Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư giữa việt nam và nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.1 KB, 75 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
Họ và tên: Sisavai
Lớp : Kế hoạch 48A
Khoa: Kế hoạch và phát triển
Đề tài:
“ Những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư giữa
Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là mục đích của các doanh nghiệp Việt Nam
đang theo đuổi. Chúng ta không chỉ tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà
còn tích cực tiến hành đầu tư ra nước ngoài, tham gia vào một sân chơi mới mà các
quốc gia sẽ mở rộng cửa cho doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO. Đây là xu hướng để doanh nghiệp Việt Nam nâng cao khả năng
cạnh tranh cũng như tiến xa hơn trên trường quốc tế.
Lào là quốc gia gần gũi, có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam và có mối
quan hệ đặc biệt với Việt Nam. Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, Lào là lựa
chọn hang đầu cho các doanh nghiệp mới tham gia vào kinh doanh quốc tế và trở
thảnh nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy việc nghiên cứu về môi trường đầu tư của Lào
cũng như tình hình đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sang Lào là rất cần thiết.
Từ nhu cầu đó em chọn nghiên cứu đề tài: “Những giải pháp chủ yếu để nâng cao
hiệu quả hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào”.
1. Mục đích nghiên cứu: Đánh giá chung nhất về hoạt động đầu tư của Việt
Nam ra nước ngoài, so sánh hoạt động đầu tư của Việt Nam sang Lào so với
hoạt động đầu tư ra nước ngoài nói chung và đề xuất một số biện pháp nhằm


tăng cường hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sang Lào.
2. Đối tượng nghiên cứu: Tình hình đầu tư của Việt Nam sang Lào
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
4. Kết cấu của đề tài
Chuyên đề được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Thực trạng đầu tư của Việt Nam sang Lào
Chương 2: Đánh giá hiệu quả hợp tác đầu tư của Việt Nam sang Lào
Chương 3:Giải pháp tăng cường của Việt Nam đầu tư sang Lào
Trong thời gian thực tập và hoàn thành đề tài của mình tôi xin chân thành
cảm ơn PGS. TS Ngô Thắng Lợi trực tiếp giúp đỡ tôi hoàn thiện đề tài này cùng
với các thầy cô trong khoa Kế hoạch và Phát triển đã cung cấp cho tôi những kiến
thức quý báu để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. Đồng thời tôi xin chân thành
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên, các phòng ban trong các cán bộ tại Vụ kinh
tế đối ngoại - Bộ Kế hoạch và đầu tư đã tận tình tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá
trình thực tập.
Vì thời gian cũng như kiến thức còn hạn chế nên bài viết không thể tránh
khỏi những sai sót mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô, và các cán bộ tại Vụ
kinh tế đối ngoại - Bộ Kế hoạch và đầu tư cùng bạn đọc để bài viết được hoàn thiện
hơn.
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
CHƯƠNG I:
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM SANG LÀO

1.1 Khái quát về đầu tư của Việt Nam sang Lào
1.1.1 Lịch sử quá trình đầu tư của Việt Nam sang Lào
Cùng nằm trên bán đảo Đông Dương (Indochina) nơi liền nơi, sông liền sông,
có đường biên giới chung chạy dài hàng nghìn km, Việt Nam và Lào (cùng với
Campuchia) vốn có sự gần gũi, thân thiết cố hữu. Là điểm giao thoa, là cầu nối giữa
nhiều phần của đại lục châu Á được các nhà địa chính trị Pháp coi là góc của châu Á,
“một thế giới giữa hai thế giới” như cách nói của nhà xã hội học Pháp Paul Mus, hai
dân tộc Việt Nam và Lào đã có sự liên hệ trong lịch sử trường kỳ dựng và giữ nước.
Thế kỷ XV đã chứng kiến sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa nghĩa quân Lam Sơn và
nhân dân các bộ tộc Lào, cả về vũ khí, đạn dược, trang bị đến căn cứ chiến đấu. Sang
thế kỷ thứ XIX, vận mệnh của hai dân tộc lại gắn bó với nhau khi kẻ thù chung là thực
dân Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước của nhân dân Việt Nam đã được nhân dân
các bộ tộc Lào che chở, giúp đỡ mỗi lần bị truy đuổi. Phong trào Cần Vương của vua
quan triều đình Huế cũng đã nhận được sự hỗ trợ rất nhiều từ các bộ tộc Lào anh em
nơi vùng biên. Các nghĩa quân của các bộ tộc Lào chống Pháp cũng nhận được sự giúp
đỡ, phối hợp của các lực lượng yêu nước chống Pháp ở các tỉnh biên giới Việt Nam -
Lào. Sự hợp tác tự nguyện và tự giác ban đầu đó đã đặt nền móng vững chắc cho bước
phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước, hai dân tộc ở thế kỷ XX khi hoàn cảnh lịch
sử đặt ra cho mỗi dân tộc và cả hai dân tộc những thách thức hết sức khó khăn cần phải
vượt qua. Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 là một bước đột phá trong
việc nâng cao ý thức tự giác của các dân tộc Đông Dương trong cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc và chống kẻ thù chung. Suốt giai đoạn dài hai dân tộc đấu tranh giành
độc lập và thống nhất, mối quan hệ gắn bó truyền thống giữa hai dân tộc Việt - Lào đã
có bước chuyển mới về chất. Từ những nhu cầu tự phát, các mối quan hệ giữa hai dân
tộc được nâng cao lên mức tự giác, tự giác trong nhận thức, tự giác trong hành động.
Sau năm 1975, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời, hợp tác kinh tế,
văn hoá, khoa học kỹ thuật Việt Nam - Lào không ngừng được củng cố và ngày
càng được hoàn thiện cùng với quá trình phát triển và hội nhập của mỗi nước theo
từng giai đoạn.
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A

5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
- Từ năm 1975-1992: Trong bối cảnh nền kinh tế hai nước sau chiến tranh
còn nhiều khó khăn. Hầu hết cơ sở hạ tầng, giao thông, trường học, bệnh viện của
Lào bị tàn phá. Việt Nam và Lào đang thực thi cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp. Hợp tác được thực hiện giữa hai Nhà nước thông qua Nghị định thư
hợp tác hàng năm.
Trên tinh thần “hạt muối cắn đôi, bát cơm xẻ nửa”, Việt Nam đã giúp Lào
những công việc cần thiết, khẩn trương khắc phục và phát triển kinh tế sau chiến
tranh, tập trung xây dựng các tuyến đường giao thông tạo điều kiện cho Lào thông
thương ra biển, xây dựng một số trường sở, bệnh viện, đào tạo cán bộ và cử chuyên
gia theo yêu cầu của Lào thông qua nguồn vốn ngân sách theo kế hoạch, một số
công ty của Việt Nam sang giúp Lào sửa chữa các tuyến đường thông thương giữa
hai nước và một phần kinh phí từ ngân sách (khoảng 2 triệu USD/năm) để đào tạo
dài hạn cán bộ Lào tại Việt Nam.
Đặc điểm của giai đoạn này là hợp tác còn dựa theo vụ việc, chưa có một
chương trình kế hoạch dài hạn, chưa dựa vào thế mạnh và khả năng thực tiễn của
mỗi nước, hợp tác còn mang tính bao cấp chưa sát thực tế.
Kể từ năm 1986, hai nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau sự kiện tháng 8 năm 1991, trước tổn thất của chủ nghĩa xã hội và cách
mạng thế giới, Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ đã ảnh
hưởng nặng nề tới nền kinh tế của mỗi nước vốn là những nước tiếp nhận viện trợ
của khối các nước này.
Mặc dù trước những biến động và tổn thất của cách mạng thế giới, tại Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII tháng 6 năm 1991 và Hội nghị Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ 7 (khóa IV) tháng 12 năm 1989 vẫn
khẳng định kiên trì lãnh đạo đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội và tiến hành
công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Cùng chung mục tiêu, lý tưởng là yếu tố cơ bản để củng cố và phát triển mối

quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong giai đoạn này. Kinh nghiệm lịch sử trong
quan hệ hai nước cho thấy, nếu không có sự nhất trí về quan điểm, đường lối, không
có đường hướng chính trị phù hợp thì không thể xây dựng được mối quan hệ đặc
biệt giữa hai quốc gia, hai dân tộc. Một khi thống nhất về quan điểm, đường lối
chiến lược thì dự có một số khác biệt nào đấy, cũng có thể đi đến thống nhất để
cùng nhau xây dựng lên mối quan hệ tốt đẹp.
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
Thành quả đạt được trong công cuộc đổi mới của Việt Nam vào những năm
1990-1992 đã trực tiếp tác động tới quan hệ hợp tác giữa hai nước. Hợp tác kinh tế
được quan tâm, phía Lào đánh giá cao những thành tựu kinh tế và quản lý của Việt
Nam thông qua các chương trình hợp tác chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm trong
lĩnh vực quản lý kinh tế và nông nghiệp.
Các vấn đề liên quan đến quan hệ hợp tác ở tầm vĩ mô như: quản lý biên
giới, kiều dân, quản lý thương mại, thanh toán và du lịch, đào tạo cán bộ, chuyên
gia, lao động, xuất nhập cảnh, quá cảnh hàng hoá và chiến lược hợp tác về kinh tế,
văn hóa, khoa học kỹ thuật được đặt ra với sự chỉ đạo sát sao giữa hai nước.
Mặc dù có sự điều chỉnh, song kết quả hợp tác giai đoạn này còn rất hạn chế.
Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn lực kinh tế hạn hẹp của mỗi nước sau sự khủng
hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa và tình hình lạm phát của Việt Nam. Một số
chương trình hợp tác được hai bên thoả thuận vào những năm 1980-1985 đã tạm
hoãn hoặc chưa thực hiện trong giai đoạn này. Hai bên tập trung chủ yếu nguồn
viện trợ hàng năm vào đào tạo cán bộ, chuyên gia và cũng chính kết quả đào tạo của
nhiều năm qua đó tạo ra một đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm, hiểu biết lẫn nhau
trong phối hợp hợp tác. Nhiều cán bộ đã giữ những cương vị chủ chốt trong nhiều
lĩnh vực của Lào.
- Từ năm 1992-2005: Với quyết tâm xoá bỏ cơ chế bao cấp, cải tiến cơ chế
hợp tác phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn mới và thông lệ quốc tế
trong quá trình hội nhập, đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi bên, có sự ưu tiên

giúp đỡ lẫn nhau, hai bên nhận thấy sự cần thiết phải củng cố và tăng cường hợp tác
giữa hai nước và ngay sau kỳ họp ủy ban liên Chính phủ lần thứ 13 (1992) Tổ chức
Phân ban hợp tác Việt Nam và Lào được kiện toàn.
Từ năm 1993, hợp tác kinh tế giữa hai nước từng bước đưa vào kế hoạch và
mở rộng hợp tác trao đổi giữa các ngành, các địa phương và các cơ sở, doanh
nghiệp, thay dần cơ chế hợp tác bao cấp giữa nhà nước với nhà nước của những
năm trước đây bằng nhiều hình thức như: Hợp đồng, trao đổi hàng hoá hai bên cùng
có lợi dưới hỡnh thức hàng đổi hàng và giao nhận thầu xây dựng.
Ngày 15 tháng 3 năm 1995 tại Hà Nội, hai bên đó ký Thoả thuận Chiến lược
hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa hai nước từ năm 1996 đến năm
2000. Quan điểm cơ bản hợp tác giữa hai nước trong giai đoạn này là:
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
- Bảo vệ tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt và tăng cường sự hợp tác toàn diện
Việt Nam - Lào như là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng và
công cuộc xây dựng của hai nước.
- Hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền pháp
luật của nhau. Xoá bỏ cơ chế bao cấp, cải tiến cơ chế hợp tác trong giai đoạn mới
phù hợp cơ chế quản lý của mỗi nước và thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo lợi ích
chính đáng của mỗi bên, vừa ưu tiên giúp đỡ lẫn nhau. Phát huy thế mạnh tiềm năng
của mỗi bên kết hợp với việc thu hút nguồn lực của các nước và tổ chức quốc tế.
Mở rộng quan hệ hợp tác nhiều bên, đồng thời đề cao sự phối hợp bảo vệ lợi ích hai
nước trước sự cạnh tranh của nước khác.
- Hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực ngành, địa phương, mọi thành phần
kinh tế. Thúc đẩy hợp tác kinh doanh phát triển để tạo cơ sở cho việc khai thác tiềm
năng của mỗi bên, đảm bảo tính thiết thức, vững chắc và có hiệu quả. Gắn hợp tác
kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật với quốc phòng an ninh.
Định hướng hợp tác kinh tế đã được điều chỉnh căn bản từ quan điểm “Tài
nguyên của Lào, kỹ thuật lao động của Việt Nam và vốn của nước thứ ba” sang

nguyên tắc “ Hợp tác bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thoả đáng tính chất quan hệ
đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau”, kết hợp giữa các hình
thức hợp tác truyền thống với các hình thức hợp tác trong điều kiện hai nước
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường và
bước đầu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Trong 5 năm 1996 - 2000, Việt Nam đã dành cho Lào một khoản viện trợ
không hoàn lại 346.570 triệu VND, tương đương với 26,6 triệu USD, tăng 10,83%
so với Hiệp định khung ký kết giữa hai Chính phủ để thực hiện 31 dự án trực tiếp
trên đất Lào với số vốn chiếm 51,4% tổng vốn viện trợ và 46,29 % dành cho đào tạo
cán bộ, học sinh Lào tại Việt Nam. Đặc biệt trong 5 năm qua hai Bên đã có những
chuyển hướng trong việc sử dụng nguồn vốn viện trợ vào công tác điều tra cơ bản
và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng lãnh thổ cũng như
các ngành, lĩnh vực của Lào. 33,57% vốn viện trợ đã được dành cho công việc này,
trong đó quy hoạch nông nghiệp 6 dự án chiếm 36,5%, thuỷ lợi 2 dự án quy hoạch
cho 11 cánh đồng chiếm 25,2%, quy hoạch kinh tế xã hội 2 dự án chiếm 15,7% và
đo đạc bản đồ 2 dự án chiếm 22,6%.
Những nội dung hợp tác chủ yếu đạt được trong giai đoạn này là:
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
(i). Lần đầu tiên các nội dung hợp tác mang tính chiến lược tạo tiền đề cho
việc triển khai hợp tác những năm sau này được đặt ra.
(ii). Nhiều chương trình, dự án hợp tác tạm đình hỗn của giai đoạn 1985-
1990 được tiếp tục thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp và tạo cơ sở vật chất cho
giáo dục. Đặc biệt trong quy hoạch và phát triển lương thực 7 cánh đồng lớn, trọng
điểm, giúp Lào đảm bảo an ninh lương thực, đạt 400 kg/người và hoàn thành hệ
thống 04 trường dân tộc nội trú từ Bắc đến Nam Lào, tạo điều kiện học tập cho các
con em đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa của Lào.
Việc phối hợp chỉ đạo và điều chỉnh kịp thời hình thức hợp tác chuyển từ
viện trợ cụ thể sang nghiên cứu quy hoạch chiến lược, xác định mục tiêu, đã tạo

được những tiền đề cơ bản cho hợp tác phát triển nông nghiệp giai đoạn tiếp theo,
trực tiếp góp phần giúp Bộ Nông - lâm nghiệp Lào và một số địa phương hoạch
định chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp của địa phương mình.
(iii). Chuyển hướng hợp tác đào tạo nguồn nhân lực trước yêu cầu đặt ra của
công cuộc đổi mới đất nước Lào. Nhiều hình thức đào tạo mới đã được thực hiện và
đạt hiệu qủa cao. Từ năm 1997, hai Bên đã nhanh chóng chuyển hướng kết hợp đào
tạo dài hạn, chính quy với tăng cường bồi dưỡng và đào tạo lại cán bộ hệ ngắn hạn
trên các lĩnh vực quản lý, kết hợp cử chuyên gia đào tạo tại Lào với việc mở rộng
hình thức đào tạo tại chức cho Lào tại Việt Nam. Số học sinh Lào được tiếp nhận
mới hàng năm tăng từ 300-350 người theo Hiệp định lên tới 500-550 người/ năm
2000.
(iv). Tăng cường vốn viện trợ vào công tác điều tra cơ bản và hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên các vùng lãnh thổ cũng như các ngành, lĩnh
vực của Lào
Việc tập trung trên 1/3 số vốn viện trợ vào các dự án điều tra cơ bản, quy
hoạch phát triển trong giai đoạn này là rất cần thiết, nó sẽ là cơ sở giúp Lào phát
triển các ngành, lĩnh vực, cũng như các mục đích an ninh, quốc phòng và kinh tế
khác. Đồng thời nó cũng tạo ra những tiền đề trong nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai
nước trong những năm tới.
(v). Là giai đoạn hầu hết các cơ chế hợp tác được đặt ra nghiên cứu của giai
đoạn 1986-1992 đã được ký kết, tạo ra khung pháp lý quan trọng trong quan hệ hợp
tác giữa hai nước, thể hiện sự quyết tâm của hai bên nhằm nâng cao chất lượng hợp
tác, dành ưu tiên, ưu đã cho nhau trên cơ sở thông lệ quốc tế và quan hệ đặc biệt
giữa hai nước. Hai văn bản quan trọng khẳng định lòng mong muốn tăng cương hợp
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
tác viện trợ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này đã được ký kết. Đó là Thoả
thuận về tài chính và quản lý dự án sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam dành cho
Lào (1998) và Hiệp định thanh toán (1998) để xác định vai trò đồng Kíp và đồng

Việt Nam trong quan hệ hợp tác giữa hai bên.
Ngoài ra, hai bên đã sửa đổi bổ sung nhiều văn bản hợp tác khác, kịp thời
đáp ứng yêu cầu hợp tác hai nước trong tình hình mới như: sửa đổi bổ sung Hiệp
định về biên giới (1997); bổ sung Hiệp định hợp tác lao động (1999); sửa đổi, bổ
sung Hiệp định quá cảnh hàng hoá (2000) và ký kết những văn bản quan trọng,
giải quyết nhiều vấn đề thực tế, góp phần tăng cường thúc đẩy quan hệ giữa hai
nước như: Thoả thuận về việc tạo điều kiện cho người và hàng hoá qua lại biên giới
hai nước, còn gọi là “Thỏa thuận Cửa Lò 1999” nhằm tháo gỡ những khó khăn cho
người và hàng hoá qua lại giữa hai nước; Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
song phương giữa hai nước được ký ngày 14 tháng 01 năm 1996; Hiệp định
Thương mại thời kỳ 1991-1995 chấm dứt hình thức ký Nghị định thư trao đổi hàng
hoá hàng năm và xoá bỏ tình trạng bao cấp của Nhà nước, đã mở ra một thời kỳ mới
trong quan hệ thương mại hai nước, cho phép mở rộng đối tượng trao đổi, không
hạn chế các tổ chức, cá nhân tham gia trao đổi hàng hoá, không hạn chế kim ngạch
trao đổi, mở rộng danh mục hàng trao đổi trừ các mặt hàng cấm xuất và cấm nhập
của mỗi nước.
Giai đoạn 2001-2005, ngoài ưu tiên cho đào tạo, đây là giai đoạn thực hiện
cam kết điều chỉnh việc sử dụng viện trợ không hoàn lại. Một sự chuyển biến từ tư
duy hợp tác giúp đỡ lẫn nhau theo khả năng và vụ việc sang hợp tác đồng bộ, có
trọng điểm, đảm bảo hiêu quả toàn diện cả về kinh tế lẫn hiệu quả tác động đến
quan hệ hai nước.
1.1.2 Các hình thức đầu tư của Việt Nam sang Lào
Hai hình thức đầu tư chính sang Lào đó là ODA(Official Development
Assistance), FDI(Foreign Depository Interest)
A, Hình thức đầu tư ODA
ODA là tên gọi tắt của ba chữ tiếng Anh: Official Development Assistance,
có nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính
thức. Năm 1972, OECD, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra khái niệm
ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao

dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
25%”.Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ các
nước phát triển sang các nước đang và chậm phát triển. Liên hiệp quốc, trong một
phiên họp toàn thể của Đại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các nước phát triển
dành 1% GNP của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền vững về kinh tế và xã
hội của các nước đang phát triển.
Đặc điểm của nguồn vốn ODA
- Vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi của các nước phát triển, các tổ chức
quốc tế đối với các nước đang và chậm phát triển. Với mục tiêu trợ giúp các nước
đang và chậm phát triển, vốn ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ nguồn tài trợ nào
khác. Thể hiện:
+ Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu USD.
+ Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài
(chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Vốn ODA của WB, ADB, Ngân hàng Hợp tác quốc tế
Nhật Bản (Japanese Bank for International Cooperation - JBIC) có thời gian hoàn
trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
+ Thông thường vốn ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này
dưới 25% tổng số vốn vay. Ví dụ OECD cho không 20-25% tổng vốn ODA. Đây
chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại.
+ Các khoản vay thường có lãi suất thấp, thậm chí không có lãi suất. Lãi suất
giao động từ 0,5% đến 5% /năm (trong khi lãi suất vay trên thị trường tài chính
quốc tế là trên 7% /năm và hàng năm phải thoả thuận lại lãi suất giữa hai bên). Ví
dụ lãi suất của ADB là 1%/năm; của WB là 0,75% /năm; Nhật thì tuỳ theo từng dự
án cụ thể trong năm tài khó. Ví dụ từ năm 1997-2000 thì lãi suất là 1,8%/năm.
- Vốn ODA thường kèm theo các điều kiện ràng buộc nhất định: Tuỳ theo
khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có thể kèm theo những
điều kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng buộc này có thể là ràng buộc

một phần và cũng có thể là ràng buộc toàn bộ về kinh tế, xã hội và thậm chí cả ràng
buộc về chính trị. Thông thường, các ràng buộc kèm theo thường là các điều kiện về
mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng hoá và dịch vụ của nước tài trợ đối với nước nhận
tài trợ. Ví dụ, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng
hóa và dịch vụ của nước mình… Canada yêu cầu cao nhất, tới 65%. Thụy Sĩ chỉ yêu
cầu 1,7%, Hà Lan 2,2%, hai nước này được coi là những nước có tỷ lệ ODA yêu
cầu phải mua hàng hóa và dịch vụ của Nhà tài trợ thấp. Nhìn chung, 22% viện trợ
của DAC phải được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ của các quốc gia viện trợ.
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của
nước viện trợ. Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho
mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư
vấn vào nước tiếp nhận viện trợ.
- ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ: Vốn ODA không có khả năng đầu
tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất
khẩu thu ngoại tệ. Do đó, các nước nhận ODA phải sử dụng sao cho có hiệu quả,
tránh lâm vào tình trạng không có khả năng trả nợ.
B, Hình thức đầu tư FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn
đầu tư và người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá
nhân nước ngoài (chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn
đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn tạo ra.
Đặc điểm của nguồn vốn FDI
- Đây là hình thức đầu tư sử dụng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư
tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận phụ thuộc vào
kết quả sản xuất kinh doanh và được chia theo tỷ lệ vốn góp. Đầu tư theo
hình thức này không có những giàng buộc về chính trị, không để lại gánh nợ

cho nền kinh tế nước tiếp nhận vốn đầu tư, hơn nữa nó còn đem lại tính khả
thi và hiệu quả kinh tế cao.
- FDI là một hình thức đầu tư gắn liền với việc chuyển giao công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến, chuyển giao kiến thức kinh doanh và kinh nghiệm
quản lý. Đây là điều giúp cho các nước nhận đầu tư tiếp thu khoa học công
nghệ mơi, nâng cao trình độ năng lực quản lý của mình mà các hình thức đầu
tư khác không đáp ứng được.
- Quyền quản lý của doanh nghiệp phụ thuộc vào mức vốn góp của các
bên tham gia. Đối với hoạt động FDI ở Việt Nam luật đầu tư nước ngoài cho
phép chủ đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và được tham gia liên doanh với số
vốn góp không thấp hơn 30% vốn pháp định của dự án (trong một số trường
hợp tỷ lệ này có thể xuống đến 20%), không khống chế tỷ lệ vốn góp tối đa
(trừ một số nghành nghề nhất định).
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
1.2 Thực trạng đầu tư Việt Nam sang Lào
1.2.1 ODA
A, Nguồn vốn viện trợ của nước ngoài vào Lào
Trong những năm 1975-1990 Lào đã nhận được vốn viện trợ và vốn vay với
lãi suất thấp lên tới 2.347 triệu USD, trung bình 147 triệu USD/năm. Năm 1991-
1996 Lào đã nhân được 1.340 triêu USD vốn viện trợ và vốn vay, trung bình 268
triệu USD/năm và trong những năm 1996-2006 Lào đã nhận được 3.243 triệu USD
vốn viện trợ và vốn vay, trung bình 324 triệu USD/năm. Trong đó, vốn viện trợ và
vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế chiếm 37% tổng số vốn viện trợ và vốn
vay. Vốn vay chiếm trên 95% và vốn viện trợ khoảng 2,8%.
Nhật Bản, Đức, Thụy Điển và Trung Quốc là những nước viện trợ và cho
vay chiếm 52% trong tổng số vốn viện trợ và vốn vay. Riêng Nhật Bản viện trợ
không hoàn lại cho Lào trên 100 triệu USD/năm. Bước vào cuối những năm 2006-

2010, do khó khăn của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, nguồn
ODA của hầu hết các nước trên thế giới có xu hướng giảm đáng kể. Tuy nhiên,
trong bối cảnh đó, năm 2007, Chớnh phủ Lào đó nhận được nguồn ODA từ các nhà
tài trợ cam kết dành cho Lào là 433 triệu USD, bằng 11% GDP của cả nước
(1)
.
B,Viện trợ không hoàn lại của Việt Nam vào Lào
Trong tổng thể chung, viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành
cho Chính phủ Lào chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng số viện trợ không hoàn
lại mà Lào nhận được từ các nước và các tổ chức quốc tế.
Theo số liệu tổng hợp 1994-2009 viện trợ không hòan lại của Việt Nam
chiếm khoảng 15,22% trong tổng số viện trợ không hoàn lại của các nước và các tổ
chức quốc tế dành cho Lào giai đoạn 1996-2005 (Biểu số 2), 6,66% trong năm tài
chính 2007-2008 và 7,68% năm tài chính 2008-2009.
Nếu so sánh với viện trợ không hoàn lại trong hợp tác song phương với các
nước dành cho Lào năm tài chính 2008-2009, Việt Nam hiện đứng thứ hai với 18,81
triệu USD chỉ sau Nhật Bản Là 59,98 triệu USD năm 2009. Ttiếp đến Thụy Điển,
Đức, úc và Pháp và những nước viện trợ không hoàn lại và cho vay dưới 1triệu
USD/năm là Na Uy, Đam Mạch, Niu-Zi-lơn, Lúc-Xăm-Bua và Phần Lan
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
Biểu số 1: VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI CỦA VIỆT NAM TRONG
TỔNG ODA HUY ĐỘNG CHUNG CỦA LÀO
Đơn vị triệu USD
Giai đoạn
Tổng vốn viện trợ chung các
nước và Tổ chức dành cho Lào
(1)
Viện trợ không hoàn lại của

Việt Nam
(2)
Tổng
số
Vốn
vay
Viện
trợ
KHL
Bình
quân
năm
KHL
Tổng số
(tỷ VNĐ)
Quy đổi
USD
Bình
quân
năm
% so
với
Tổng
KHL
chung
1975-1990 2347 2230 117 7.33
1991-1995 1340 1273 67 13.4
1996-2005 3243 2757 486 44.22 927.99 74.05 7.41 15.22
Trong đó:
1996-2000 353.95 29.89 5.98

2001-2005 574.04 44.16 8.83
2006-2009 1216.52 590 50.60 16.87
Trong đó:
2006-2007 433 180 12.86
2007-2008 417.05
133.0
2
284.0
3 180 18.93
(3)
6.66
2008-2009 366.47
111.4
8
244.9
9 230 18.81
(3)
7.68
Tổng số
8146.5
2
Nguồn: (1)- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế Bắc Lào 2008-2020, tháng 10
năm 2008.
(2)- Kế hoạch hợp tác với Lào hàng năm - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(3)- Cục Hợp tác quốc tế - phòng hợp tác ODA - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
CHDCND Lào năm 2008 (tính theo năm tài chính)
1.2.2 FDI
A, Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Lào từ những nước khác
Trong 5 năm 2001-2005, Lào đã thu hút được 585 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài với tổng số vốn cam kết đạt khoảng 208 tỉ USD; trong đó khu vực

SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
nông nghiệp thu hút được 14% số dự án và 7% số vốn cam kết; khu vực công
nghiệp và xây dựng thu hút được 48% số dự án và 79% số vốn cam kết; khu vực
dịch vụ thu hút được 38% số dự án và 14% số vốn cam kết
Trong 2 năm gần đây, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt nhiều kết quả tích
cực hơn. Ước riêng trong năm 2007, tổng số vốn đăng ký vẫn có thể đạt được trên
1200 triệu USD, giảm so với mức kỉ lục 2.7 tỉ USD năm 2006
Tính chung 22 năm đổi mới (1986-2007) thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt
hơn 12.4 tỉ USD với gần 1100 dự án đầu tư, trong đó đã giải ngân được 2.9 tỉ USD.
Các lĩnh vực thu hút được nhiều vốn đầu tư là điện, khai thác mỏ, phát triển nông
nghiệp và dịch vụ.
Trong 5 năm 2001- 2005, tổng giá trị vốn thực hiện của khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 1415 triệu USD. Số vốn đưa từ nước ngoài vào
đạt 1301 triệu USD, chiếm 91.7% tổng số vốn thực hiện của khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài; trong đó đầu tư vào ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 69%
tổng vốn thực hiện; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 4% và dịch vụ chiếm
27% tổng số vốn đầu tư thực hiện
Đặc biệt, vốn đầu tư thực hiện năm 2007 ước đạt 950 triệu USD, tăng 60%
so với năm 2006. Số vốn thực hiện này tập trung vào các dự án khai thác mỏ có quy
mô lớn như khai thác mỏ đồng ở Phoubia, trồng rừng, trồng cao su và một số loại
cây công nghiệp khác, phát triển các trung tâm thương mại và du lịch quy mô lớn.
B, Đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào Lào
Việt Nam tiếp tục đứng trong tốp 3 trong số 32 quốc gia có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI tại Lào trong năm 2009. Việt Nam đứng thứ 3 về lượng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Lào, xếp sau Thái Lan và Trugn Quốc. Đây cũng là
thứ tự xếp hạng nếu tính trong 8 năm trở lại đây. Từ năm 2000 đến hết quý I/09,
Thái Lan đứng đầu trong số các nước có vốn đầu tư trực tiếp vào Lào với gần 2,5 tỷ
USD cho 216 dự án; Trung Quốc đứng thứ 2 với 303 dự án và vốn đăng ký là hơn

2,1 tỷ USD. Việt Nam vẫn đứng thứ 3 với 189 dự án có tổng vốn đăng ký là hơn 1,9
nghìn tỷ USD.
Lĩnh vực được đầu tư vào Lào nhiều nhất là cây công nghiệp, khai thác và
chế biến khoáng sản, xây dựng thủy điện. Cụ thể, Việt Nam có 27 dự án trồng cây
cao su, cây công nghiệp với tổng vốn đăng ký 501 triệu USD, chiếm 17% tổng vốn
đầu tư của Việt Nam sang Lào. Khai khoáng (bao gồm khảo sát và thăm dò) đạt
tổng vốn đầu tư 222,3 triệu USD. Thủy điện có 30 dự án, tổng công suất 4.726
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
MW, trong đó 3 dự án đã được triển khai (tổng công suất 650 MW) gồm Xekaman
III 250 MW, vốn đầu tư 273 triệu USD đã khởi công tháng 4/2006; Xekaman I công
suất 290 MW, vốn đầu tư 441,6 triệu USD; Nặm Mộ công suất 110 MW, vốn đầu
tư 142 triệu USD.
ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM SANG LÀO QUA CÁC NĂM
STT Năm Số dự án Vốn đăng ký
1 1993 1 -
2 1994 2 1,306,811
3 1998 1 1,500,000
4 1999 4 710,000
5 2000 9 5,189,370
6 2001 1 884,000
7 2002 1 392,000
8 2003 7 5,254,870
9 2004 5 3,367,928
10 2005 17 387,692,896
11 2006 14 55,160,960
12 2007 33 616,388,498
13 2008 51 448,630,718
Tổng số 146 1,526,478,051

SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
ĐTNN CỦA VIỆT NAM SANG LÀO THEO NGÀNH

STT Chuyên ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư
I Công nghiệp 76 1,049,614,207
CN dầu khí 1 4,680,000
CN nặng 60 1,023,623,717
CN nhẹ 5 13,768,440
CN thực phẩm 3 2,225,050
Xây dựng 8 9,997,000
II Nông, lâm nghiệp 47 427,275,777
Nông-Lâm nghiệp 47 427,275,777
III Dịch vụ 22 44,908,067
Dịch vụ 9 6,790,000
GTVT-Bưu điện 5 22,932,030
Khách sạn- Du lịch 2 5,155,796
Văn hóa giáo dục 5 3,056,811
XD Văn phòng-Căn hộ 1 6,973,430
Tổng số 145 1,521,798,051
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1.3 Đánh giá thành tựu và hạn chế
1.3.1 Thành tựu
Tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ của bạn bè quốc tế, cùng với nguồn lực từ
bờn ngođi, nguồn viện trợ không hoàn lại của Việt Nam cũng có những đóng góp
thiết thực vào việc khơi dậy và phát huy nguồn tiềm năng trở thành nguồn vật chất
phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Lào trên nhiều lĩnh vực kinh tế,
xã hội.
* Giúp Lào đảm bảo an ninh lương thực.

Từ một nước nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên không chủ
động được về lương thực. Năm 1976 đất nước Lào chỉ sản xuất được 661.000 tấn
với diện tích canh tác là 524.600 ha trên tổng diện tích sản xuất lúa là 317.700 ha,
diện tích rẫy 204.100 ha và diện tích lúa vụ chiêm 2.700 ha, năng suất bình quân
1,26 tấn/ha, bình quân lương thực đầu người chỉ đạt 229kg/ người/năm cả nước còn
thiếu 204.900 tấn thúc.
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
Mười năm sau, năm 1985 sản lượng lương thực đạt 1.395.000 tấn, gấp 2 lần
năm 1976. Năng suất bình quân đạt 2,1tấn/ha, bình quân lương thực đầu người
386kg/ người/ năm.
Sau 20 năm đất nước được giải phóng, năm 1995 sản xuất lương thực đã đạt
1.577.000 tấn, năng suất bình quân 2,58 tấn/ha, bình quân lương thực đầu người
được 344 kg/người/ năm.
Từ năm 1994 đến năm 2010 Việt Nam đã dành 11,89% tổng viện trợ không
hoàn lại cho 19 chương trình dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn của Lào,
trong đó tập trung chủ yếu từ năm 1997 đến năm 2000. Bằng nhiều hình thức từ hỗ
trợ giống vật nuôi cây trông, sự giúp đỡ chân tình của các chuyên gia trực tiếp tới
các bản làng đến quy hoạch và hỗ trợ phát triển nông nghiệp, thủy lợi, trên 7 cánh
đồng lớn của Lào tại Viêng chăn, Xa-va-na-khét, Khăm muội, Chăm-pa-sắc, Xờ
pôn, At-ta-pư, Bơ-ly-khăm-xay, giúp Lào xây dựng chiến lược về an ninh lương
thực và xây dựng các hệ thống thủy lợi lớn phục vụ cho mục tiêu phát triển nông
nghiệp và nông thôn gồm: Hệ thống thủy lợi sông Nậm Ngừm - Hồng Sa, Hệ thống
thủy lợi Đông-phu- xỉ và Thà-phạ-nong-phông tỉnh Viêng chăn và Hệ thống thủy
lợi Nậm Long tỉnh Hủa phăn Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng và được
phía Lào đánh giá cao trong chiến lược an ninh lương thực của Lào.
Nhờ vào quyết tâm của Chính phủ và có sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA của
nước ngoài và những đóng góp quan trọng của Việt Nam, năm 2008 năng suất
lương thực đạt 4,76 triệu tấn, bình quân lương thực đầu người đã tăng lên 806

kg/người/năm. Lào đã chủ động giải quyết được về lương thực có phần tích lũy.
Chiến lược an ninh lương thực được bảo đảm không những đủ ăn mà còn xuất khẩu
được lương thực.
*Góp phần thực hiện chương trình giảm nghèo và nâng cao chất lượng
cuộc sống của Lào.
Giảm nghèo là nhiệm vụ trọng tâm trong định hướng phát triển kinh tế - xã
hội của Lào. Trong 5 năm (2001-2005), công tác giảm nghèo có nhiều tiến bộ. giảm
được 135 nghìn hộ nghèo; Bước vào giai đoạn 2006-2010, toàn quốc còn 72 huyện
nghèo, trong đó có 47 huyện đặc biệt nghèo.
Quỹ xoá nghèo được vay từ nguồn vốn của Ngân hàng thế giới được triển khai
trên 1.912 bản, trong đó có 239 cụm bản điển hình ở 20 huyện thuộc 05 tỉnh như:
Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Xa-văn-na-khệt, Xa-la-văn và Chăm-pa-xắc. Đến năm
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
2006 - 2007 Chính phủ đã hoàn thành kế hoạch giải quyết các hộ nghèo ở 23 cụm
bản dân cư của 23 huyện nghèo trên 47 huyện nghèo nhất trong cả nước.
Tuổi thọ trung bỡnh của người dân tăng lên, nếu năm 1980 là 50 tuổi thỡ đến
năm 2005 đạt 61 tuổi. Kết quả này đã cải thiện đáng kể về dân số của Lào. Năm
2008 dõn số là 6.677.534 người với mật độ 28 người/km2 gấp gần 1,5 lần so với
năm 1986 là 4,71 triệu người.
Tỷ lệ sử dụng nước sạch tăng từ 67,2% số hộ gia đình trong cả nước năm
1986 lên 76,% năm 2008. Cơ sở văn hóa mới trong các vùng nông thôn ở cấp bản
đạt 500 bản/9.113 bản chiếm 0,05% số bản trong toàn quốc, xây dựng gia đình văn
hóa mới đạt 68.000 hộ gia đình/ 983.482 hộ gia đình toàn quốc đạt 14,46% hộ gia
đình trong toàn quốc.
Góp phần vào mục tiêu này, Việt Nam đã giúp Lào xây dựng hệ thống nước
sạch thị xã Xay-xổm-bun; lắp đặt hệ thống chiếu sáng một số khu vực Thành phố
viêng chăn; giúp chuyển đổi giống cây trồng giảm nghèo khu vực nông thôn thông
qua các dự án: Hỗ trợ phát triển giống ngô lai; Điều tra quy hoạch vùng cây ăn quả

huyện Xiềng-Ngân, Nặm-Bạc (Luông-pra-băng) và vùng trồng rau Văng viêng
(Viêng chăn); xây dựng mô hình thí điểm phục vụ nông nghiệp tại Phun sủng,
Chăm-pa-sắc, Lắc sao, và Hạt siều; Xây dựng bệnh viện tỉnh Bị Kẹo….
*Có những đóng góp thiết thực vào kế hoạch phát triển nguồn nhân lực
của Lào.
Lào là một nước đất rộng người thưa, nguồn nhân lực khan hiếm, nhất là lao
động có tay nghề và kỹ thuật cao. Đảng Nhân dân cách mạng Lào luôn coi trọng
việc phát triển toàn diện không chỉ về thể chất, trình độ hiểu biết về tri thức, nghề
nghiệp và đạo đức, xây dựng con người Lào mới có thế giới quan, nhân sinh quan
tiến bộ trong sáng, lành mạnh ngày càng được bổ sung và hoàn thiện ở nhiều mặt.
Nhờ nguồn ODA, tỷ lệ trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo, bậc phổ thông trung học
và ®ại học đến trường đã tăng từ 38% vào năm 1985 lên 54% năm 2005 và đến
năm 2007-2008 tỷ lệ trẻ em ở độ tuổi từ 6-10 tuổi đến lớp đạt 86,4%, tỷ lệ cấp học
phổ thông tiểu học đến trường đạt 53,3%, tỷ lệ cấp học phổ thông cơ sởđến trường
đạt 53,3% và tỷ lệ cấp học phổ thông trung học đạt 34,6%. Tỷ lệ học sinh trong dân
đã tăng lên từ 854.000 học sinh/100.000 dân năm 2005 lên 1.068 học sinh/100.000
dân năm 2007. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn ở độ tuổi từ 15 tuổi trở lên đạt 78%.
Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2001 là 0,525, xếp thứ 135 trên thế
giới đã xuống thứ 133 vào năm 2005 và thứ 130 vào năm 2008 trong tổng số 177
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
nước. Lượng cung cấp Calo và Potein hàng ngày bình quân đầu người đã đạt định
lượng 2. 203 Calo và 60gam Protein.
Đây cũng là lĩnh vực hợp tác được hai Đảng và hai Nhà nước quan tâm và ưu
tiên hàng đầu trong chiến lược hợp tác giữa hai nước. Hai bên đã dành 43,25% viện
trợ không hoàn lại giai đoạn 1994-2010 cho đào tạo cán bộ, học sinh Lào tại Việt
Nam và 12,61% viện trợ để hình thành hệ thống Trường phổ thông dân tộc nội trú
U Đôm-xay, Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Viêng-chăn, Xa-va-na-khét, Chăm-pa-xắc,
At-ta-p từ Bắc tới Nam của Lào, xây dựng các cơ sở bồi dưỡng cán bộ và đào tạo

nghề tại Viêng chăn, Bị Kẹo, các trường đào tạo cao đẳng và đại học như Trường
Cao đẳng Tài chính Đông-khăm-xặng, Trường Âm nhac quốc gia Lào…
Biểu số 2: CƠ CẤU VỐN VIỆN TRỢ KHÔNG HOÀN LẠI
CỦA VIỆT NAM DÀNH CHO LÀO TỪ NĂM 1994 ĐẾN NĂM 2010
Đơn vị: Triệu VNĐ
STT Tên dự án
Số dự
án
1994-
2010
% so
với
1994-
2010
1994-2010
1994-
1995
1996-
2000
2001-
2005
2006-2010

Tổng số: 100 2,180,990 53,000 353,949 574,041 1,200,000
A Đào tạo tại Việt
Nam
43.25 943,291 26,000 107,101 227,500 582,690
B Chương trình, dự
án
86 56.75 1,237,699 27,000 246,848 346,541 617,310

1 Cơ sở vật chât
đào tạo tại Lào
10 12.61 274,997 4,000 51,237 63,000 156,760
2 Nông nghiệp,
thuỷ lợi
19 11.89 259,374 7,900 79,075 136,499 35,900
3 Văn hoá, y tế, xã
hội
13 14.31 312,111 8,000 65,570 34,783 203,758
4 Điều tra cơ bản,
đo dạc bản đồ
9 5.57 121,530 5,800 31,623 65,107 19,000
5 Hỗ trợ giao
thông, biên giới,
cửa khẩu
10 2.82 61,515 21,015 40,500
6 Hỗ trợ kỹ thuật
các ngành
20 8.75 190,872 800 11,043 17,637 161,392
7 Quy hoạch 5 0.79 17,300 500 8,300 8,500
Nguồn: Kế hoạch hợp tác Việt Nam Lào hàng năm - Bộ Kế hoạch và Đầu tư
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
Lĩnh vực đào tạo phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu ưu
tiên của nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nói chung cho Lào. Trong đó
viện trợ không hoàn lại của Việt Nam chiếm một vị trí quan trọng trong lĩnh vực
này so với các nước. Trong 5 năm số học bổng được cấp sang học tập tại Việt Nam
là 3.518 suất, với kinh phí là 520 tỷ VND, tương đương với 30 triệu USD. Riêng
năm 2009 là 115 tỷ VND, tương đương với 7 triệu USD. Con số này cao hơn 7 trên

tổng số 14 nước và tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại cho Lào trong năm
2009. Điều này phản ánh mối quan hệ đặc biệt của Việt Nam dành cho Lào.
Kết quả này đã góp phần giúp Lào giải quyết vấn đề thiếu hụt lực lượng cán
bộ trước các nhiệm vụ đặt ra trong công cuộc đổi mới đất nước,cải thiện đời sống
văn hóa, xã hội và tạo điều kiện học tập cho con em dân tộc vùng sâu, vùng xa của
Lào.
* Gúp phần hỡnh thành hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Lào.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ I (1981-1985), tranh thủ sự viện trợ giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản và các tổ chức quốc tế, Lào đã thu
hút được nguồn ODA lớn vào xây dựng cơ sở hạ tầng. Giao thông vận tải có nhiều
chuyển biến. Lào đã sửa chữa và nâng cấp được 2.730 km đường. Trong đó, rải
nhựa 920 km, sửa chữa 337 cầu. Tổng chiều dài đường bộ của cả nước đến năm
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
1985 đã lên đến 12.983 km. Năm 1994, tổng chiều dài đường giao thông đạt 18.344
km, tăng 5.361 km so với năm 1985. Trong đó đường rải nhựa là 2.446 km,
Từ nguồn ODA hệ thống các trục đường giao thông chiến lược được hình
thành và phát triển. Nếu trước năm 1992 hệ thống quốc lộ 13 dọc đất nước Lào còn
là đường cấp phối thì nay đó trở thành tuyến đường chiến lược trong công cuộc xõy
dựng và phát triển kinh tế đất nước Lào. Nhiều tuyến đường ngang nối với các nước
trong khu vực và giúp Lào thông thương ra các cảng biển của các nước láng giềng
như tuyến đường 9 hành lang Đông - Tây, tuyến đường 6, 12 Trung Lào được xây
dựng. Trong những năm thập niên 90 của thế kỷ 20 bằng nguồn ODA, các cầu qua
sông Mê kông tại Viêng chăn, Mục-đa-hản và Pắc-xê đã được đưa vào sử dụng và
gần đây tuyến đường sắt đầu tiên của Lào từ Viêng-chăn sang Nọng-khai (Thái
Lan) cũng đã được hình thành.
Thực hiện thỏa thuận tạo điều kiện thuận lợi và giúp Lào thông thương qua
các cản biển của Việt Nam, bằng nguồn vốn vay ưu đái Việt Nam đã giúp Lào xây

dựng các tuyến đường 18B (Nam Lào) và tuyến đường 2E (Bắc Lào) và dành 2,8%
viện trợ không hoàn lại trong những năm 2001-2005 để giúp Lào nghiên cứu khảo
sát các tuyến đường sắt, đường bộ và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các cửa khẩu
của Lào thông thương với Việt Nam.
Kết quả này đã tạo điều kiện cho Lào trong những năm gần đây thu hút được
một khối lượng lớn nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo thống kê của Cục Khuyến khích đầu tư nước ngoài Bộ kế họach và đầu
tư Lào trong giai đoạn từ năm 2000 đến tháng 3 năm 2008 trên địa bàn của cả nước
có 1.045 dự án đầu tư của nước ngoài, giá trị vốn đầu tư đạt 6,461 tỷ USD gồm 37
quốc gia vùng và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Lào . Trong đó, đứng đầu là Thái
Lan 179 dự án, với giá trị vốn đầu tư đạt 1.380 triệu USD. Trung Quốc được xếp
thứ hai, 259 dự án, với giá trị vốn đầu tư đạt 1.285 triệu USD và thứ 3 là Việt Nam
129 dự án với vốn đầu tư 574,7 triệu USD.
Trong đó, tính đến tháng 8 năm 2009, đã có 190 dự án của các doanh nghiệp
Việt Nam được cấp phép đầu tư vào Lào với tổng vốn đầu tư là 2,167 tỉ USD, đứng
đầu các nước đầu tư vào Lào, ở những lĩnh vực thương mại - dịch vụ, năng lượng,
khoáng sản, nông nghiệp, viễn thông, công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, tài
chính, bảo hiểm… Được tập trung nhiều nhất là lĩnh vực thương mại - dịch vụ
chiếm 53,52%, tiếp theo là khai khoáng chiếm 15,6%, thủy điện chiếm 12,74% và
trồng cây công nghiệp chiếm 12,57% so với tổng vốn đầu tư.
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
Chỉ tính riêng hơn 2 năm, từ 2006 đến tháng 3 năm 2008, Lào đã thu hút
được 418 dự án, bằng 40% số dự án trong suốt thời kỳ từ 2000 đến 3/2008 với vốn
đầu tư là 4,028 tỷ USD, bằng 62,34 % tổng số vốn trong thời kỳ này (xem biểu số
2). Điều này đó cho thấy nước ngoài đầu tư vào Lào ngày càng tăng, là cơ hội để
Lào khai thác những tiềm năng tiềm ẩn của mình vào mục tiêu phát triển kinh tế,
sớm đưa Lào ra khỏi các nước chậm phát triển trên thế giới.
1.3.2 Hạn chế

A, Đối với nước Lào
• Về tăng trưởng kinh tế:Tăng trưởng chưa thực sự vững chắc, chưa
tương xứng với tiềm năng và đầu tư. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế tuy đã có tiến bộ song còn thấp và chậm được cải thiện.
Trong nông nghiệp, sản xuất nhỏ vẫn còn mang tính tự cung tự cấp, tốc độ
phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp chưa đạt kế hoạch và chưa tương
xứng với tiềm năng. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn là độc canh cây lúa; chăn
nuôi kém phát triển, chất lượng sản phẩm nông nghiệp vẫn còn phụ thuộc nhiều vào
thời tiết. Việc thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và
nông thôn còn chậm và lúng túng, chưa đảm bảo được yếu tố bền vững. Ngành
nghề thủ công ở nông thôn cũng kém phát triển. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ
thuật tuy có tiến bộ nhưng vẫn ở mức hạn chế.
Sản xuất công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Nhiều mặt hàng dân dụng trong nước có thể sản
xuất được và hiệu quả nhưng vẫn chưa được chú trọng phát triển, dẫn tới vẫn phải
nhập khẩu với số lượng lớn. Chất lượng và hiệu quả toàn ngành chậm được cải
thiện. Chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm công nghiệp còn ở mức cao. Số doạnh
nghiệp có trình độ công nghệ khá ít, chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
công nghiệp chưa đủ tầm; sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, địa phương để
động viên phát triển công nghiệp còn yếu.
Cơ sở vật chất của nhiều ngành dịch vụ còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế- xã hội; chất lượng nhiều loại dịch vụ còn kém. Công tác quản lý
các ngành dịch vụ vẫn còn nhiều bất cập; nhất là khâu quản lý các cá nhân, cá hộ
gia đình và doanh nghiệp tư nhân làm dịch vụ. Sự phối hợp giữa các đề án phát
triển du lịch còn yếu, dẫn tới hiệu quả thấp.
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
Việc sử dụng kết cấu hạ tầng trong nhiều lĩnh vực còn yếu kém do trình độ

phát triển sản xuất hàng hóa không theo kịp với phát triển kết cấu hạ tầng; điển hình
là công suất sử dụng các công trình thủy lợi, giao thông, bến cảng, sân bay còn rất
thấp gây lãng phí cho nền kinh tế và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
• Các cân đối vĩ mô và ổn định kinh tế:Các cân đối vĩ mô chưa thực sự vững
chắc, dễ bị phá vỡ bởi những tác động từ những yếu tố khách quan, trong đó
thể hiện rõ nhất là trên một số măt:
Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với GDP tuy đã có bước cải thiện đáng kể,
nhưng còn thấp so với tiềm năng và yêu cầu phát triển. Chênh lệch giữa tiết kiệm
trong nước và đầu tư xã hội khá cao đòi hỏi phải nhập khẩu vốn nước ngoài. Việc
huy động nguồn tiết kiệm của dân cư vào đầu tư còn thấp do Nhà nước chưa tạo
thêm dược các nguồn thu và do các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế
chưa phát triển. Trong khi đó, vẫn chưa có chính sách, cơ chế cụ thể để biến đất đai
và các tài nguyên khác thành vốn đầu tư. Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng còn
dàn trài; thời gian thi công các công trình kéo dài. Nợ xây dựng cơ bản lớn, gây áp
lực không nhỏ đối với cân đối ngân sách và ổn định giá cả.
Tỷ lệ thu ngân sách thấp và liên tục không đạt kế hoạch. Tình trạng thất thu
lớn. Mặc dù còn thấp so với yếu cầu, song chi đầu tư vẫn chiếm tỉ trọng cao trong
tổng chi ngân sách, làm cho chi tiêu thường xuyên thấp, không đáp ứng được yêu
cầu, ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả và hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà Nước,
đến phát triển các lĩnh vực xã hội và dịch vụ công cộng.
Bội chi và nợ của Chính phủ vẫn còn lớn và kéo dài nhiều năm; do đó vẫn có
nguy cơ trở thành nguyên nhân gây lạm phát cao, đe dọa sự ổn định kinh tế- xã hội.
Việc điều hành chính sách tiền tệ vẫn còn nhiều bất cập. Các công cụ chính
sách tiền tệ vẫn còn quá ít và chưa hoàn thiện, vẫn chủ yếu dựa vào các công cụ dự
trữ bắt buộc và phát hành tín phiếu ngân hàng; các nghiệp vụ cho vay tái cấp vôn,
nghiệp vụ thị trường mở chưa được sử dụng
Thị trường tiền tệ vẫn còn phát triển ở mức hạn chế. Tín dụng cho vay thấp;
chưa đáp ứng được nhu cầu; thời gian cho vay ngắn gây áp lực với các hoạt động
của các doanh nghiệp và khả năng thu hồi vốn của các ngân hàng thương mại. Nợ
tồn đọng của hệ thống ngân hàng lớn, tập trung chủ yếu của các ngân hàng thương

mại nhà nước. Năng lực tài chính và chất lượng hoạt động của các ngân hàng
thương mại còn nhiều yếu kém
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Ngô Thắng Lợi
• Về quy mô nền kinh tế và nguy cơ tụt hậu:Quy mô nền kinh tế đến nay vẫn
còn quá nhỏ; tổng GDP năm 2007 chỉ khoảng 4.12 tỷ USD; GDP đầu người
đạt xấp xỉ 706USD Các chỉ tiêu của Lào thấp xa so với các nước trong khu
vực, phản ánh thực trạng Lào vẫn thuộc diện nghèo của thế giới. Mặc dù quy
mô nền kinh tế còn rất nhỏ bộ, thu nhập đầu người thấp, nhưng tốc độ tăng
trưởng kinh tế chưa cao và chưa tương xứng với tiềm năng phong phú của
Lào.
• Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:Việc chuyển dịch cơ cấu ngành chỉ chú trọng
tăng tỉ trọng công nghiệp, chưa chú ý nhiều tới mục tiêu chuyển dịch cơ cấu
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển mạnh công nghiệ và kĩ
thuật tiên tiến; dẫn tới phát triển nhiều ngành công nghiệp hướng nội; công
nghệ lạc hậu, chi phí lớn, hiệu quả kinh tế thấp và đòi hỏi bảo hộ cao, làm
giảm khả năng cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn chỉ mới bắt đầu bằng
việc chuyển một số diện tích lúa năng suất và giá trị thấp sang trồng cây
công nghiệp
Cơ cấu vùng lãnh thổ của nền kinh tế còn nhiều bất cập; tốc độ tăng trưởng
các vùng chênh lệch khá cao; nhiều địa phương của vùng Bắc Lào phát triển rất
chậm. Kinh tế của nhiều vùng còn phát triển chưa cân đối. Cơ cấu ngành kinh tế
từng vùng chuyển dịch chậm, nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ lớn. Khoảng cách
lớn về trình độ phát triển giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các vùng lãnh
thổ, giữa các thành phần kinh tế và giữa các cộng đồng dân cư các bộ tộc Lào.
Cơ cấu lao động chậm chuyển dịch so với sự chuyển dịch của cơ cấu knih tế
trong từng ngành và từng vùng. Sự chuyển dịch lao động còn mang nặng tính tự
phát, đáp ứng tức thời, với những lao động đơn giản, chưa theo một quy hoạch và

kế hoạch đào tạo dài hạn nhằm phân bố lại lực lượng lao động và dân cư hợp lý.
• Về hoạt động kinh tế đối ngoại: Đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp
vào các địa bàn khó khăn còn rất hạn chế; khả năng thu hút vốn đầu tư vào
khu vực công nghiệp còn thấp. Việc cấp phép đầu tư trong nhiều trường hợp
vẫn còn chậm và có nhiều thủ tục phức tạp. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài còn gặp nhiều khó khăn do môi trường đầu tư chưa đủ thông thoáng,
thuận lợi, nhất quán và ổn định. Giá một số yếu tố đầu vào của nền kinh tế
như xăng, điện, cước viễn thông nhìn chung còn cao hơn nhiều nước trong
SV: Sisavai CHANTAPHOME Lớp: Kế hoạch 48A
25

×