việc định giá.
b. Chuyển quyền sở hữu tài sản đối với tài sản góp vốn cho công ty
- Chuyển giao pháp lý: Luật Doanh Nghiệp 2005 quy định rằng đối với các tài sản
phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng (đối với quyền sử dụng đất), thì người góp
vốn phải làm các thủ tục chuyển quyền. Điều luật dường như chỉ muốn nhấn mạnh tới nghĩa
vụ tiến hành các thủ tục sang tên của người góp vốn. Thực ra, việc xác định người có nghĩa
vụ làm các thủ tục đồng nghĩa với việc xác định ai phải thực hiện các nghĩa vụ về tài chính
(thường là lệ phí trước bạ) trong quá trình thực hiện thủ tục sang tên. Thông thường, người
nhận tài sản chuyển nhượng là người phải nộp lệ phí trước bạ. Tuy nhiên, luật cũng không
ngăn cấm việc các bên tự thoả thuận ngược lại. Hơn nữa, tại đoạn cuối của khoản 1a, điều
luật đã dẫn, quy định rằng việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải
chịu lệ phí trước bạ.
Thế nhưng, đối với việc chuyển giao quyền sở hữu, vấn đề quan trọng đặt ra là thời điểm
chuyển giao quyền chứ không phải ai là người thực hiện các thủ tục. Bởi thời điểm chuyển
giao quyền liên quan tới thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản.

Hợp đồng góp vốn vào công ty cổ phần và hợp đồng mua bán đều là các hợp đồng có tác
dụng chuyển quyền sở hữu một tài sản (tài sản góp vốn; tài sản bán) và xác lập quyền sở
hữu đối với một tài sản khác (Phần Vốn Góp – trong hợp đồng góp vốn; tiền – trong hợp
đồng mua bán). Bởi vậy, ta nói rằng, giống như hợp đồng mua bán, hợp đồng góp vốn vào
công ty là một hợp đồng chuyển nhượng tài sản có đền bù. Một cách hợp lý, ta có thể áp
dụng các quy định về thời điểm chuyển quyền sở hữu và chịu rủi ro đối với tài sản của hợp
đồng mua bán cho trường hợp góp vốn vào công ty.
8
Trường hợp tài sản thuộc loại phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng (đối với
quyền sử dụng đất), thì quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với tài sản góp vốn được
chuyển giao cho công ty kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng đối với tài sản đó.Việc giao và nhận tài sản góp vốn có thể thực hiện trước
hoặc sau khi hoàn tất thủ tục sang tên, tuỳ thuộc sự thoả thuận giữa các bên. Tuy nhiên,
trong mọi trường hợp, công ty chỉ trở thành chủ sở hữu đối với tài sản góp vốn (hoặc người
sử dụng đất) kể từ ngày giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng được cấp.
- Chuyển giao vật chất: Đối với tài sản thuộc loại không phải đăng ký quyền sở hữu,
nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu được thực hiện bằng cách giao tài sản. Nghĩa vụ giao tài sản
được coi là hoàn thành khi tài sản được giao đúng tình trạng, đúng số lượng như đã thoả
thuận trong hợp đồng góp vốn và tài sản ở trong tư thế hoàn toàn sẵn sàng để người nhận
chiếm hữu. Việc giao và nhận phải được xác nhận bằng văn bản.
Như vậy, với quy định chuyển quyền sở hữu, tài sản đem góp vốn chính thức ra đi khỏi
tài sản của người góp vốn và gia nhập vào tài sản của công ty nhận vốn góp. Với tư cách là
chủ sở hữu, công ty có quyền khai thác công dụng và định đoạt đối với tài sản đó. Dưới con
mắt của các chủ nợ của công ty, các tài sản đó có thể bị kê biên để đảm bảo cho việc thực
hiện các nghĩa vụ của công ty đối với họ.Ta đã thừa nhận rằng, tài sản không còn thuộc về
sản nghiệp của người góp vốn nữa một khi mang đi góp vốn vào công ty có tư cách pháp
nhân.
3. Huy động vốn
Công ty cổ phần thông thường có hai cách để huy động vốn là tăng vốn chủ sở hữu và
tăng vốn vay. Công ty cổ phần khẳng định sự thuận lợi và lí tưởng hơn trong mô hình kinh

doanh của mình bằng quyền phát hành chứng khoán được quy định trong khoản 3 điều 77
LDN 2005: “Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”.
Như vậy, trên thực tế, công ty cổ phần có thể có nhiều cách huy động vốn khác như vay của
cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, nhưng nổi bật và thể hiện được sức mạnh độc quyền
của công ty cổ phần là cách thức huy động vốn phát hành chứng khoán. Từ định nghĩa tại
khoản 2 và khoản 3 điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 cho thấy chứng khoán rất đa dạng
và công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn. Tuy nhiên
trong LDN 2005 hiện nay chỉ mới đề cập đến hai loại chứng khoán mà công ty cổ phần
được phép phát hành là cổ phiếu và trái phiếu.
• Phát hành cổ phiếu
9
Những quy định pháp lí cụ thể về việc phát hành cổ phiếu của công ty cổ phần được
quy định chi tiết tại điều 87 Luật doanh nghiệp 2005. Thực chất việc phát hành cổ phiếu là
việc công ty chào bán cổ phần để huy động vốn mà kết quả là vốn điều lệ tăng và có thể kéo
theo cơ cấu tổ chức thay đổi. Do vậy, việc phát hành cổ phiếu phải tuân thủ điều kiện và thủ
tục nghiêm ngặt để bảo vệ lợi ích cho cổ đông. Phát hành cổ phiếu là một trong những
quyền năng đặc biệt của công ty cổ phần mà không một loại hình doanh nghiệp nào có. Phát
hành cổ phiếu có nghĩa là bán đi một quyền sở hữu công ty cho người mua cổ phiếu. Các cổ
đông nắm giữ quyền sở hữu công ty tùy theo tỷ lệ vốn góp của họ trên vốn điều lệ. Khi có
cổ phần mới được bán thì một phần quyền sở hữu của cổ đông sẽ bị giảm sút. Do vậy, việc
quyết định số lượng cổ phiếu, loại cổ phiếu phát hành cũng như phương thức phát hành cần
phải tuân thủ nhưng điều kiện chặt chẽ theo pháp luật về việc đăng kí chào bán cổ phần
riêng lẻ, hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ khi tăng vốn, chào bán cổ phần ra công chúng:
chào bán lần đầu, điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng.
• Phát hành trái phiếu
Những thủ tục phát hành trái phiếu được Luật doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể tại
điều 88 .
Trái phiếu doanh nghiệp là một loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành ghi
nhận nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi của doanh nghiệp phát hành đối với trái phiếu. Người sở
hữu trái phiếu là chủ nợ của công ty. Quan hệ giữa người sở hữu trái phiếu và công ty là

quan hệ chủ nợ và người vay nợ. Khác với hình thức vay nợ khác, trái phiếu có khả năng
trao đổi. Chủ sở hữu trái phiếu có quyền giữ lại hoặc bán đi trên thị trường thứ cấp mà
không cần đến kì hạn thanh toán. Bằng cách đó, trái phiếu tạo cho công ty phát hành có thể
huy động vốn dài hạn và bản thân nhà đầu tư có thể thu hồi vốn bất cứ khi nào cần. Công ty
cổ phần có thể phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu dự phần và trái phiếu có thể thu
hồi.
4. Chào bán, chuyển nhượng và mua lại cổ phần
a. Chào bán và chuyển nhượng cổ phần được quy định cụ thể tại điều 87 LDN
2005
Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán cổ phần trong số
cổ phần được quyền chào bán. Giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại
thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần nhất,
trừ những trường hợp sau đây: Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải
là cổ đông sáng lập, Cổ phần chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ
ở công ty, Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Công ty có thể phát
10
hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán số cổ phần đó cho tất cả cổ đông phổ thông theo
tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty.
Trường hợp công ty phát hàng thêm cổ phần phổ thông và chào bán chúng cho tất cả cổ
đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có:
Công ty phải thông báo bằng văn bản đến tất cả các cổ đông.
Trên thông báo phải ghi đầy đủ: tên, địa chỉ, quốc tịch, số CMND, hộ chiếu nếu là cá
nhân. Nếu là tổ chức thì cũng phải ghi đầy đủ thông tin về tên tổ chức, địa chỉ, quốc tịch, số
quyết định thành lập tổ chức.
Cổ đông có quyền chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của mình cho người khác
Nếu phiếu đăng ký mua không gởi về công ty như thời hạn quy định thì mặc nhiên cổ
đông đó đã không nhận quyền mua cổ phần của mình.
Các cổ phần được chuyển nhượng tự do trừ đó là cổ phần ưu đãi biểu quyết trong 3 năm
đầu thành lập công ty. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng văn bản thông thường
hoặc trao tay cổ phiếu. Bên chuyển nhượng vẫn là chủ sở hữu cổ phần cho đến khi tên của

người nhận chuyển nhượng được ghi vào sổ đăng ký cổ đông.
b. Mua lại cổ phần
- Mua lại cổ phân theo yêu cầu của cổ đông
Khi cổ đông biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi
quyền, nghĩa vụ của cổ đông được quy định tại Điều lệ công ty thì cổ đông đó có quyền yêu
cầu công ty mua lại cổ phần của mình.
Công ty cổ phần phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông quy định tại khoản 1
điều 90 luật doanh nghiệp với giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại
Điều lệ công ty trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp
không thoả thuận được về giá thì cổ đông đó có thể bán cổ phần cho người khác hoặc các
bên có thể yêu cầu một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Công ty giới thiệu ít nhất
ba tổ chức định giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối
cùng.
- Mua lại cổ phần theo quyết định của công ty được quy định cụ thể tại điều 91 Luật
doanh nghiệp năm 2005.
Theo đó, công ty cổ phần có quyền mua lại không quá 30% tổng số cổ phần phổ thông
đã bán, một phần hoặc toàn bộ cổ phần ưu đãi cổ tức đã bán theo quy định sau đây:
11
1) Hội đồng quản trị có quyền quyết định mua lại không quá 10% tổng số cổ phần của
từng loại đã được chào bán trong mỗi mười hai tháng.
2) Hội đồng quản trị quyết định giá mua lại cổ phần. Đối với cổ phần phổ thông, giá
mua lại không được cao hơn giá thị trường tại thời điểm mua lại, trừ trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều này. Đối với cổ phần loại khác, nếu Điều lệ công ty không quy định hoặc
công ty và cổ đông có liên quan không có thoả thuận khác thì giá mua lại không được thấp
hơn giá thị trường;
3) Công ty cổ phần có thể mua lại cổ phần của từng cổ đông tương ứng với tỷ lệ cổ
phần của họ trong công ty. Cổ đông đồng ý bán lại cổ phần phải gửi chào bán cổ phần của
mình bằng phương thức bảo đảm đến được công ty trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày
thông báo. Công ty chỉ mua lại cổ phần được chào bán trong thời hạn nói trên.
III. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN

1. Những hạn chế của Luật Doanh Nghiệp 2005 đối với công ty cổ phần
a. Trách nhiệm về việc định giá sai tài sản góp vốn
Hành vi cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị thực tế là một trong các hành vi
bị cấm được quy định tại Khoản 4 điều 11 Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật Doanh
nghiệp hiện nay không quy định rõ vấn đề trách nhiệm của các chủ thể nếu hành vi cố ý vi
phạm điều cấm này như thế nào, Tại khoản 2 Điều 30 Luật Doanh nghiệp quy định: “Tài
sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông sáng lập định giá
theo nguyên tắc nhất trí; nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại
thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập liên đới chịu trách nhiệm đối với các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và
giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá.”
Như vậy, căn cứ vào Khoản 2 Điều 30 Luật Doanh nghiệp thì các chủ thể cố tình định
giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn phải liên đới chịu trách
nhiệm. Tuy nhiên, các thành viên sẽ chịu trách nhiệm liên đới như thế nào? Trong tình
huống này, có 2 cách hiểu về trách nhiệm liên đới: hoặc trách nhiệm này được chia đều cho
các thành viên đã cố ý định giá sai tài sản góp vốn đó, hoặc trách nhiệm được chia tương
ứng với tỷ lệ vốn góp của mỗi thành viên trong công ty, có nghĩa là sẽ có thành viên chịu
trách nhiệm nhiều hơn, thành viên chịu phần trách nhiệm ít hơn tương ứng với phần giá trị
12
vốn góp họ sở hữu hoặc cam kết góp vào công ty. Do đó, cần làm rõ quy định về phạm vi
trách nhiệm liên đới trong Luật Doanh nghiệp để tiện cho việc áp dụng và nghiên cứu luật
pháp của người dân và các nhà đầu tư, cũng như cán bộ công quyền.
b. Đại hội đồng cổ đông
Liên quan đến triệu tập ĐHĐCĐ, đối với các công ty đại chúng có vài nghìn, thậm chí là
vài triệu cổ đông thì việc triệu tập toàn bộ cổ đông là việc không hề đơn giản. Trước việc số
lượng cổ đông quá lớn như trên, thời gian qua thực tế đã có một số công ty Cổ phần tự đưa
ra quy chế của riêng mình, trong đó quy định chỉ cổ đông sở hữu một số lượng cổ phần nhất
định mới được quyền tham dự ĐHĐCĐ, quy định này là trái với quy định của pháp luật
doanh nghiệp hiện hành, tuy nhiên, đã và đang có những doanh nghiệp áp dụng vì nó phù
hợp với thực tế của doanh nghiệp. Ngược lại, có những doanh nghiệp lớn để đảm bảo thực

hiện đúng yêu cầu pháp luật, hàng năm tổ chức ĐHĐCĐ, công ty vẫn gửi thông báo dự họp
đến tất cả các cổ đông, tuy nhiên, thực tế cũng chứng minh rằng: số cổ đông đến dự họp chỉ
bao gồm các cổ đông lớn, những cổ đông nhỏ lẻ dường như rất ít quan tâm đến cuộc họp
này vì cho rằng lượng cổ phần mình sở hữu không đáng bao nhiêu giá trị trước các quyết
định của ĐHĐCĐ. Xuất phát từ thực tế đó, Luật Doanh nghiệp cần bổ sung cơ chế để đảm
bảo cho việc họp ĐHĐCĐ được thuận lợi hơn. Quy định nhóm các cổ đông riêng lẻ sở hữu
tỷ lệ cổ phần dưới một tỷ lệ nhất định bắt buộc phải ủy quyền dự họp đối với công ty cổ
phần có trên 100 cổ đông cũng là một giải pháp có thể cân nhắc đến.
c. Việc thành lập Ban Kiểm Soát khi công ty cổ phần có cổ đông là một tổ chức.
Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần được quy định tại Điều 95 Luật Doanh nghiệp,
trong đó yêu cầu việc thành lập Ban kiểm soát: “ đối với công ty cổ phần có trên mười một
cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công
ty” Quy định này chưa rõ ràng bởi sẽ có hai cách hiểu: một là, chỉ khi công ty có một cổ
đông là tổ chức nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần của công ty mới cần thành lập Ban kiểm
soát; hai là, gộp tất cả số cổ đông là tổ chức của công ty, nếu nắm trên 50% tổng số cổ phần
của công ty thì khi đó công ty mới cần thành lập Ban kiểm soát.
d. Thiếu quy định cụ thể về giảm vốn điều lệ:
Trong nhiều trường hợp, công ty cổ phần có nhu cầu giảm vốn điều lệ khi họ thay đổi
ngành nghề kinh doanh, tổ chức lại với quy mô giảm so với trước, bị buộc phải huỷ bỏ cổ
phiếu quỹ, kinh doanh thua lỗ và có nhu cầu phát hành cổ phiếu dưới mệnh giá (nhưng
13
không đủ nguồn thặng dư vốn để bù đắp). Tuy vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 và Nghị định
102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2005 đều không có quy định cụ
thể về giảm vốn điều lệ cho công ty cổ phần. Chẳng hạn trường hợp sau một thời gian công
ty hoạt động, các cổ đông không góp đủ số vốn cần thiết để lượng vốn thực góp bằng lượng
vốn điều lệ đã đăng ký. Nghị định 102 chỉ nêu ở khoản 9, Điều 23 rằng sau 3 năm kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu, nếu số cổ phần được quyền
phát hành quy định tại khoản 4, Điều 84 của Luật Doanh nghiệp không được bán hết thì
công ty phải đăng ký điều chỉnh giảm số vốn được quyền phát hành ngang bằng với số cổ
phần đã phát hành mà không hề quy định cụ thể việc giảm vốn điều lệ ấy phải thực hiện như

thế nào.
2. Những rào cản pháp lý về huy động vốn
a. Huy động vốn từ cổ đông nước ngoài
Rào cản pháp lý đầu tiên là định nghĩa về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(DNĐTNN). Theo Luật Đầu tư, DNĐTNN là doanh nghiệp Việt Nam có nhà đầu tư nước
ngoài mua cổ phần. Với quy định như vậy thì chỉ cần bán 1 cổ phần cho nhà đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp Việt Nam đã bị coi là DNĐTNN và ngay lập tức bị hạn chế gia nhập
thị trường theo cam kết WTO, bị giới hạn khi tham gia kinh doanh phân phối sản phẩm.
Thực tế, một doanh nghiệp dược phẩm Việt Nam (Mekophar) đã bị từ chối không được
kinh doanh phân phối dược phẩm chỉ vì có cổ đông nước ngoài đã mua 4% cổ phần.
Mekophar đã kêu cứu khắp nơi nhưng không tìm được giải pháp nên đã phải tính đến việc
hủy niêm yết, loại bỏ cổ đông nước ngoài để có thể kinh doanh phân phối dược phẩm. Quy
định về hạn chế gia nhập thị trường theo cam kết WTO nhằm áp đặt hạn chế đối với nhà đầu
tư nước ngoài để bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam nhưng đã vô tình gây thiệt hại nặng nề cho
doanh nghiệp Việt Nam.
Việc tham gia góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài, dù chỉ là 0,1% cổ phần, kéo theo thủ
tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư phức tạp với thời gian chuẩn bị và xin phép từ 2-3
tháng. Nghị định 102/2010/NĐ-CP (Nghị định 102) của Chính phủ ngày 1-10-2010 khẳng
định doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ dưới 49% cổ phần được áp dụng các
điều kiện đầu tư, kinh doanh như đối với nhà đầu tư trong nước, tức là doanh nghiệp Việt
Nam. Tuy nhiên, dường như quy định này đã không đi vào thực tế. Nếu Nghị định 102 được
14
áp dụng, Mekophar đã không phải xin hủy niêm yết và sẽ không cần phải xin giấy chứng
nhận đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài sở hữu dưới 49% cổ phần.
b. Huy động vốn từ nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã lựa chọn niêm yết trên thị trường chứng khoán để dễ
dàng tiếp cận các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nhà đầu tư nước ngoài lại
không dễ dàng tham gia giao dịch vì yêu cầu phải có mã số giao dịch chứng khoán, mà thực
chất là một loại giấy phép.
Để được cấp mã số này, nhà đầu tư nước ngoài phải chuẩn bị một bộ hồ sơ phức tạp, bao

gồm các giấy tờ pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức và lý lịch tư pháp đối với nhà đầu tư
là cá nhân (tài liệu tiếng Anh phải được hợp pháp hóa lãnh sự và tiếng Việt phải có xác
nhận của công chứng Việt Nam) gửi tới Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam. Thủ tục
này mất 1đến 2 tháng, làm nản lòng nhiều nhà đầu tư nước ngoài có ý định tham gia giao
dịch trên thị trường chứng khoán.
c. Chào bán cổ phần riêng lẻ
Việc chào bán cổ phần riêng lẻ đã được điều chỉnh bằng Nghị định 01/2010/NĐ-CP của
Chính phủ ban hành ngày 4-1-2010 với nhiều quy định khắt khe, bao gồm: (i) mỗi đợt chào
bán riêng lẻ phải cách nhau sáu tháng, (ii) cổ phần mới phát hành bị hạn chế chuyển nhượng
trong thời hạn một năm, (iii) phải đăng ký chào bán riêng lẻ với cơ quan có thẩm quyền.
Nghị định 01 này tước đi quyền được quyết định phát hành cổ phần để kịp thời huy động
vốn do nhu cầu cấp bách. Trong giai đoạn áp dụng chính sách thắt chặt tín dụng hiện nay
với lãi suất ngân hàng cao ngất ngưởng, nhiều doanh nghiệp đã bị cản trở trong việc huy
động vốn từ cổ đông. Thêm vào đó, một số cơ quan đăng ký kinh doanh đã từ chối không
cho đăng ký chào bán riêng lẻ trong một thời gian dài với lý do chờ văn bản hướng dẫn.
Việc này đã làm nhiều doanh nghiệp phải hủy kế hoạch tăng vốn.
Ngoài ra, Luật Chứng khoán sửa đổi đã có hiệu lực kể từ 1-7-2011 với quy định việc
chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty không phải là công ty đại chúng được thực hiện
theo Luật Doanh nghiệp và các quy định có liên quan. Với tinh thần này, các công ty không
phải là công ty đại chúng sẽ không phải tuân theo những quy định khắt khe trong Luật
Chứng khoán và sẽ không phải tuân theo Nghị định 01 nữa. Tuy nhiên, Nghị định 01 vẫn
15
chưa bị hủy bỏ và cũng chưa biết khi nào thì mới có thể áp dụng theo quy định của Luật
Chứng khoán sửa đổi.
d. Vay vốn nước ngoài
Có những doanh nghiệp nặng gánh với lãi suất cao đã tính đến giải pháp đi vay vốn
nước ngoài với lãi suất thấp để trả nợ trước hạn khoản vay trong nước với lãi suất cao. Tuy
nhiên, quy chế quản lý vốn vay nước ngoài yêu cầu mục đích của các khoản vay nước ngoài
là để phục vụ dự án đầu tư đã được phê duyệt. Trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước sẽ không
cho đăng ký khoản vay nước ngoài với mục đích để trả nợ trước hạn cho khoản vay trong

nước vì đây không phải là để thực hiện dự án đầu tư. Trong trường hợp này, luật pháp Việt
Nam đã tước mất một cơ hội cơ cấu lại khoản nợ cho doanh nghiệp Việt Nam.
Việc vay vốn nước ngoài còn gặp khó khăn bởi quy định thế chấp của Luật Đất đai
không cho bên cho vay nước ngoài được nhận thế chấp đối với quyền sử dụng đất và nhà
xưởng. Quy định hạn chế thế chấp này xuất phát từ lo ngại rằng việc thế chấp bất động sản
cho bên cho vay nước ngoài sẽ dẫn đến việc đất đai bị nước ngoài kiểm soát và Nhà nước sẽ
mất quyền quản lý với đất đai. Đúng là có rủi ro nhưng đây là rủi ro có thể kiểm soát để
đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của doanh nghiệp.
Nhà nước hoàn toàn có thể kiểm soát việc thế chấp thông qua (i) cơ chế đăng ký thế
chấp, (ii) yêu cầu việc thế chấp phải thông qua một ngân hàng hoạt động tại Việt Nam, (iii)
khi xử lý tài sản bảo đảm thì phải chuyển nhượng bất động sản cho một pháp nhân hoặc
công dân Việt Nam. Từ năm 2001, Chính phủ đã từng ra nghị quyết về việc nghiên cứu giải
quyết yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài đầu tư dự án lớn ở Việt Nam cần thế chấp giá
trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để vay vốn của các tổ chức tín
dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp các tổ chức tín dụng ở Việt Nam không có
khả năng đáp ứng nhu cầu vốn. Tuy nhiên đến nay, việc thế chấp bất động sản cho bên cho
vay nước ngoài vẫn không được phép.
IV. RỦI RO TRONG VIỆC CHUYỂN NHƯỢNG VỐN TRONG CÔNG TY CỔ
PHẦN
Xu hướng mua bán cổ phần của cổ đông sáng lập trong công ty cổ phần ngày càng hiện
hữu tại nước ta đặc biệt trong hoàn cảnh nền kinh tế hiện nay đang gặp khó khăn và hàng
loạt các doanh nghiệp do thiếu vốn, thiếu nhân lực, kinh nghiệm lâm vào tình trạng phá sản
hoặc bị thôn tính. Chính vì thế đây là cơ hội cho một số nhà đầu tư có tiềm lực mua lại được
16
phần vốn góp hoặc cổ phần tại các doanh nghiệp tiềm năng mà trong điều kiện bình thường
họ khó có thể tiếp cận được.
1. Rủi ro đến từ nội bộ công ty được đầu tư
Thông thường khi bán đi một phần vốn góp/cổ phần của mình tại một doanh nghiệp thì
người chuyển nhượng thường thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người chuyển nhượng muốn có một khoản tiền/lợi ích khác;

- Người chuyển nhượng và những cổ đông/thành viên công ty còn lại có mâu thuẫn
không thể giải quyết;
- Tình hình làm ăn của công ty không tốt, các nhà đầu tư cũ muốn thu hồi vốn.
Khi quyết định nhận chuyển nhượng phần vốn góp hoặc cổ phần từ một chủ thể các nhà
đầu tư mới cần tìm hiểu rõ tình hình của công ty mà mình muốn đầu tư vào vì nếu công ty
đang lâm vào tình trạng khó khăn thì bài toán lợi nhuận sẽ không có kết quả tốt. Do đó việc
tìm hiểu rõ tình hình của công ty sẽ giúp nhà đầu tư mới xác định được giá trị thật của phần
vốn góp, cơ hội sinh lợi và xác định chiến lược kinh doanh.
Bên cạnh đó nếu nội bộ công ty có mâu thuẫn thì việc nhà đầu tư mới vào công ty liệu
có thể khống chế được tình hình hay không cũng là một vấn đề mà người mua phần vốn
góp/cổ phần cần cân nhắc. Vì nếu trường hợp xấu đó là thành viên mới/cổ đông mới không
hòa hợp được với các thành viên/cổ đông khác thì quyền lợi của họ trong công ty cũng rất
dễ ảnh hưởng.
2. Rủi ro đến từ trình tự chuyển nhượng phần vốn góp/cổ phần
Việc chào bán phần vốn góp/cổ phần được quy định tản mạn trong nhiều văn bản (Luật
Doanh nghiệp, nghị định 43/2010/NĐ-CP) và cần phải có cái nhìn tổng hợp về vấn đề để có
thể thực hiện đúng trình tự pháp luật yêu cầu. Nếu không cẩn trọng thì các bên chuyển
nhượng sẽ có thể bỏ qua một hoặc vài bước trong trình tự thủ tục chuyển nhượng phần vốn
góp/cổ phần và điều đó có thể dẫn đến việc hợp đồng chuyển nhượng bị vô hiệu.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp tại điều 44 chuyển nhượng phần vốn góp và điều
84.5 hạn chế chuyển nhượng trong thời hạn 3 năm của cổ đông sáng lập, và nghị định
43/2010 theo các điều 42, 43 thì thủ tục chuyển nhượng phần vốn góp và cổ phần của cổ
đông sáng lập về cơ bản bao gồm các bước như sau:
17
• Thông báo chào bán cho thành viên khác theo tỷ lệ vốn với cùng điều kiện trong thời
hạn 30 ngày mà không có thành viên nào mua (phải có thông báo chào bán phần vốn góp/cổ
phần);
• Tổ chức cuộc họp hội đồng thành viên/Đại hội đồng cổ đông (phải được ghi nhận tại
Biên bản họp hội đồng thành viên chấp thuận về việc chuyển nhượng phần vốn góp/Biên
bản họp đại hội cổ đông chấp thuận chuyển nhượng cổ phần và Quyết định của hội đồng

thành viên/đại hội đồng cổ đông về việc chấp thuận việc chuyển nhượng phần vốn góp/cổ
phần)
• Ký kết Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp/cổ phần giữa thành viên cũ và thành
viên mới, giữa cổ đông cũ và ;
• Thông báo thay đổi đăng ký kinh doanh gửi tới Phòng đăng ký kinh doanh –Sở kế
hoạch và đầu tư;
Như vậy theo quy trình này nhà đầu tư (thành viên nhận chuyển nhượng) cần lưu ý các
vấn đề cụ thể:
• Chào bán cho thành viên trong công ty TNHH hoặc cổ đông sáng lập trong công ty
cổ phần, Luật Doanh nghiệp có quy định tại điều 84 khoản 5 về việc trong thời hạn 3 năm
các cổ đông sáng lập nếu có nhu cầu chuyển nhượng cổ phần thì phải ưu tiên cho nhau kế
tiếp rồi mới đến người ngoài, trong trường hợp chuyển nhượng cho người ngoài phải thông
qua Đại hội cổ đông.
• Họp hội đồng thành viên, đại hội cổ đông. Luật doanh nghiệp 2005 không hướng dẫn
thủ tục cụ thể việc chuyển nhượng phần vốn góp trong doanh nghiệp tuy nhiên đến nghị
định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp
đã cụ thể hóa hồ sơ tại điều số 41 và điều 42. Đại hội cổ đông (ĐHCĐ) được hợp pháp thì
cần tuân thủ triệt để các quy trình về triệu tập, điều kiện thể thức tiến hành và quyết định
của Đại hội cổ đông để sao cho hợp pháp tránh có thể kết quả sau này có thể bị khiếu nại,
kiện tụng dẫn tới có thể bị hủy kết quả do vi phạm về hình thức và quy trình.
Đối với công ty cổ phần, cần chú ý các điều khoản và quy định về thẩm quyền triệu
tập Đại hội cổ đông (điều 102), thể thức tiến hành họp và biểu quyết tại đại hội đồng cổ
đông (điểu 103) và thông qua quyết định của Đại đồng cổ đông (điều 104).
• Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần của cổ đông sáng lập
18
Thông thường pháp luật không quy định hợp đồng này phải có xác nhận của Công ty,
tuy nhiên để đảm bảo tính an toàn nên có mục xác nhận việc chuyển nhượng giữa hai thành
viên cũ mới với nhau.
Về mặt nội dung cần hết sức chú ý tới điều khoản thanh toán và phương thức, điểu kiện
thanh toán. Đây là điều khoản mà tính rủi ro rất cao đối với việc mua lại phần vốn góp trong

công ty TNHH. Tại sao nhóm khẳng định điều khoản này quan trọng, bởi vì nếu không quy
định cách thức hoặc các biện pháp bảo đảm để cho nhà đầu tư được bỏ tiền ra an toàn thì có
thể họ sẽ phải đối mặt với các rủi ro sau:
- Sau khi nhận được tiền vì một lý do nào đấy mà Phòng đăng ký kinh doanh
không chấp nhận hồ sơ thay đổi thành viên của Doanh nghiệp đưa lên hoặc trả lại yêu cầu
sửa đổi bổ sung mà lúc đó thành viên chuyển nhượng (người bán) lại không hợp tác để bổ
sung các giấy tờ thủ tục thì hậu quả nhà đầu tư sẽ vướng vào tình huống tiến thoái lưỡng
nan đó là tiếp tục thì vướng vào thủ tục mà rút lui thì không biết đến bao giờ người bán sẽ
trả lại tiền cho mình;
- Doanh nghiệp không hợp tác để làm thủ tục lên Phòng ĐKKD thay đổi thành viên
cho nhà đầu tư. Trường hợp này nhà đầu tư chỉ còn cách khởi kiện ra tòa yêu cầu tòa án
buộc Doanh nghiệp phải làm thủ tục chuyển tên cho nhà đầu tư (thời gian theo đuổi tố tụng
rất mất thời gian thường kéo dài từ 6 tháng cho đến 1 năm) hoặc rút lui hủy hợp đồng lấy lại
tiền (cũng có thể dẫn tới tranh chấp hoặc rủi ro thanh toán lại).
Vì vậy để hạn chế những rủi ro này và đảm bảo cho việc nhận chuyển nhượng một cách
an toàn nhà đầu tư cần thỏa thuận với người nhận chuyển nhượng là khoản tiền thanh toán
nên được phong tỏa tại ngân hàng và tài khoản này được giải phóng khi ngân hàng nhận
được bản sao ĐKKD mới có tên của nhà đầu tư, như vậy sẽ đảm bảo cho nhà đầu tư thực
hiện an toàn được thương vụ mà người chuyển nhượng (người bán) cũng không lo lắng về
vấn đề có nhận được tiền không khi mà mình đã làm hết thủ tục giấy tờ sang tên cho bên
mua (nhà đầu tư).
• Thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh
Việc thay đổi cổ đông sáng lập trong công ty cổ phần(đối với công ty cổ phần chỉ bắt
buộc trong thời hạn 3 năm kể từ khi thành lập) là quy định bắt buộc. Nếu việc chuyển
nhượng thiếu quy trình đăng ký này coi như việc chuyển nhượng đó chưa hợp pháp và
19
người nhận chuyển nhượng mới chưa phải là thành viên hoặc cổ đông sáng lập mới trong
công ty.
Vì vậy đối với bước thay đổi nội dung đăng ký này nhà đầu tư cần lưu ý các vấn đề sau:
- Hoàn thiện và sắp xếp các hồ sơ theo quy định một cách khoa học;

- Rà soát kỹ các quy định về nội dung và hình thức của tất cả các công đoạn trong
quy trình;
Nếu thấy cần thiết thì có thể tham khảo trước ý kiến của cơ quan quản lý hoặc luật sư để hồ
sơ được chuẩn xác tránh phải thay đổi làm đi làm lại (nhiều khi không thể làm làm lại được
hồ sơ vì thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc đối tác, người liên quan không hợp tác.
PHẦN 2: TÌNH HUỐNG THỰC TẾ
Tình huống 1: Chuyển nhượng vốn vi phạm về số lượng thành viên
Người A có tham gia góp vốn thành lập công ty Cổ Phần với một người Hàn Quốc,
một người Việt Nam và một công ty TNHH. Trong công ty đó người A sở hữu 28% vốn
góp, người Hàn sở hữu 20%, người quốc tịch Việt Nam sở hữu 25% vốn và công ty
TNHH nắm 27% vốn góp. Nay người A va người Hàn quyết định rút vốn khỏi công ty và
chuyển toàn bộ số vốn đó cho cá nhân người Việt Nam. Người A có thực hiện được việc
chuyển nhượng hay không? Pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?
Giải quyết tình huống:
Tại khoản 5 Điều 84 Luật Doanh Nghiệp 2005 quy định: “Trong thời hạn 3 năm kể từ
ngày công ty được cấp Giấy Chứng Nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự
do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, và chỉ được
chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông không phải sáng lập với sự chấp thuận của
Đại hội đồng cổ đông”.
Như vậy, việc người A và người Hàn muốn rút vốn khỏi công ty và chuyển nhượng vốn
của mình cho người Việt là hoàn toàn hợp lệ.
Tuy nhiên, trong trường hợp vì công ty cổ phần chỉ có 4 cổ đông ( người A, người Hàn,
người Việt Nam và công ty TNHH), nên khi người A và người Hàn quyết định rút vốn thì
trong công ty chỉ còn 2 cổ đông là người Việt và Công ty TNHH. Điều này đã vi phạm việc
20
đảm bảo số lượng cổ đông tối thiểu được quy định tại Điều 77, khoản 1, điểm b Luật Doanh
Nghiệp 2005 đối với công ty Cổ phần “ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ
đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa…”
Để có thể rút vốn và đảm bảo theo quy định của Pháp Luật, người A và người Hàn có
thể thực hiện một trong hai cách sau:

a. Cùng với việc làm thủ tục chuyển nhượng cổ phần, công ty cần đăng ký chuyển
loại hình của doanh nghiệp từ công ty cổ phần sang công ty TNHH có hai thành
viên.
b. Giữ nguyên loại hình Công ty cổ phần ty bằng cách mời thêm cổ đông mới bằng
hình thức tăng vốn điều lệ, với sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông (tất cả
các cổ đông trong công ty). Nếu việc người A và người Hàn dự định chuyển
nhượng vốn đã được 2 cổ đông còn lại đồng ý thì xem như không có vấn đề gì
phức tạp mà chỉ cần tiến hành thủ tục theo luật định. Tuy nhiên, nếu một trong
hai cổ đông còn lại, chẳng hạn là cổ đông công ty TNHH - không đồng ý thì sẽ
hơi rắc rối. Thậm chí có khi sẽ trở thành một vụ tranh chấp. Do vậy, về nguyên
tắc: cần phải có sự đồng thuận của tất cả các bên.
Tình huống 2: Tranh chấp vốn chuyển nhượng giữa hai bên.
Người B mua lại 4% số cổ phần của một công ty cổ phần do bạn của người B nắm
giữ với trị giá là 40.000.000 VND. Giữa người B và bạn có ký một biên bản chuyển
nhượng cổ phần (chỉ có 2 người ký với nhau không có người thứ 3 xác nhận). Nay
người bạn của người B nói đã tự động rút hết cổ phần ở công ty đó nhưng không báo gì
cho người B. Vậy dựa vào tờ giấy chuyển nhượng cổ phần đó người B có kiện bạn anh
ta được không? Có cách nào để đòi được số tiền đó không?
Giải quyết tình huống:
Khoản 5 Điều 87 Luật Doanh nghiệp quy định: Việc chuyển nhượng được thực hiện
bằng văn bản theo cách thông thường hoặc bằng cách trao tay cổ phiếu. Giấy tờ chuyển
nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện uỷ quyền
của họ ký. Bên chuyển nhượng vẫn là người sở hữu cổ phần có liên quan cho đến khi tên
của người nhận chuyển nhượng được đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông.
21
Như vậy, biên bản chuyển nhượng của bạn lập là hợp pháp vì pháp luật không bắt buộc
giấy tờ chuyển nhượng phải có xác nhận của bên thứ ba. Bạn có thể dưạ vào biên bản
chuyển này để đòi lại quyền lợi hợp pháp của mình.
Để đòi lại tiền (giải quyết tranh chấp), pháp luật luôn luôn khuyến khích các bên tự
thương lượng hoặc hòa giải thông qua người thứ ba. Cách giải quyết này vừa đỡ tốn kém

chi phí, tránh những thủ tục tố tụng rườm rà vừa tránh làm căng thẳng mối quan hệ giữa các
bên. Nếu không thể tự giải quyết được thì bạn có thể gửi đơn khởi kiện tới tòa án để được
giải quyết theo quy định của pháp luật. Và người B hoàn toàn có thể lấy lại số tiền mà mình
đã mua cổ phần.
Tình huống 3a: Trả nợ thông qua việc chuyển nhượng vốn cổ phần
Là thành viên có vốn góp vào công ty Cổ phần, thì họ có quyền dùng phần vốn góp để
trả nợ không?
Trả lời: Góp vốn vào Công ty Cổ phần: nếu góp vốn vào Công ty cổ phần thì chia thành
2 khả năng:
Khả năng thứ nhất là cổ đông sáng lập và công ty chưa hoạt động được 3 năm kể từ ngày
được cấp Đăng ký kinh doanh: Chỉ được chuyển cổ phần của mình cho người không phải là
cổ đông sáng lập khi được đại hội đồng cổ đông thông qua. Trong tình huống này, người
nhận cổ phần sẽ trở thành cổ đông sáng lập của công ty (Khoản 5 Điều 84 Luật Doanh
nghiệp 2005).
Khả năng thứ 2 không phải là cổ đông sáng lập hoặc là cổ đông sáng lập nhưng công ty
đã hoạt động được từ 3 năm trở lên: Được sử dụng cổ phần của mình để trả nợ. (Khoản 5
Điều 84 Luật Doanh nghiệp 2005).
Tình huống 3b: Trả nợ thông qua việc chuyển nhượng vốn cổ phần
Ông C là cổ đông của Công ty Z có đem cổ phiếu của mình thế chấp cho ông D để vay
tiền. Nội dung vay tiền như sau: Ngày 26/10/2011 anh C mượn 100.000.000đ (Một trăm
triệu đồng). Hẹn 2 tháng trả, ông C ký ghi rõ họ tên. Quá thời hạn trả nợ nhưng ông C
vẫn không trả cho ông D và ông D đem số cổ phiếu mà ông A đã thế chấp (không có giấy
tờ thế chấp) và bản sao nội dung ghi nợ nói trên đến công ty chúng tôi để làm thủ tục
đăng ký quyền sở hữu cổ đông. Trong trường hợp này Công ty nên giải quyết như thế
nào để phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
22
Giải quyết tình huống: Để trở thành cổ đông của công ty cổ phần thì phải là người sở
hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của công ty. Trong trường hợp này, ông D có thể đăng
ký quyền sở hữu của cổ đông nếu chứng minh được giữa ông C và ông D đã có thỏa thuận
chuyển quyền sở hữu cổ phần.

Tuy nhiên, Giấy vay tiền giữa ông C và ông D chỉ ghi khoản vay và thời hạn trả nợ,
không có bất kỳ thông tin gì về việc thế chấp sử dụng cổ phiếu làm tài sản bảo đảm. Giấy
này không thể làm căn cứ để chứng minh giữa hai người có sự thỏa thuận liên quan đến số
cổ phần của ông C.
Việc ông D hiện đang cầm số cổ phiếu mang tên ông B cũng không chứng minh được
giữa hai người đã có việc chuyển nhượng cổ phần.
Như vậy, đương nhiên công ty Z không thể thực hiện theo yêu cầu của ông D. Hơn nữa,
theo ông D nói thì giữa ông và ông C có hợp đồng vay tiền và thỏa thuận liên quan đến số
cổ phiếu của ông B - đây là vấn đề dân sự giữa hai người và nếu có vi phạm nghĩa vụ thì họ
phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền (tòa án) để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Công ty Z không phải là cơ quan có thẩm quyền để xem xét vấn đề này.
Tình huống 4a: Nhượng lại vốn cổ phần
Người X có góp vốn cùng với 03 người khác thành lập Công ty cổ phần có vốn điều lệ
là 800 triệu đồng tương ứng với 80.000 cổ phần phổ thông (mệnh giá 10.000/cổ phần),
trong đó mỗi người đăng ký mua là 20.000 cổ phần. Tuy nhiên, từ thời điểm thành lập
công ty cho đến nay chỉ có X và 02 người khác hoàn thành nghĩa vụ góp vốn, còn một
người mới chỉ góp vốn mua có 8.000 cổ phần. Hiện nay người này không muốn tiếp tục
kinh doanh tại công ty mà muốn chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần đã đăng ký mua là
20.000 cổ phần cho người khác có được không?
Giải quyết tình huống: Căn cứ theo khoản Điều 23 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày
01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp quy định
như sau:
Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ
thông được quyền phát hành tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp. Cổ đông sáng lập và cổ
đông phổ thông tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký
mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
23
nghiệp. Trong thời hạn này, số phiếu biểu quyết của cổ đông được tính theo số cổ phần phổ
thông được đăng ký mua….
Trường hợp có cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong thời hạn 90

ngày, kể từ khi công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì thực hiện theo
quy định sau đây:
a) Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ
đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác;
b) Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết,
nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được quyền
chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác;
c) Trường hợp cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua, số cổ phần còn
lại được xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 84 của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn 90
ngày, kể từ ngày cuối cùng cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua; đồng thời,
công ty phải đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập theo quy định tại khoản 6 Điều này.
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 84 Luật Doanh nghiệp 2005 thì trường hợp có cổ
đông sáng lập không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua thì số cổ phần chưa góp đủ
đó của cổ đông sáng lập được xử lý theo một trong các cách sau đây:
a) Các cổ đông sáng lập còn lại góp đủ số cổ phần đó theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ
trong công ty;
b) Một hoặc một số cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó;
c) Huy động người khác không phải là cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó;
người nhận góp vốn đó đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Trong trường
hợp này, cổ đông sáng lập chưa góp cổ phần theo đăng ký đương nhiên không còn là cổ
đông của công ty.
Khi số cổ phần đăng ký góp của các cổ đông sáng lập chưa được góp đủ thì các cổ đông
sáng lập cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi giá trị số cổ phần chưa góp đủ đó.
Như vậy, trường hợp công ty này có một cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đã
đăng ký mua là 20.000 cổ phần mà mới chỉ thanh toán được tiền mua 8.000 cổ phần thì
người đó chỉ có quyền chuyển nhượng 8.000 cổ phần đã thanh toán mà không có quyền
24
chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần đã đăng ký mua. Số cổ phần chưa thanh toán là 12.000
cổ phần các cổ đông công ty phải xử lý theo các phương thức là: Huy động các cổ đông

sáng lập còn lại góp đủ số cổ phần đó theo tỷ lệ sở hữu cổ phần của họ trong công ty; hoặc
một hoặc một số cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó; hoặc huy động người khác
không phải là cổ đông sáng lập nhận góp đủ số cổ phần đó.
Tình huống 4b: Nhượng lại vốn cổ phần
Công ty cổ phần XYZ có 5 cổ đông thành lập và góp vốn với vốn điều lệ 1,8 tỷ đồng.
Do xảy ra mâu thuẫn trong Công ty, một cổ đông muốn bán cổ phần nhưng các cổ đông
không mua, cổ đông đó có được bán cổ phần của mình cho người khác không?
Giải quyết tình huống: Theo quy định của pháp luật, nếu cổ đông này đang sở hữu cổ
phần ưu đã biểu quyết thì mong muốn của cổ đông này không thể thực hiện. Theo quy định
tại Điều 81 luật Doanh nghiệp quy định: Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không
được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác.
Trong trường hợp cổ đông đang sở hữu cổ phần phổ thông của Công ty thì cổ đông có
thể chuyển nhượng cổ phần theo quy định tại Khoản 5, Điều 84 Luật doanh nghiệp: Trong
thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ
đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông
sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người
không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trong
trường này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc
chuyển nhượng các cổ phần đó và người nhận chuyển nhượng cổ phần đương nhiên trở
thành cổ đông sáng lập của công ty.
Sau thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập đều được bãi bỏ.
Như vậy, căn cứ các quy định nếu trên, nếu người cổ đông này sở hữu cổ phần phổ
thông người này hoàn toàn có quyền chuyển nhượng cổ phần cho người ngoài, nghĩa là
không bắt buộc phải là cổ đông sáng lập của công ty nếu được Đại hội đồng cổ đông chấp
thuận (nội dung chuyển nhượng do các bên tự thoả thuận). Nếu công ty XYZ đã được thành
lập quá ba năm thì người cổ đông này hoàn toàn có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình.
25

×