Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí độc quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.74 KB, 35 trang )

ĐỀ TÀI
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM
DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
Nhóm 8
1
MỤC LỤC
2
3
A. MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Khi
thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những quy luật của nền kinh tế thị
trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó
nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức. Một trong
những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
còn yếu kém.
Đứng trước quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng (là thành
viên của ASEAN, APEC, thành viên của WTO ) thì nước ta cần có một nền
kinh tế với sức cạnh tranh đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế để đạt
được mục đích trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Muốn như vậy
chúng ta cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế với các đối
tượng cần tác động là các doanh nghiệp. Đặc biệt cần phải nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, phải phát huy các lợi
thế cạnh tranh. Chúng ta cần có một chính sách cạnh tranh đúng đắn.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, nó là
động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, là linh hồn của nền kinh tết thị trường.
Nhiều nước trên thế giới đã vận dụng tốt quy luật cạnh tranh vào phát triển
kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới nền kinh tế
chúng ta cũng đã áp dụng quy luật này và một số thành tựu đã đến với chúng
ta: Đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội phát triển hơn, kinh tế phát triển


ổn định… những lợi ích ấy chưa phải là lớn lao nhưng cũng đã giúp chúng ta
định hướng cho chính sách phát triển kinh tế.
Một vấn đề cần quan tâm trong nền kinh tế thị trường hiện nay đó
chính là sức ảnh hưởng của các doanh nghiệp độc quyền.
4
Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều công ty, hoặc
một tổ chức kinh tế nào đó về một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường
nhất định. Độc quyền sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với cạnh tranh và phát triển
kinh tế.
Để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền có
hiệu quả đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực trạng hiện nay của
nước ta.
Vậy bản chất của độc quyền như thế nào? Và nước ta cần làm gì để
duy trì cạnh tranh và kiểm soát độc quyền? Chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể ở
dưới đây.
5
B. NỘI DUNG
1. Khái quát chung về độc quyền và hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền
1.1 Doanh ngiệp có vị trí độc quyền
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp có vị trí độc quyền
Điều 12 luật cạnh tranh 2004 “Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc
quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà
doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan”.
1.1.2. Nguyên nhân của độc quyền
Những nguyên nhân dẫn đến sự độc quyền bao gồm các loại sau đây:
+ Độc quyền hình thành từ quá trình cạnh tranh (Độc quyền tự nhiên).
Độc quyền được tạo ra bởi tích tụ dần theo cơ chế lợi nhuận và các nguồn lực
thị trường cứ tích tụ dần đã hình thành nên độc quyền.
+ Độc quyền hình thành từ yêu cầu của công nghệ sản xuất hoặc yêu

cầu tối thiểu về quy mô của ngành kinh tế kĩ thuật. Trong những ngành kinh
tế nhất định chỉ có những nhà đầu tư nhất định đáp ứng được yêu cầu về mặt
công nghệ hoặc số vốn đầu tư tối thiểu mới có thể đầu tư có hiệu quả. Từ đó,
thị trường đã trao cho người đáp ứng đủ khả năng vị thế độc quyền
+ Độc quyền hình thành từ sự tồn tại của các rào cản trên thị trường.
Bao gồm sự bảo hộ của nhà nước; Sự trung thành của khách hàng; Rào cản do
lợi thế chi phí tuyệt đối của doanh nghiệp đang tồn tại đã làm cản trở sự gia
nhập thị trường của đối thủ, củng cố vị trí độc quyền của các doanh nghiệp
đang tồn tại.
+ Độc quyền do sự tích tụ tập trung kinh tế. Tập trung kinh tế diễn ra
thông qua việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh và những hình thức
khác.
6
1.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của độc quyền.
1.1.3.1. Ưu điểm.
Sự tồn tại của doanh nghiệp độc quyền có khả năng tập trung mọi
quyền lực thị trường để đầu tư hoặc nghiên cứu phát triển công nghệ, triển
khai những dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn.
1.1.3.2. Nhược điểm
Sự xuất hiện của độc quyền trong đời sống kinh tế sẽ triệt tiêu cạnh
tranh, gây ra những hạn chế như:
- Đối với các doanh nghiệp tiềm năng: Hạn chế khả năng gia nhập thị
trường liên quan của các doanh nghiệp.
- Đối với người tiêu dùng: Độc quyền đặt ra các mức giá phi cạnh
tranh, người tiêu dùng dễ bị bóc lột
Độc quyền hạn chế khả năng phát hiện và đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng.
Độc quyền có thể bóp méo chi phí sản xuất do ít chịu sức ép cạnh tranh
của các doanh nghiệp khác.
- Đối với bản thân doanh nghiệp độc quyền: Độc quyền tạo ra sức ì cho

doanh nghiệp. Vì không chịu sự cạnh tranh nên các doanh nghiệp độc quyền
không có động lực cải tiến kĩ thuật, cắt giảm chi phí, phát triển công nghệ.
- Đối với xã hội: Độc quyền có thể là nguyên nhân gây lãng phí cho xã
hội bằng các chi phí mà Doanh nghiệp bỏ ra để duy trì độc quyền.
1.2 Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
1.2.1 Khái niệm
Là những hành vi do doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí độc
quyền thực hiện nhằm củng cố vị trí độc quyền bằng cách loại bỏ doanh
nghiệp khác ra khỏi thị trường; ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác không
cho gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh hoặc nhằm thu lợi nhuận độc
quyền bằng cách bóc lột khách hàng.
7
1.2.2. Các đặc điểm của hành vi lạm dụng ví trí độc quyền
▪ Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị
trường liên quan.
Vị trí độc quyền đem lại cho doanh nghiệp quyền lực thị trường và khả
năng chi phối các quan hệ trên thị trường.Quyền lực thị trường ở đây chính là
lợi thế về cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác: Nguồn nguyên liệu, giá
cả, số lượng sản phẩm đáp ứng cho người tiêu dùng, khả năng tài chính, thói
quen tiêu dùng của khách hàng…Đối với khách hàng, quyền lựa chọn của
khách hàng đã bị hạn chế, nhu cầu của khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng
đáp ứng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có cơ hội để bóc lột bằng cách đặt
ra những điều kiện giao dịch không công bằng.
▪ Doanh nghiệp có vị trí độc quyền đã hoặc đang thực hiện hành vi hạn
chế cạnh tranh được quy định trong luật cạnh tranh.
Điều 13 và Điều 14 luật cạnh tranh nghiêm cấm doanh nghiệp có vị trí
độc quyền thực hiện các hành vi sau:
o Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại
bỏ đối thủ cạnh tranh;
o Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định

giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng
o Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường,
cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
o Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau
nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;
o Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
o Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh
mới.
8
o Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
o Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp
đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.
Với các quy định tại điều 13 và 14 luật cạnh tranh có thể kết luận rằng
cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể xử lý doanh nghiệp vì hành vi lạm dụng vị
trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh khi chứng mình đủ hai điều kiện sau:
Một: doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp bị điều tra có vị trí độc quyền
Hai: doanh nghiệp đó đã, đang thực hiện một trong những hành vi hạn
chế cạnh tranh nêu trong điều 13, 14 luật cạnh tranh.
Về bản chất, lạm dụng vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh là việc
các doanh nghiệp đã khai thác lợi thế mà quyền lực thị trường đem lại trong
quan hệ với khách hàng để áp đặt những điều kiện giao dịch bất lợi cho khách
hàng như áp đặt giá bán cao, áp đặt giá mua thấp, áp đặt các điều kiện mua
bán bất hợp lý…. Do đó, cạnh tranh đã không có cơ hội phát huy tác dụng với
thị trường nói chung và đối với khách hàng, đối vơi người tiêu dùng nói riêng.
Trong quan hệ cạnh tranh với đối thủ, các doanh nghiệp đã sử dụng lợi thế mà
quyền lực thị trường đem lại để thực hiện các chiến lược cạnh tranh nhằm
chèn ép, ngăn cản việc gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh tiềm năng.
Trong những trường hợp này, doanh nghiệp đã làm giảm, làm cản trở sự phát

triển tình trạng cạnh tranh trên thị trường. Dưới góc độ kinh tế, các doanh
nghiệp thực hiện hành đã khai thác sự yếu thế của khách hàng; của đối thủ để
củng cố, duy trì vị trí hiện tại trên thị trường. Dưới góc độ pháp lý, khi thực
hiện hành vi lạm dụng, các doanh nghiệp đã vi phạm nghĩa vụ đặc thù của
doanh nghiệp có vị trí độc quyền “không được làm giảm mức độ cạnh tranh
hiện có trên thị trường”.
▪ Hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí độc quyền là làm sai lệch, làm
cản trở hoặc giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan.
Đặc điểm này cho thấy tác hại của hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
đối với thị trường. Doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng nhằm duy trì,
9
củng cố vị trí hiện có hoặc nhằm thu lợi ích độc quyền từ bóc lột khách hàng.
Do đó, việc thực hiện hành vi có thể gây ra những thiệt hại cho một số đối
tượng cụ thể, song nghiêm trọng hơn là làm suy giảm, cản trở tình trạng cạnh
tranh của thị trường. Khi điều tra vụ việc lạm dụng vị trí độc quyền, cơ quan
có thẩm quyền cần chứng minh các vấn đề như: Doanh nghiệp bị điều tra có
vị trí độc quyền ; Doanh nghiệp bị điều tra đã hoặc đang thực hiện hành vi
lạm dụng quy định tại điều 13, 14.
2. Các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Điều 14, Luật Cạnh tranh năm 2004: Các hành vi lạm dụng vị trí độc
quyền bị cấm
Cấm doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện hành vi sau đây:
1. Các hành vi quy định tại điều 13 của luật này;
2. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
3. Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp
đồng đã giao kết mà không có lí do chính đáng.
2.1. Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh.(còn gọi là hành vi định giá cướp đoạt hoặc
hành vi định giá hủy diệt)
Theo điều 23 nghị định 116/2005/NĐ – CP quy định “trừ những trường

hợp đặc biệt, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán hàng dưới mức giá thấp hơn tổng các
chi phí sau đây:
• Chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ theo quy
định của pháp luật hoặc giá mua hàng hóa để bán lại.
• Chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật”
 Giá thành toàn bộ được hiểu là mức giá cơ bản được cấu thành từ
các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông…của sản phẩm và
được các doanh nghiệp sử dụng làm căn cứ để căn cứ xác định giá bán hàng
hóa, dịch vụ của mình.
10
Bản chất phi kinh tế của hành vi được thể hiện: là hành vi mà một
doanh nghiệp có vị trí độc quyền lợi dụng vị trí và khả năng tài chính của
mình đã chấp nhận lỗ hoặc chấp nhận hy sinh lợi nhuận mà áp dụng giá bán
trên thực tế thấp hơn giá thành toàn bộ mà doanh nghiệp phải bỏ ra để cấu
thành nên sản phẩm.
Khi một doanh nghiệp có vị trí độc quyền đã giảm giá bán sản phẩm
trên một thị trường liên quan thì các doanh nghiệp ở các thị trường khác
hay là những nhà đầu tư có ý định tham gia vào thị trường liên quan của
doanh nghiệp sẽ khó có thể gia nhập hay sẽ hạn chế đầu tư vào thị trường
liên quan đó.
Tương lai gần của doanh nghiệp khi thực hiện hành vi: Có thể trong
một thời gian nhất định mà doanh nghiệp thực hiện hành vi đó chấp nhận rủi
ro, chấp nhận thua lỗ. Nhưng doanh nghiệp đã tính toán với mức giá đó thì
doanh nghiệp sẽ hy sinh lợi nhuận hay lỗ một mức giá phù hộp để khi cũng cố
được vị trí độc quyền của mình thì doanh nghiệp đó có đủ khả năng để lấy lại
những thua lỗ đó.Vậy nên, doanh nghiệp mới chấp nhận hy sinh lợi nhuận để
lấy và giữ vị trí độc quyền của mình tại một thị trường liên quan.
- Hậu quả:
+ Đối với các doanh nghiệp khác hoặc những nhà đầu tư: Không có cơ

hội gia nhập vào thị trường liên quan.
+ Đối với người tiêu dùng: Làm mất đi cơ hội có được sự lựa chọn
trong giao dịch trên thị trường liên quan.
Trên một thị trường liên quan có một doanh nghiệp có vị trí độc quyền
thì để đáp ứng nhu cầu của mình buộc người tiêu dung phải chịu sự lệ thuộc
bởi doanh nghiệp đó. Khi có sự lệ thuộc thì doanh nghiệp có thể bóc lột người
tiêu dùng bằng cách đánh giá sản phẩm, giảm sản lượng cung ứng…
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam có đề cập đến những trường hợp bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ song không có mục đích
hủy diệt đối thủ. Khoản 2 điều 23 Nghị Định số 116/2005/NĐ-CP liệt kê
11
những “hành vi không được coi là bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh bao gồm:
• Hạ giá bán hàng hóa tươi sống;
• Hạ giá bán hàng hóa tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình
thức, không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
• Hạ giá bán hàng hóa theo mùa vụ.
• Hạ giá bán hàng hóa trong chương trình khuyến mại theo quy
định của pháp luật.
• Hạ giá bán hàng hóa trong trường hợp phá sản, giải thể, chấm
dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh, thay đổi địa điểm, chuyển hướng sản
xuất, kinh doanh”.
Ví dụ:
Doanh nghiệp A kinh doanh mặt hàng bút bi, doanh nghiệp A đang
có vị trí độc quyền tại khu vực A1. Doanh nghiệp B đang có ý định tham
gia vào lĩnh vực này. Trong tháng 1/2012 và tháng 2/ 2012, doanh nghiệp
A đã sản xuất 2 lô hàng với chất lượng và chi phi mà doanh nghiệp phải
bỏ ra như các lô hàng trước đó. Giá thành toàn bộ 1cây bút bi là 1700đ/1
cái, nhưng doanh nghiệp A lại bán giá giá trên thực tế là 1500đ/1 cái
trong thời gian là 2 tháng trên.

Ta thấy hành vi mà DN A đã bán bút dưới giá thành toàn bộ của mình
nhằm hạn chế sự gia nhập của những nhà doanh nghiệp muốn gia nhập vào thị
trường bút bi và muốn củng cố thêm vị trí độc quyền của mình trong thị
trường bút bi tại khu vực A1.
2.2. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn
định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.
- Bản chất của hành vi:
+ Tác động trực tiếp vào giá của hàng hóa, dịch vụ trong giao dịch với
khách hàng.
12
Doanh nghiệp có vị trí độc quyền tác động trực tiếp vào giá của hàng
hóa, dịch vụ trong giao dịch với khách hàng trong việc doanh nghiệp áp đặt
giá mua đối với nguyên vật liệu hay chính là sản phẩm đầu vào của doanh
nghiệp và giá bán đối với sản phẩm của chính doanh nghiệp đó.
Khoản 1 điều 27 Nghị Định 116/NĐ-CP quy định: “Hành vi áp đặt giá
mua hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng
nếu giá mua tại cùng thị trường liên quan được đặt ra thấp hơn giá thành sản
xuất hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện sau đây:
• Chất lượng hàng hóa, dịch vụ đặt mua không kém hơn chất
lượng hàng hóa, dịch vụ đã mua trước đó.
• Không có khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa hoặc biến
động bất thường làm giá bán buôn hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trên thị
trường liên quan giảm tới mức dưới giá thành sản xuất trong thời gian tối
thiểu 60 ngày liên tiếp so với trước đó.”
Doanh nghiệp có vị trí độc quyền lạm dụng vị trí của mình đã áp đặt và
khống chế giá mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào bất hợp lý đã buộc khách hàng
phải chấp nhận lỗ để tiêu thụ được sản phẩm mà không có lý do chính đáng.
Khoản 2 điều 27 Nghị Định 116/ NĐ-CP quy định: “Hành vi áp đặt
giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách
hàng nếu cầu về hàng hóa, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá

công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và thõa mãn
hai điều kiện sau đây:
• Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời
gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5% hoặc
tăng nhiều lần với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng
thời gian tối thiểu đó.
• Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng
hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước
khi bắt đầu tăng giá.”
13
Các doanh nghiệp có vị trí độc quyền đã áp đặt và khống chế giá bán
các sản phẩm của mình ra thị trường với giá bất hợp lý mà buộc khách hàng
phải lệ thuộc bởi giá bán đó của doanh nghiệp. Lạm dụng vị trí độc quyền
trong một thị trường liên quan chỉ có duy nhất một sản phẩm của mình, theo
nhu cầu thì buộc người mua phải lệ thuộc vào doanh nghiệp nên doanh nghiệp
đã có hành vi áp đặt giá bán.
+ Thể hiện chiến lược phân phối, chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp:
Khoản 3 điều 27 Nghị Định 116/NĐ-CP quy định: “Ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là việc khống chế không cho phép các
nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hóa thấp hơn mức giá đã quy định
trước.”
Ấn định giá bán lại là thỏa thuận dọc giữa nhà sản xuất với người phân
phối sản phẩm của họ. Các chủ thể này ở cấp độ khác nhau của quá trình sản
xuất , phân phối sản phẩm. Giá bán lại là kết quả của sự áp đặt của nhà sản
xuất đối với người phân phối, thiếu vắng yếu tố tự nguyện,tự do ý chí của
ngưới phân phối trong việc xác định mức giá bán lại . Theo đó, với vị trí độc
quyền thì doanh nghiệp không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ
bán lại hàng hóa thấp hơn mức đã quy định trước. Nhà phân phối và nhà bán
lẻ chỉ còn có thể bán lại hàng hóa với giá bằng hoặc cao hơn mức giá sàn đã

được doanh nghiệp ấn định. Với hành vi này doanh nghiệp đã không gây thiệt
hại trực tiếp cho nhà phân phối, các nhà bán lẻ mà buộc họ phải hợp tác với
mình để bóc lột khách hàng mua lại hàng hóa.
+ Mang bản chất áp đặt và bóc lột khách hàng.
Doanh nghiệp có vị trí độc quyền lạm dụng vị trí độc quyền của mình
đã thu lợi nhuận về cho doanh nghiệp bằng khả năng không chế các yếu tố thị
trường để áp đặt giá cả cho khách hàng như nguyên vật liệu, nguồn cung…
Điều này cho thấy được bản chất bóc lột của hành vi lạm dụng bởi các khoản
lợi ích mà doanh nghiệp thu được là do bóc lột từ khách hàng.
14
• Hậu quả của hành vi.
+ Khách hàng bị bóc lột với sản phẩm, hàng hóa của mình khi bị một
doanh nghiệp có vị trí độc quyền áp đặt về giá.
+ Người tiêu dùng không có sự lựa chọn hoặc thỏa thuận về giá cả.
Ví dụ:
Doanh nghiệp X là nhà máy sản xuất đường, doanh nghiệp X có vị trí
độc quyền tại khu vực D. Doanh nghiệp X đã lạm dụng vị trí độc quyền của
mình đã áp đặt giá mua mía đối với người dân tại khu vực D với giá là 500đ/1
cây. Trong khi giá thành toàn bộ mà người dân phải bỏ ra là 600đ/1 cây .
Nhưng vì nếu không bán cho doanh nghiệp X thì người dân sẽ không biết
bán cho ai với khối lượng lớn mía như thế. Vậy nên buộc người dân phải bán
cho doanh nghiệp X với giá 500d/ 1 cây.
Cùng với đó khi phân phối sản phẩm của mình là đường cho các nhà
phân phối, các nhà bán lẻ ngay tại khu vực D thì doanh nghiệp X áp đặt cho
các nhà phân phối, các nhà bán lẻ với giá 22000đ/1 kg đường và buộc các nhà
phân phối không được bán thấp hơn giá đã quy định.
Hành vi mua lại giá mía của DN X đối với người dân tại khu vực D là
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền của mình và DN X đã áp đặt mức giá mua
đối với người dân khu vực D, với một mức giá bất hợp lý gây thiệt hại cho
những người dân khu vực D

Cùng với đó khi phân phối sản phẩm của mình là đường cho các nhà
phân phối, các nhà bán lẻ ngay tại khu vực D thì doanh nghiệp X áp đặt cho
các nhà phân phối, các nhà bán lẻ với giá 22000đ/1 kg đường và buộc các nhà
phân phối không được bán thấp hơn giá đã quy định.
Ví dụ EVN và vấn đề thuê cột điện
Cách đây không lâu, Tập đoàn điện lực Việt Nam và các nhà cung cấp
dịch vụ viễn thông tranh chấp về việc thuê cột điện để mắc đường dây
Internet. EVN đang độc quyền về dịch vụ cho thuê cột điện nên muốn đẩy giá
cho thuê cột lên cao. Thế nhưng các nhà viễn thông lại không chịu mức giá
15
mà EVN đưa ra. Vậy là cuộc tranh cãi “Thuê cột điện” xảy ra làm dấy lên
không ít lo lắng cho người tiêu dùng
Trong câu chuyện mà nhóm đã đưa ra ở đây, ta có thể thấy EVN đã
thực hiện hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp có vị trí độc quyền được
quy định tại khoản 2 điều 13 Luật cạnh tranh: Áp đặt giá mua, giá bán hàng
hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho
khách hàng.
2.3. Hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới
hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật,công nghệ gây thiệt hại
cho khách hàng.
Doanh nghiệp độc quyền đại diện cho khả năng cung hoặc cầu của thị
trường liên quan, các quyết định về lượng hàng hóa, dịch vụ được sản xuất,
mua, bán sẽ ảnh hưởng đến mức độ thỏa mãn nhu cầu cho khách hàng.
Nhóm hành vi này bao gồm 3 loại hành vi cụ thể sau:
• Hành vi hạn chế sản xuất,phân phối sản phẩm gây thiệt hại cho
khách hàng.
Khoản 1 điều 28 Nghị Định 116/NĐ-CP quy định: “Hạn chế sản xuất,
phân phối hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi:
• Cắt, giảm lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
liên quan so với lượng hàng hóa, dịch vụ cung ứng trước đó trong điều kiện

không có biến động lớn về quan hệ cung cầu; không có khủng hoảng kinh
tế, thiên tai, địch họa; không có sự cố lớn về kỹ thuật, hoặc không có tình
trạng khẩn cấp.
• Ấn định lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ ở mức đủ để tạo sự
khan hiếm trên thị trường;
• Găm hàng lại không bán để gây mất ổn định thị trường.”
Hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng là
hành vi giảm khả năng cung hàng hóa, dịch vụ một cách giả tạo để lung đoạn
16
thị trường, làm biến động quan hệ cung – cầu theo hướng có lợi cho doanh
nghiệp trong giao dịch với khách hàng.
Đó chính là việc các doanh nghiệp có vị trí độc quyền lạm dụng vị trí
của mình đã có những hành vi tạo sự khan hiếm sản phẩm trên thị trường
bằng chiến lược kinh doanh cắt giảm lượng hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên
thực tế xuống thấp hơn mức cung ứng.
• Hành vi giới hạn thị trường chỉ cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong
một hoặc một số khu vực địa lý nhất định.
Khoản 2 điều 28 Nghị Định 116/NĐ-CP quy định: “Giới hạn thị trường
gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi:
• Chỉ cung ứng hàng hóa,dịch vụ trong một hoặc một số khu vực
địa lý nhất định;
• Chỉ mua hàng hóa, dịch vụ từ một hoặc một số nguồn cung
nhất định trừ trường hợp các nguồn cung khác không đáp ứng được những
điều kiện hợp lý và phù hợp với tập quán thương mại thông thường do bên
mua đặt ra”.
+ Với hành vi chỉ cung ứng hàng hóa,dịch vụ và chỉ mua hàng hóa,
dịch vụ từ một hoặc một số khu vực địa lý, nguồn cung nhất định thì tức là
doanh nghiệp đang tự hạn chế thị trường giao dịch của mình. Chúng ta đặt
câu hỏi là vì sao doanh nghiệp lại tự hạn chế thị trường giao dịch của mình
như vậy??? Phải chăng vì doanh nghiệp muốn thể hiện vị trí độc quyền của

mình hay là chính doanh nghiệp đó đang muốn cũng cố và cố giữ lấy vị trí
độc quyền của mình tại một khu vực nhất định. Tạo ra một nhu cầu lớn cho
một thị trường mới để làm tiền đề cho những hàng hóa, dịch vụ sau đó.
+ Từ chối cung ứng hoặc thu hẹp phạm vi cung ứng trong những khu
vực địa lý nhất định mà không có lý do chính đáng sẽ làm mất cân đối cung
cầu theo khu vực thị trường.
• Nhóm hành vi cản trở sự phát triển kỹ thuật , công nghệ gây
thiệt hại cho khách hàng.
17
Theo khoản 3 điều 28 Nghị Định 116/NĐ-CP quy định: “Cản trở sự
phát triển kỹ thuật, công nghệ làm thiệt hại cho khách hàng là hành vi:
• Mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp để tiêu
hủy hoặc không sử dụng.
• Đe dọa hoặc ép buộc người đang nghiên cứu phát triển kỹ thuật,
công nghệ phải ngừng hoặc hủy bỏ việc nghiên cứu đó.”
+ Doanh nghiệp có vị trí độc quyền lạm dụng sự bảo hộ của pháp luật
và quyền lực thị trường cản trở ứng dụng thành quả kỹ thuật, công nghệ vào
thực tiễn bằng hành vi mua phát minh, sáng chế , giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghệ để tiêu hủy hoặc không sử dụng.
Các doanh nghiệp có vị trí độc quyền đã lạm dụng quyền bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ đối với các phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích đã mua
nhằm tiêu hủy hoặc không sử dụng, cản trở việc đưa ứng dụng thành quả kỹ
thuật vào thực tiễn.
+ Làm tê liệt khả năng sáng tạo.
Những thành tựu khoa học không được đưa vào ứng dụng làm cho khả
năng sáng tạo bị hạn chế khi các thành quả đó không được sử dụng, không
được được đưa vào để ứng dụng sẽ làm cho sự sáng tạo bị hạn chế khi không
thể biết được ưu điểm và nhược điểm của các thành tựu mới đó khi không
được đưa vào thực tiễn.Điều đó sẽ làm hạn chế sáng tạo ra những thành tựu
tốt hơn.

+ Ngăn cản quyền được hưởng thụ thành tựu sáng tạo của con người.
• Hậu quả:
+ Nhu cầu của khách hàng không được đáp ứng theo đúng khả năng
cung ứng của thị trường.
+ Sự vi phạm có thể ảnh hưởng đén sự phát triển không đồng đều về
nhu cầu hoặc về trình độ giữa các vùng thị trường khác nhau.
Ví dụ:
18
Doanh nghiệp Y sản xuất kinh doanh mặt hàng sữa tại khu vực H. Là
doanh nghiệp có vị trí độc quyền tại khu vưc H. Nhưng doanh nghiệp chỉ bán
sản phẩm của mình cho khu vực H mà từ chối bán sản phẩm của mình cho các
khu vực khác.
Hành vi DN Y lạm dụng vị trí độc quyền của mình chỉ cung cấp sản
phẩm sữa cho khu vực H là hành vi nhằm giới hạn thị trường. Dẫn đến việc
những khu vực khác sẽ không có quyền lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp
để có thể sử dụng.
2.4. Hành vi áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau cho các
giao dịch như nhau nhằm tạo sự bất bình đẳng cho khách hàng.
Điều 29 Nghị Định 116/NĐ-CP quy định: “Áp đặt điều kiện thương
mại khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng
trong cạnh tranh là hành vi phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp về điều
kiện mua, bán, giá cả, thời hạn thanh toán, số lượng trong những giao dịch
mua, bán hàng hóa, dịch vụ tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hóa,
dịch vụ để đặt một hoặc một số doanh nghiệp vào vị trí cạnh tranh có lợi hơn
so với doanh nghiệp khác.”
Doanh nghiệp độc quyền áp đặt các điều kiện khác nhau cho các giao
dịch như nhau.
• Sự như nhau của các giao dịch được thể hiện:
+ Tính tương tự của sản phẩm về giá trị của sản phẩm và tính chất của
sản phẩm.

+ Tính tương tự về giá trị của giao dịch: cùng một số lượng sản phẩm
cùng loại giao dịch là dịch vụ hoặc hàng hóa.
+ Giao dịch được xác lập ở những điều kiện thị trường như nhau, nhu
cầu thị trường của các giao dịch là giống nhau.
• Nhưng lại có sự khác nhau về điều kiện thương mại như:
+ Chất lượng của hàng hóa, dịch vụ: có thể với khách hàng này thì
doanh nghiệp có vị trí độc quyền đòi hỏi phải đáp ứng đúng 100% yêu cầu mà
19
mình đã đặt ra, nhưng cùng với mặt hàng đó nhưng doanh nghiệp lại chỉ yêu
cầu đạt khoảng 90% yêu cầu là đã được chấp nhận thực hiện giao dịch.
+ Giá: cũng tương tự như thế, có thể với khách hàng này doanh nghiệp
có vị trí độc quyền quy định một mức giá cao hoặc cũng với mặt hàng, chất
lượng đó nhưng doanh nghiệp lại giảm giá cho khách hàng khác.
+ Thời hạn thanh toán: với một khách hàng A doanh nghiệp thực hiện
giao dịch và yêu cầu thời hạn thanh toán là 1 tháng sau khi thực hiện giao
dịch. Nhưng cũng với loại hàng hóa đó nhưng doanh nghiệp lại yêu cầu thời
hạn thanh toán là 4 tháng sau khi thực hiện giao dịch đối với khách hàng B.
• Hậu quả từ hành vi áp đặt các điều kiện thương mại khác nhau
cho các giao dịch như nhau
+ Tạo ra sự bất bình đẳng giữa các khách hàng
Các khách hàng là đối thủ cạnh tranh của nhau, là chủ thể kinh doanh
trên cùng một thị trường liên quan.
+ Sự bất bình đẳng thể hiện việc tạo ra ưu thế hoặc tình trạng bất lợi.
Việc phân biệt đối xử tạo ra những ưu thế cho một số khách hàng so
với các khách hàng khác.vi dụ như khi được kéo dài thời hạn thanh toán thì số
tiền mình phải trả cho doanh nghiệp độc quyền đó trong thời hạn thanh toán
mình có thể sử dụng để xoay vòng vốn và phát triển mặt hàng khác.
Việc phân biệt đối xử tạo ra những tình trạng bất lợi hơn của một hoặc
một số khách hàng so với những khách hàng khác. Ví dụ như khi thực hiện
giao dịch với doanh nghiệp có vị trí độc quyền với giá cao hơn so với một

khách hàng khác cùng thị trường liên quan cũng thực hiện giao dịch với
doanh nghiệp này thì khi bán sản phẩm phần lợi nhuận của khách hàng sẽ bị
hạn chế hơn.
Ví dụ: Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán nhiên liệu bay giữa
Vinapco (độc quyền) và PA, Vinapco đã tăng mức giá cung ứng từ 593
ngàn/tấn lên 750 ngàn/tấn. Điều đáng quan tâm ở đây là trong đợt tăng phí
nạp nhiên liệu lần này, Vinapco không hề thông báo hay yêu cầu tăng mức
20
phí tra nạp nhiên liệu cho các máy bay của hãng hàng không Vietnam
Airlines(Tổng công ty hàng không Việt Nam).
Trong ví dụ trên ta thấy doanh nghiệp độc quyền là Vinapco, hàng hóa
là nhiên liệu bay, khách hàng là PA và VNA. Điều kiện thuơng mại khác
nhau trong giao dịch như nhau ở đây là yêu cầu tăng giá của Vinapco chỉ
được áp dụng với PA mà không áp dụng với VNA.
2.5. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác kí kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các điều
kiện không liên quan đến hợp đồng.
Dấu hiệu nhận dạng của các hành vi đó chính là việc hành vi phản ánh
chiến lược phân phối có chủ đích và mang tính áp đặt của doanh nghiệp độc
quyền.
Bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi được thể hiện thông qua một
số cơ sở như: Giới hạn quyền của DN trong việc đặt ra các điều kiện trong
giao dịch nhằm nâng cao tính khả thi và hiệu quả mà giao dịch đem lại cho
các bên. Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ kinh tế dân sự và sự bất lợi của
khách hàng hoặc của đối thủ cạnh tranh được xem là sự nguy hại thực tế của
hành vi vi phạm
Ở đây ta thấy có hai nhóm hành vi bao gồm:
Nhóm hành vi áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác kí kết hợp đồng
mua, bán hàng hoá, dịch vụ. Theo khoản 1 Điều 30 Nghị định 116 thì Áp đặt
cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ

là việc đặt điều kiện tiên quyết sau đây trước khi ký kết hợp đồng:
a) Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung cứng dịch
vụ khác không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy
định của pháp luật về đại lý;
b) Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc
danh mục mặt hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh
theo quy định của pháp luật;
21
c) Hạn chế về khách hàng mua hàng hóa để bán lại, trừ những hàng hóa
quy định tại điểm b khoản này;
d) Hạn chế về hình thức, số lượng hàng hoá được cung cấp.
Nhóm hành vi buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các điều kiện không
liên quan đến hợp đồng. Khoản 2 nghị định số 116/2005/NĐ-CP cũng có quy
định tương tự như sau: “buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ
không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là hành vi gắn việc
mua bán hàng hoá , dịch vụ là đối tượng của hợp đồng việc phải mua hàng
hoá dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người chỉ định trước hoặc thực hiện
thêm một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng”
Với hành vi buộc các doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng , doanh nghiệp đã bắt buộc
khách hàng phải mua thêm hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc từ
người thứ 3 được chỉ định.
Qua đây ta có thể nhận thấy rõ doanh nghiệp có vị trí độc quyền đã
hình thành nên các hợp đồng mua bán kèm theo để làm điều kiện thực hiện
hợp đồng mua bán liên quan đến đối tượng trực tiếp mà khách hàng cần . Các
đối tượng có trong hợp đồng đi kèm không phải là những nghĩa vụ phát sinh
từ hợp đồng chính và các đối tượng giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ
không liên quan đến nhau mà do doanh nghiệp có vị trí độc quyền tự ý đặt ra
cho khách hàng, buộc khách hàng phải mua thêm sản phẩm phụ hoặc phải
thực hiện thêm những nghĩa vụ nếu muốn mua bán hàng hoá với doanh

nghiệp có vị trí độc quyền.
Ví dụ: Doanh nghiệp MGS là doanh nghiệp độc quyền trong lĩnh vực
nhập khẩu phim từ hollywood. Mới đây MGS đã yêu cầu các rạp chiếu phim
phải thuê thêm một phim khác kèm theo phim muốn thuê. Ví dụ muốn thuê
phim Harry Poter(bom tấn) thì phải thuê thêm phim Ice Age. Ta thấy Doanh
nghiệp độc quyền ở đây là MGS, điều kiện khác ở đây là phải thuê thêm
22
phim. Dấu hiệu áp đặt cấu thành ở đây là: Nếu không đồng ý sẽ không được
thuê phim .
2.6. Hành vi ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ
cạnh tranh mới
Đối tượng hướng đến của hành vi là những đối thủ cạnh tranh mới (DN
tiềm năng). Hành vi được thực hiện nhằm mục đích ngăn cản các đối thủ cạnh
tranh tiềm năng gia nhập thị trường. Việc ngăn cản được thực hiện bằng thủ
đọan tạo ra các rào cản cho sự gia nhập thị trường của đối thủ
Theo Điều 31 nghị định 116/2005 thì ngăn cản việc tham gia thị trường
của những đối thủ cạnh tranh mới là hành vi tạo ra những rào cản sau đây:
Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới;
Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp
nhận phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới; Bán hàng hóa
với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị trường
nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 23 của Nghị định này.
Đối với doanh nghiệp có vị trí độc quyền nhằm củng cố vị trí độc tôn
trên thị trường họ phải tìm mọi cách để giữ vững vị trí này, đây không phải là
phương hướng kinh doanh sản xuất, mà đây là các hành vi mang tính chiến
lược để nhằm củng cố địa vị độc quyền của doanh nghiệp làm cho doanh
nghiệp không phải cạnh tranh với bất cứ ai trên thị trường
Thông thường các doanh ngiệp có vị trí độc quyền ngăn cản việc tham
gia thị trường bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể để được gia nhập thị
trường hoặc hạ giá thành các sản phẩm , các hành vi phân biệt đối xử thiết lập

cạnh tranh không lành mạnh và thiết lập sự phân biệt đối xử về giá tức là một
mặt hàng có công dụng như nhau nhưng được bán với giá thấp hơn hoặc khác
nhau cho người tiêu dùng. Việc phân biệt về giá còn được thể hiện ở việc các
doanh nghiệp độc quyền sử dụng hàng loại các biện pháp khuyến mãi về giá
đối với những nhóm người mua cụ thể hoạt động trên địa bàn cụ thể nhằm
23
đánh bật đối thủ hoặc cản trở đối thủ khi gia nhập thị trường để tạo vị thế độc
quyền.
Ví dụ: Theo thông tin từ Ông Đỗ Mai, phó giám đốc Sở Công
Thương Vĩnh Phúc chia sẻ trên báo KH&ĐS vào ngày 02/07/2011 thì:
“Năm vừa rồi, bên điện lực tuyên bố sẽ không nhận lưới điện do chúng tôi
đầu tư bằng nguồn vốn của Ngân hàng Thế giới. Rõ ràng, hiện nay họ đang ép
bằng chính sách để các doanh nghiệp không tồn tại được nữa và phải bàn
giao”.
Tuy Độc quyền của ngành điện được xếp vào độc quyền tự nhiên, tức
là rất khó thiết lập một cơ chế cạnh tranh khi mạng lưới thống nhất, do một
ngành quản lý. Nhưng theo chủ trương của Luật điện lực theo khoản 1 điều 17
quy định Bảo đảm công khai, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, không phân
biệt đối xử giữa các đối tượng tham gia thị trường điện lực.
Như vậy, ta có thể thấy hành vi của EVN đã có những hành vi vi phạm
pháp luật cạnh tranh quy định tại khoản 6 Điều 13 Luật cạnh tranh: Ngăn cản
việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới. Hành vi mà EVN
đưa ra đối với các bên muốn tham gia vào trị trường điện đưa ra ở đây là
không nhận lưới điện. Một khi bên tham gia không được hòa vào lưới điện
quốc gia thì cũng đồng nghĩa với việc không được đối xử một cách bình đẳng,
bên đó sẽ không thể tham gia vào thị trường.
2.7. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng.
Là hành vi buộc khách hàng phải chấp nhận vô điều kiện những nghĩa
vụ gây khó khăn cho khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Hành vi này còn được cụ thể hoá trong điều 32 của Nghị định

116/2005/NĐ-CP “Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng của doanh
nghiệp có vị trí độc quyền là hành vi buộc khách hàng phải chấp nhận vô điều
kiện những nghĩa vụ gây khó khăn cho khách hàng trong qua trình thực hiện
hợp đồng”.
24
Hành vi được thực hiện trong các giao dịch giữa DN độc quyền với
khách hàng. Nội dung của hành vi là áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng.
Một đặc điểm dễ nhận ra trong những giao dịch này đó chính là sự bất cân
xứng về vị trí của các bên. Điều kiện bất lợi là những nghĩa vụ gây khó khăn
cho k/h trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Hành vi là sự áp đặt của DN độc quyền đối với khách hàng: Doanh
nghiệp buộc khách hàng phải chấp nhận vô điều kiện những nghĩa vụ bất hợp
lý. Gây khó khăn để trục lợi => bản chất bóc lột của hành vi được thể hiện.
Thông thường các doanh nghiệp độc quyền thường thiết lập giá huỷ
điệt, giá bóc lột đối với khách hàng khi giao thương về sản phẩm , ngoài ra
còn các doanh nghiệp còn có 1 số hành vi như thiết lập vào áp đặt mang lưới
phân phối độc quyền cho khách hàng hoặc phân biệt đối xử.
Đối với hành vi này ta có thể xem xét ví dụ sau để làm sáng tỏ hành vi
áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hành là như thế nào:
Đơn vị phân phối giải ngoại hạng Anh ở nuớc ngoài là MP&Silva với
K+(là nhà đài việt nam ) việc mua lại bản quyền phát hành giải bóng đá ngoại
hạng Anh bằng một hợp đồng trong đó quy định K+ phải độc quyền phát sóng
và không được chia sẻ hoặc chuyển nhượng quyền này cho bất cứ một nhà đài
nào khác. K+ đã lợi dụng điều này áp đặt giá cho khách hàng muốn xem giải
ngoại hạng Anh với mức chi phí người tiêu dùng phải nộp là phí thuê bao
250.000 đông/ 1tháng và tiền mua đầu thu là 1,500,000 đông. Mức chi phí
này cao hơn rất nhiều so với mức chi phí trước đây mà người tiêu dùng phải
trả. Đồng thời buộc người tiêu dùng chỉ có lựa chọn duy nhất là mua dịch vụ
của K+ với mức phí ấn định không có mặc cả hay đàm phán. K+ đã áp đặt
điêù kiện bất lợi cụ thể là về giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng khi đưa giá

quá cao bất hợp lý ở đây ta có thể thấy rõ hành vi áp đặt điều kiện bất lợi cho
khách hàng của K+ ở chỗ lợi dụng việc độc quyền phát sóng giải ngoại hạng
Anh mà trong hợp đồng với đối tác đã ghi , K+ đã áp đặt giá chi phí cho
người tiêu dùng để được xem giải ngoại hạng Anh để thực hiện hành vi này
25

×