Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
LỜI CAM ĐOAN:
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi;
Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ
tình hình thực tế của đơn vị.
Tác giả khóa luận:
Lê Thị Thanh Hương
Lớp: Đ4CT1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này tôi xin cám ơn sự giúp đỡ của các cán bộ
Cục PCTNXH đã tạo mọi điều kiện để tôi được đi tìm hiểu thực tế TTGDLĐXH
số II- Hà Nội cũng như việc cung cấp những tài liệu cần thiết liên quan tới đề
tài nghiên cứu của mình. Qua đây tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới
tập thể cán bộ và các học viên là gái mại dâm của TTGDLĐXH số II- Hà Nội
đã hỗ trợ tôi trong quá trình nghiên cứu bài khóa luận.
Đồng thời tôi cũng muốn gửi lời cám ơn chân thành tới các thầy cô giáo
khoa CTXH đã giảng dạy tôi suốt thời gian 4 năm qua. Đặc biệt, tôi muốn gửi
lời cám ơn sâu sắc tới cô giáo Th.s Tiêu Thị Minh Hường đã dành nhiều thời
gian, tận tình hưởng dẫn tôi kể từ khi bắt đầu cho tới khi hoàn thành bài khóa
luận này.
Dù đã nỗ lực cố gắng và say mê tìm hiểu nghiên cứu nhưng do thời gian
cũng như kiến thức,năng lực và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên bài
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được
nhiều ý kiến đóng góp và sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Lê Thị Thanh Hương
Lớp: Đ4CT1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
STT Tên bảng số liệu Trang
Bảng 1 Số lượng gái mại dâm được tiếp nhận tại Trung tâm
GDLĐXH số II- Hà Nội
23
Bảng 2 Nhận thức của gái mại dâm về cuộc sống hiện tại theo
độ tuổi
29
Bảng 3 Mức độ khó khăn tâm lý của GMD đang phải đối mặt
theo độ tuổi
32
Bảng 4 Nội dung những khó khăn tâm lý của GMD và tần suất
của những nội dung đó
35
Bảng 5 Mức độ ảnh hưởng của những khó khăn tâm lý tới GMD
theo trình độ học vấn
38
Bảng 6 Những cách thức giải quyết khó khăn tâm lý của GMD
theo trình độ học vấn
41
Bảng 7 Hiệu quả của những cách thức giải quyết những khó
khăn tâm lý của gái mại dâm
44
Bảng 8 Nguyên nhân cản trở GMD tiếp cận với các dịch vụ tham
vấn tâm lý
46
Bảng 9 Nội dung nhu cầu tham vấn tâm lý của gái mại dâm
trong Trung tâm GDLĐXH
51
Bảng 10 Mức độ hiệu quả khi sử dụng dịch vụ tham vấn tâm lý
trong Trung tâm GDLĐXH
55
Bảng 11 Dự định của học viên là GMD sau khi hết thời gian ở lại
Trung tâm
57
Lớp: Đ4CT1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1 Hoàn cảnh gia đình của GMD trong Trung tâm 25
Biểu đồ 2 Cơ cấu độ tuổi của GMD trong Trung tâm 26
Biểu đồ 3 Trình độ học vấn của GMD trong Trung tâm 27
Lớp: Đ4CT1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI KHÓA LUẬN:
GDLĐXH Giáo dục lao động xã hội.
CNH-HĐH Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
TNXH Tệ nạn xã hội
GMD Gái mại dâm
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TC- CĐ- ĐH Trung cấp, cao đẳng, đại học
CTXH Công tác xã hội
Lớp: Đ4CT1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
MỤC LỤC
Lớp: Đ4CT1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài.
Đất nước sau gần 20 năm đổi mới đã gắt hái được không ít những thành
công trên nhiều lĩnh vực như kinh tế - chính trị - văn hóa cũng như quan hệ
quốc tế, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên bên
cạnh những thành công đó thì Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những mặt
trái của nền kinh tế thị trường mang lại đặc biệt là các tệ nạn xã hội. Đảng và
Nhà Nước đã có nhiều chính sách, chương trình hành động cũng như biện pháp
để phòng, chống nhưng hiệu quả thu được chưa thực sự cao. Một trong những
tệ nạn đang trở thành điểm nóng được cả xã hội quan tâm chính là tệ nạn mại
dâm. Chính sự phát triển của công nghệ thông tin cũng như những thủ đoạn tinh
vi của hoạt động mại dâm cùng với sức ép của tình trạng thiếu việc làm, sự
xuống cấp về lối sống đạo đức khiến cho việc phòng, chống tệ nạn này gặp
không ít khó khăn. Và mại dâm đang thực sự trở thành một vấn nạn khi con số
này đang ngày càng tăng nhanh. Theo báo cáo chưa đầy đủ của các cơ quan
chức năng thì năm 2010 có khoảng 30.900 người bán dâm, tăng 0,9% so với
năm 2003, cả nước hiện có 63.827 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm, năm
2011 là 50.630 người bán dâm và 67.960 cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm.
Thực tế thì con số này không phải là con số chính xác mà còn nhiều hơn nữa.
Những kẻ ăn theo dịch vụ này cũng dần tăng lên với nhiều hình thức che mắt cơ
quan chức năng đầy tinh vi và xảo quyệt.
Để hạn chế sự gia tăng của tệ nạn mại dâm cần sự phối kết hợp của nhiều
biện pháp tích cực, sự quan tâm vào cuộc của nhiều cơ quan, tổ chức ban ngành
cũng như sự chung tay của cộng đồng dân cư. Bởi hoạt động mại dâm len lỏi ở
trong mỗi con hẻm, đường phố đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh, Hải Phòng…và các trung tâm thương mại, khu du lịch hay vùng
kinh tế trọng điểm…Như vậy có thể thấy được rằng mại dâm đang trở thành
một vấn nạn của xã hội, rất cần sự quan tâm nghiên cứu để tìm ra các biện pháp
thích hợp để kìm hãm tệ nạn này, có rất nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này
với những nội dung quan tâm khác nhau như tìm kiếm biện pháp tích cực cho
phòng, chống tệ nạn mại dâm hay vai trò của cán bộ quản lý các cấp đối với
công cuộc phòng chống mại dâm và trong những năm gần đây các đề tài nghiên
cứu về mại dâm bắt đầu đi theo một hướng mới đó là đi sâu vào việc giúp gái
Lớp: Đ4CT1
1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
mại dâm phòng ngừa và giảm thiểu những nguy cơ mắc bệnh hay trợ giúp trong
việc tái hòa nhập cộng đồng, tiếp cận các dịch vụ y tế và một vấn đề quan trọng
không kém là hỗ trợ tham vấn tâm lý cho gái mại dâm khi họ cần sự giúp đỡ
bởi họ cũng là những con người, họ cũng cần sự cảm thông chia sẻ để giúp họ
có thể nhận thức được những hành vi sai trái của mình và cho họ một cơ hội
được làm lại cuộc đời đã từng lầm lỗi.
Xuất pháp từ nhu cầu thực tiễn, là một sinh viên khoa CTXH tôi xin được
lựa chọn đề tài “ Nhu cầu tham vấn tâm lý của gái mại dâm trong trung tâm
giáo dục lao động xã hội” làm đề tài viết khóa luận tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm hiểu một số cơ sở lý luận có liên quan tới gái mại dâm, nhu cầu
tham vấn tâm lý của gái mại dâm.
- Đánh giá thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của gái mại dâm.
- Bước đầu tập nghiên cứu khoa học của sinh viên, học hỏi kinh nghiệm
về nghiên cứu khoa học và phát triển nó trong nghề nghiệp sau này.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Thực trạng nhu cầu tâm lý của gái mại dâm trong Trung tâm giáo dục lao
động xã hội.
4. Khách thể nghiên cứu:
50 học viên trong Trung tâm giáo dục lao động xã hội số II- Hà Nội
10 cán bộ Trung tâm giáo dục lao động xã hội số II- Hà Nội
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu một số lý luận về nhu cầu tham vấn tâm lý cho gái mại
dâm trong Trung tâm giáo dục lao động xã hội.
+ Thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý dành cho gái mại dâm tại Trung
tâm giáo dục lao động xã hội
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn: Trung tâm giáo dục lao động xã hội số II - Hà Nội thuộc Sở
Lao động- Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội
+ Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 12/2011- 5/2012
Lớp: Đ4CT1
2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Xuất phát từ yêu cầu của đề tài, tôi đã tiến hành thu thập một số tài liệu,
tư liệu có liên quan tới vấn đề nghiên cứu, nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận của
để tài. Đó là sách báo, luận văn, tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học…của các
tác giả có liên quan tới gái mại dâm, nhu cầu của họ và tham vấn.
Phương pháp điều tra bảng hỏi:
Với số lượng khách thể thuộc trình độ khác nhau, lứa tuổi khác nhau nên
tôi lựa chọn điều tra bảng hỏi là phương pháp chính để thu thập thông tin. Xây
dựng hệ thống bảng hỏi nhằm đánh giá nhu cầu tham vấn của gái mại dâm
trong Trung tâm.
Phương pháp phỏng vấn sâu:
Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu làm sáng tỏ thêm những thông tin
đã thu thập qua bảng hỏi và tìm hiểu được những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng
của gái mại dâm cũng như nhu cầu tham vấn của họ.
Đồng thời đây cũng là phương pháp tôi sử dụng để làm việc với cán bộ
quản lý, xã hội trong trung tâm.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu
theo 2 hình thức:
Thứ nhất, là những câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn nhằm cung cấp những
thông tin bổ sung cho vấn đề nghiên cứu.
Thứ hai, là những câu hỏi không được chuẩn bị sẵn mà được nảy sinh
trong quá trình điều tra. Để từ đó tạo ra bầu không khí tâm lý cởi mở, gần gũi,
giúp khách thể có điều kiện bộc lộ những tâm tư, chia sẻ những cảm xúc thầm
kín của mình, góp phần thu lại những của cuộc phỏng vấn một cách chân thực
nhất.
Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học:
Trong nghiên cứu của mình tôi đã sử dụng các phương pháp xử lý số liệu
toán học nhằm đánh giá tỷ lệ phần trăm các mức độ.
7. Kết cấu của khóa luận.
Khóa luận được chia làm 3 phần:
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Lớp: Đ4CT1
3
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
Chương I: Cơ sở lý luận về nhu cầu tham vấn tâm lý của gái mại dâm
trong Trung tâm giáo dục lao động xã hội:
1.1 Nhu cầu và phân loại nhu cầu
1.2 Gái mại dâm, đặc điểm tâm lý và nhu cầu của gái mại dâm.
1.3Tham vấn, tham vấn tâm lý và nhu cầu tham vấn tâm lý cho gái mại
dâm.
1.4 Quan điểm của Việt Nam về tệ nạn mại dâm
Chương II. Thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của gái mại dâm trong
trung tâm giáo dục lao động xã hội số II- Hà Nội.
2.1 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
2.2 Nhận thức của gái mại dâm về cuộc sống thực tại và mức độ khó
khăn tâm lý mà gái mại dâm đang phải đối mặt.
2.3 Những cách thức giải quyết khó khăn tâm lý của gái mại dâm
2.4 Nhu cầu tham vấn tâm lý của gái mại dâm trong Trung tâm giáo dục
lao động xã hội số II- Hà Nội.
2.5 Mô hình tham vấn tâm lý cho gái mại dâm trong Trung tâm
GDLĐXH số II- Hà Nội
Chương III: Một số kết luận và khuyến nghị
3.1 Kết luận
3.2 Khuyến nghị
C. Lời kết
Lớp: Đ4CT1
4
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ
CỦA GÁI MẠI DÂM TRONG TRUNG TÂM GDLĐXH.
1.1. Nhu cầu và phân loại nhu cầu
1.1.1. Định nghĩa nhu cầu:
Trên thế giới hiện nay có nhiều định nghĩa về nhu cầu và nhiều cách hiểu
về nhu cầu, mỗi cá nhân tồn tại đều có nhu cầu và mức độ thỏa mãn là không
giống nhau tùy thuộc vào mỗi cá nhân,
Theo A.G.loovaliop : “ Nhu cầu là sự đòi hỏi của các cá nhân và của nhóm
xã hội khác muốn có những điều kiện nhất định để sống và tồn tại. Nhu cầu
quyết định sự hoạt động xã hội của cá nhân, các giai cấp và tập thể”. Như vậy
có thể nói dù là nhu cầu của cá nhân hay nhu cầu của xã hội thì nó vẫn là sự
biểu hiện mối quan hệ tích cực của con người đối với hoàn cảnh sống.
Theo từ điển tâm lý do tiến sỹ Vũ Dũng chủ biên thì: “ Nhu cầu là trạng
thái của cá nhân xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cho biết sự tồn
tại cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó là nguồn gốc tính tích
cực của cá nhân.”
Theo quan điểm của Mác- LêNin: “ Nhu cầu là những đòi hỏi khách quan
của mỗi con người trong những điều kiện nhất định đảm bảo cho sự phát triển
của mình”. Như vậy theo quan điểm này thì có thể hiểu nhu cầu chính là
nguyên nhân khởi đầu cho những hoạt động khác nhau của con người, là thuộc
tính tâm lý cá nhân, là một yếu tố trong nhóm xu hướng của cấu trúc nhân cách.
Một thực tế cho thấy rằng khi đời sống càng nâng cao, con người được
thỏa mãn nhưng nhu cầu này thì trong họ sẽ phát sinh thêm những nhu cầu khác
và họ sẽ tìm cách để thõa mãn được nó. Tâm lý của mỗi cá nhân khác nhau,
điều kiện kinh tế và hoàn cảnh không giống nhau nên những đòi hỏi đáp ứng là
khác nhau. Trong bài khóa luận này của tôi thì tôi xin được sử dụng khái niệm:
“ Nhu cầu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với hoàn
cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và
phát triển”.
Lớp: Đ4CT1
5
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
1.1.2. Phân loại nhu cầu:
Có rất nhiều cách phân loại nhu cầu nhưng trong bài khóa luận của mình,
tôi xin sử dụng cách phân loại của A.Maslow.
Theo A.Maslow thì nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ tự các
bậc thang từ nhu cầu cơ bản nhất có vị trí nền tảng và có ý nghĩa quan trọng
nhất với con người tới nhu cầu cao hơn và vị trí thứ bậc tiếp theo.
Theo cách phân loại của Maslow, con người luôn có xu hướng thỏa mãn
trước tiên những nhu cầu quan trọng nhất ở bậc thang đầu tiên rồi sau đó mới
hướng tới thõa mãn nhu cầu cao hơn ở vị trí cao hơn.
- Nhu cầu thể chất, sinh lý:
Đó là nhu cầu về đồ ăn, nước uống , không khí , nhu cầu tình dục…. nhu
cầu này được xem là nhu cầu cơ bản nhất trong nhóm nhu cầu theo sự phân
định của Maslow. Ông cho rằng, muốn tồn tại trước hết con người cần được ăn
uống, được hít thở. Nếu nhu cầu này ở con người không được đáp ứng thì sự
sinh tồn của họ sẽ bị đe dọa. Nhu cầu này của con người luôn được xem là nhu
cầu cần được sự đáp ứng trước tiên.
- Nhu cầu an toàn:
Con người cần có một môi trường sống an toàn, sức khỏe được đảm bảo
để họ tồn tại. Họ cần có nhà để ở, để tránh mưa, tránh nắng. Họ cần được sống
trong một môi trường để bảo về an ninh để tính mạng của họ không được đe
dọa. Họ cần có một môi trường sinh hoạt, vận động an toàn không gây thương
tích… Nếu như con người sống trong một môi trường luôn có sự đe dọa đến
tính mạng thì chắc chắn sự phát triển cả về mặt tâm lý cũng như thể chất của họ
sẽ bị ảnh hưởng. Con người sẽ phát triển khó khăn khi họ luôn sống trong một
môi trường không ổn định và đầy nỗi sợ hãi. Vì vậy, gia đình và xã hội có trách
nhiệm tạo ra môi trường an toàn cho cuộc sống của thành các thành viên.
- Nhu cầu tình cảm xã hội ( nhu cầu được gắn bó, yêu thương)
A.Maslow xem đó như là nhu cầu thuộc nhóm xã hội của con người, sự
mong muốn được quan tâm của các thành viên trong xóm xã hội. Con người
cần có gia đình, được tới trường để học tập và vui chơi. Trong nhóm bạn bè ở
lớp học, cần được tham gia vào các nhóm khác nhau trong xã hội. Trong nhóm,
tìm thấy vai trò, vị trí của mình, tìm thấy cảm giác về sự thừa nhận của người
khác về sự tồn tại của họ, sự quan tâm và yêu thương của các thành viên khác
nhau trong nhóm đối với họ. Nói cách khác, con người cần có quan hệ xã hội,
Lớp: Đ4CT1
6
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
họ cần được khẳng định mình trong nhóm, cần được yêu thương, quan tâm và
chăm sóc từ các thành viên khác nhóm. Mỗi người ai cũng cần có người thân,
gia đình và bạn bè. Gia đình là nhóm xã hội cơ bản nhất của con người. Tình
yêu thương đùm bọc của cha mẹ, anh chị em trong gia đình tạo cho con người
cảm giác an toàn, che chở và được bảo vệ. Con người cần được giao lưu với
những khác và hòa nhập vào các nhóm khác trong xã hội. sức mạnh của họ sẽ
được nhân lên, sự tự tin cũng sẽ được tăng cường khi họ là thành viên của các
nhóm bởi điều đó khẳng định vai trò, vị trí của họ trong xã hôi. Sự đơn độc,
không gia đình, không có nhóm xã hội nào để cá nhân thuộc về đó sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến với sự phát triển tâm lý và quan hệ xã hội của cá nhân.
- Nhu cầu được tôn trọng:
Đây cũng là nhu cầu quan trọng của con người. Con người luôn cần
được bình đẳng, được lắng nghe, không bị coi thường. Dù đó là ai, trẻ em hay
người lớn, dù người lành lặn hay người khuyết tật, người giàu hay người
nghèo… tất cả họ đều có nhu cầu được coi trọng, được ghi nhận về sự hiện diện
cũng như chính kiến của cá nhân. Con người có thể trở nên tự tin hay không,
thể hiện sức mạnh của mình hay không đó là một phần do họ được đối xử bình
đẳng hay không từ khi còn nhỏ. Sự chèn ép hoặc lấn áp với cá nhân ở bất cứ nơi
đâu, dù ở trong gia đình, cơ quan hay các môi trường khác đều gây nên những
ức chế tâm lý, sự thụ động và hạn chế khả năng đề kháng của họ. Vì vậy, ai
cũng có nhu cầu được đối xử bình đẳng, được lắng nghe và phát biếu ý kiến.
Tuy nhiên, nhu cầu này ở những người thuộc tầng lớp yếu thế trong xã hội như
người nghèo, phụ nữ, trẻ em…thường không được thực sự coi trọng.
- Nhu cầu được hoàn thiện và phát triển.
Đó là nhu cầu được đến trường, được nghiên cứu, lao động, sáng tạo…
để hoàn thiện. Nhu cầu này được thể hiện ở lý tưởng, sự riêng tư cá nhân, nhu
cầu có sự độc lập, khả năng kiểm soát, nhu cầu về lòng tin, sự dân chủ…
1.2. Gái mại dâm, đặc điểm tâm lý và nhu cầu của gái mại dâm
1.2.1. Khái niệm gái mại dâm
Trong pháp lệnh số 10/2003/PL- UBTVQH, ngày 14 tháng 3 năm 2003
đã giải thích các từ ngữ sau:
+ Mại dâm có thể hiểu là hành vi mua dâm, bán dâm( Trích luật phòng
chống mại dâm năm 2003)
Ngoài ra còn có một số khái niệm khác :
Lớp: Đ4CT1
7
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
+Mại dâm: Là hành vi trao đổi tình dục để thu lại được lợi ích kinh tế.
Một người( nam, nữ hoặc người đồng tính) sẽ được coi là hoạt động mại dâm
khi anh ta/ chị ta đồng ý quan hệ tình dục với khách hàng để đổi lại một số tiền
hoặc bất kỳ phần thưởng nào đó theo thỏa thuận của 2 bên.
+ Mại dâm nữ (Hay còn được gọi là gái làm tiền, gái đứng đường): Là
những người phụ nữ phục vụ đàn ông thỏa mãn nhu cầu tình dục ngoài hôn
nhân để được trả tiền, thưởng hoặc được hưởng hoặc hứa hẹn sẽ được hưởng
các lợi ích vật chất khác. Họ coi đó là một nghề để kiếm sống hoặc tăng thêm
thu nhập.
+ Mại dâm nam chỉ việc người đàn ông hành nghề mại dâm kiếm sống,
nghề tương tự như gái mại dâm ở nữ giới.
+ Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả
tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
+ Mua dâm là hành vi giao cấu của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất
khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.
+ Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mươn địa điểm,
phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
+ Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí sắp xếp để thực hiện việc
mua dâm, bán dâm.
+Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung
gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
+ Cưỡng bức bán dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm
+ Bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc
dùng vũ lực đe dọa để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm.
1.2.2. Đặc điểm tâm lý của gái mại dâm
- Mại dâm là một nghề nhọc nhằn, tàn phá và hủy diệt tâm hồn con
người. Cô gái mại dâm đã giao hợp với nhiều người đàn ông mà không hề có
một cảm xúc yêu thương. Họ đáp ứng tốt mọi yêu cầu khách hàng tùy theo số
tiền anh bỏ ra. Trong cuộc chơi mà khách hàng tự cho mình là thắng, thực sự
gái mại dâm đóng vai cuồng nhiệt rất đạt, dẫn dắt và chủ động chấm dứt cuộc
chơi mà không một ấn tượng nhỏ về anh đàn ông dại khờ.
Lớp: Đ4CT1
8
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
- Bởi đặc điểm của nghề nghiệp những cô gái mại dâm trong thâm tâm
đều coi thường đàn ông. Nếu tỉnh táo và hiểu biết sự việc; người đàn ông se
ngồi dậy, mặc quần áo và trở về nhà lập tức. Nhưng anh ta ngộ nhận và bị đánh
lừa, dấn thân vào cuộc chơi từ lần này đến lần khác. Không giống như gái mại
dâm, anh ta có thể phát sinh tình cảm với bạn tình, nhưng anh ta không biết
mình chỉ có giá trị khi còn tiếp tục thuể mướn cô ta;
- Do kiếm được nhiều tiền, một cách dễ dàng, các cô gái mại dâm tiêu
pha hoang phí, ít suy nghĩ về ngày mai. Hơn nữa, số tiền các cô không phải
được hưởng tất cả. Phải chia cho tú bà, maco, bảo kê. Các cô thích đánh bài ăn
thua đậm, phần nhiều sử dụng ma túy;
- Nhiều cô đổ thừa cho hoàn cảnh nên phải tiếp tục hành nghề, thực sự
phần lớn các cô chỉ giải nghệ khi không còn hành nghề được nữa hoặc do bệnh
tật hoặc do tuổi tác; chỉ một số ít các cô tự bỏ nghề khi còn trẻ đẹp và có một số
vốn. Số còn lại sống hết cuộc đời dưới dạng tú bà. Vậy hoàn cảnh không phải là
tất cả, yếu tố tâm lý có vai trò to lớn của nó;
- Cũng do ảnh hưởng của nghề nghiệp, sự coi thường đàn ông, những
tính hư tật xấu vướng phải trong thời gian hành nghề, các cô khó trở thành một
người vợ bình thường, cho dù những kinh nghiệm chăn gối của các cô đủ đưa
ông chồng lên đến tận may xanh. Khi còn hành nghề, các cô không hạnh phúc,
cho đến khi lập gia đình các cô tiếp tục không hạnh phú;
- Các cô gái mại dâm hầu như không hưởng khoái lạc tình dục, sự thỏa
mãn tình dục nơi các cô là điều khó xảy ra, mặc dù hành động các cô với khách
hàng giống như cao độ, hoặc do ảo tưởng, hoặc do giả vờ. Tình trạng lãnh cảm
sẽ tìm lối thoát, gây những hậu quả giống như các hoạn quan thời xưa: khi
không còn khả năng tình dục, các ông ăn uống vô độ, thèm khát quyền lực, tiền
bạc… tính hư tật xấu nhiều hơn người bình thường.
1.2.3. Nguyên nhân phát sinh, hậu quả và những vấn đề gái mại dâm
phải đối mặt.
1.2.3.1. Nguyên nhân phát sinh:
* Nguyên nhân khách quan:
Phần lớn gái mại dâm đều xuất thân từ những gia đình có hoàn cảnh đặc
biệt, đó là:
Lớp: Đ4CT1
9
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
- Những gia đình nghèo khó, đông con, thiếu việc làm hoặc có việc làm
nhưng thu nhập thấp hoặc không ổn định, thậm chí trong gia đình “người làm
thì ít, người ăn thì nhiều”. Từ cảnh túng quẫn đó lại không có nguồn sống nào
khác, cộng thêm những áp lực khác của cuộc sống như nợ nần vây hãm, rủi ro,
bệnh tật, sự khuyến dụ của bọn săn lùng gái… vì vậy buộc người phụ nữ hoặc
là con em trong gia đình họ phải bước vào con đường mại dâm để kiếm tiền
một cách nhanh nhất mà không cần vốn để tồn tại cho bản thân và gia đình họ.
- Những gia đình bị đỗ vỡ, xung đột, rạn nứt… như bố mẹ ly hôn, đi tù,
trẻ em sống trong những gia đình này thường là sống với bố dượng, dì ghẻ, ông
bà già yếu…với tuổi đời còn non nớt, gia đình lại nhiều cảnh ngang trái, không
co sự quan tâm, giúp đỡ của người thân thì việc các em tham gia vào hoạt động
mại dâm rất dễ xảy ra.
- Gia đình của một số gái mại dâm đã có người hoạt động mại dâm hoặc
là chủ chứa, cò mồi… đây là môi trường thuận lợi cho việc hình thành nhận
thức lối sống lệch lạc trong các thành viên của gia đình họ nói chung và việc
quyết định thực hiện bán dâm của người phụ nữ nói riêng.
Bên cạnh đó, môi trường xã hội cũng tác động rất lớn đến các cô gái đi
vào con đường mại dâm, đó là:
- Sự buông lỏng của các cấp chính quyền không quản lý được số lượng
dân cư trú và dòng người chuyển từ nơi khác, các hoạt động văn hóa trá hình…
- Sự giáo dục lỏng lẻo, không thống nhất giữa gia đình và nhà trường, bố
mẹ trong gia đình do bận rộn với công việc kiếm tiền, không có thời gian quan
tâm đến con cái, bên cạnh đó lại bị bạn bè xấu lôi kéo thì dễ dàng đẩy các em
vào con đường mại dâm.
- Văn hóa phẩm đồi trụy tầm thường, lối sống ngoại lai đã thấm vào một
bộ phận thanh niên nam nữ bằng nhiều con đường, đã có ảnh hưởng rất lớn khi
mà mọi chuẩn mực chưa được định hình, nhất là đối với tuổi trẻ, lứa tuổi năng
động nhất và cũng nhạy cảm đối với những cái mới lạ dẫn các em đến lối sống
ngoại nhập không còn chọn lọc, thử làm liều ngay với chính mình.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Trình độ văn hóa thấp, nhận thức về con người và xã hội thấp, dễ bị sa
ngã trong những hoàn cảnh khó khăn và dễ bị sự lôi kéo của bạn xấu.
Lớp: Đ4CT1
10
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
- Coi thường dư luận xã hội, có thái độ không tốt với những người xung
quanh, không nghe những lời khuyên bảo đúng, có thái độ lười lao động.
- Do có định hướng giá trị sai lệch dẫn đến quan niệm sống không theo
đạo đức truyền thống của dân tộc. Sống gấp, thích hưởng thụ, thích ăn chơi, đua
đòi, thích chạy theo mốt.
- Tác động của toàn cầu hóa cũng là một nguyên nhân khiến cho tệ nạn
mại dâm ngày càng phát triển.
1.2.3.2. Hậu quả:
- Về sức khỏe:
Hoạt động mại dâm thường dẫn đến suy kiệt về sức khỏe của đối tượng,
100% gái mại dâm bị bệnh xã hội như giang mai, lậu, các bệnh viêm nhiễm
đường tình dục… dẫn đến ảnh hưởng tới sự phát triển giống nòi do bị bệnh tật,
ảnh hưởng đến thế hệ tương lai, và hơn nữa mại dâm gắn liền với nhiễm HIV
là con đường nhanh nhất, dễ nhất dẫn đến AIDS – một căn bệnh thế kỷ đang trở
thành đại dịch, hủy hoại sự sống của mỗi con người, của cả nhân loại không xa
xôi mà đang là sự thật bày ra trước mắt.
- Về kinh tế:
Đa phần những con người đi vào con đường mại dâm, đầu tiên là lười lao
động, làm ít chơi nhiều, kinh tế gia đình ngày càng suy kiệt. Làm ảnh hưởng tới
sự phát triển kinh tế đất nước, tệ nạn mại dâm làm ảnh hưởng lớn đến nguồn lao
động, nguồn lực tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Tệ nạn mại dâm gây ra thiệt hại về kinh tế cho việc chi phí về chăm lo
cho họ bằng nhiều cách như khám chữa bệnh, phục hồi, dạy nghề, tạo công ăn
việc làm, cứu trợ những nạn nhân mắc bệnh AIDS… chi phí cho các hoạt động
khác như tuyên truyền phòng, chống tệ nạn này… Tệ nạn mại dâm làm ảnh
hưởng đến môi trường đầu tư của các dự án đầu tư trong và ngoài nước.
- Về xã hội:
Làm xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc, làm tha
hóa một bộ phận dân cư và một số cán bộ, đảng viên, viên chức Nhà nước. Con
người đã sa vào tệ nạn mại dâm, với tinh thần bệnh hoạn, thích ăn chơi trụy lạc,
trước hết đời sống gia đình lục đục, con cái mất cha mẹ, vợ lìa chồng, tan vỡ
hạnh phúc… làm xói mòn đạo đức xã hội, mất đi thuần phong mỹ tục của người
Việt Nam.
Lớp: Đ4CT1
11
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
Làm mất an toàn xã hội vì có liên quan đến những hành vi vi phạm pháp
luật và là điều kiện làm nảy sinh các sai phạm khác; đồng hành với mại dâm là
nghiện hút, cờ bạc, tội phạm hình sự (bảo kê, ma – cô), trộm cắp, bạo hành, ảnh
hưởng nặng nề đến an toàn xã hội. Người ta cũng ví von rằng “mại dâm là bạn
đồng hành với tội phạm và là hình bóng của AIDS”.
Bởi vậy, việc ngăn chặn, bài trừ tệ nạn mại dâm đã và đang trở thành một
trong những ưu tiên hàng đầu không chỉ của riêng Đảng và Nhà nước ta mà còn
là của toàn xã hội, của tất cả mọi người.
1.2.3.3. Những vấn đề gái mại dâm phải đối mặt
Hoạt động mại dâm không chỉ làm cho những người con gái này bị người
đời khinh rẻ, bị xã hội lên án mà bản thân họ cũng gặp không ít những khó khăn
khi phải đối mặt như nguy cơ bị bạo hành tình dục hay bị khách quỵt tiền và bị
giết. Chưa hết họ còn có thể bị chủ chứa bạo hành vì không chịu nghe lời và
nhiễm các căn bệnh lây qua đường tình dục như HIV/AIDS, lậu, giang mai.
Bị bạo hành tình dục, bạo hành thể chất là điểu không thể tránh khỏi đối
với những người bán dâm bởi họ chỉ là công cụ thỏa mãn nhu cầu dục vọng của
khách mua dâm chứ không phải là quan hệ bằng tình yêu, và họ phcuj vụ cho
rất nhiều người đàn ông thì có người như thế này, người thế kia là bình thường.
Thực tế có rất nhiều người đàn ông bệnh hoạn thích khi quan hệ phải dùng
những biện pháp mạnh như đánh, đạp, véo và chỉ sung mãn khi thấy người tình
của mình đau đớn. Hay cũng có rất nhiều người quá khỏe, nhu cầu của họ rất
cao khi bản thân những cô gái này không thể đáp ứng được thì cũng sẽ bị đánh.
Và việc bạo hành gái mại dâm còn đáng sợ hơn rất nhiều với những bạo hành
khác bởi họ không thể lên tiếng, không được bảo vệ mà chỉ có thể im lặng chấp
nhận, chịu đựng. Nghiên cứu của Th.S Đỗ Văn Quân trong nghiên cứu “ bạo
lực với gái mại dâm ở Việt Nam” chỉ ra rằng, 100% gái mại dâm bị bạo hành,
hầu hết trong số họ xuất thân từ những vùng nông thôn nghèo khó, thiếu kiến
thức để tự bảo vệ mình nên buộc phải chấp nhận bị bạo hành, và họ phải cầu
xin khi được tha họ cảm thấy mình vẫn còn may mắn vì thoát được. và cũng
không ít gái mại dâm bị bắt phải phục vụ hiếp dâm tập thể.
Nguy cơ thứ hai mà gái mại dâm thường phải đối mặt đó chính là bị khách
quỵt tiền và bị giết. Trên báo chí có rất nhiều vụ đăng tin gái mại dâm bị giết ở
khách sạn này, nhà nghỉ nọ. Có rất nhiều khách mua dâm khi thỏa mãn nhu cầu
Lớp: Đ4CT1
12
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
của bản thân lại không muốn trả tiền hoặc không có tiền để trả nên tìm bài
chuồn. Đây không chỉ xảy ra với một người mà hầu hết các cô gái này đều bị
rơi vào hoàn cảnh này và không phải chỉ một lần bởi đàn ông nhiều người
không phải ai cũng tốt. Nếu không cẩn thận thì nếu cứ đòi thì họ còn bị đánh
thậm tệ. Bởi khi chấp nhận bước vào con đường này bản thân họ đã bị xem
thường, họ không còn được xem là con người mà chỉ là những món hàng,
những con rối mua vui cho đàn ông. Vậy họ làm gì được cảm thông, được trân
trọng, và có nhiều người còn bị giết một cách dã man.
Không phải bất cứ người bán dâm nào cũng đều là tự nguyện đi theo con
đường này mà không ít cô gái là vì bị bán, bị lừa bắt phải bán dâm. Rất nhiều
người khi chống cự không bán dâm thì bị chủ chứa đánh tới thừa sống thiếu
chết, đánh không thương tiếc để làm gương cho người khác vì có hành vi chống
đối hay muốn bỏ trốn, đánh xong thì nhốt, bỏ đói cho tới lúc nào chấp nhận làm
theo yêu cầu của chúng.
Họ không còn được xem là con người mà chỉ là những món hàng trong tay
người khác, họ không có quyền được lên tiếng và môi trường của họ lại gặp
không ít những nguy cơ, rủi ro. Những người bán dâm đều mang trong mình
những căn bệnh tình dục khác nhau. Hơn 80% trong số hoạt động mại dâm đều
mắc bệnh giang mai, lậu hay HIV/AIDS. Bản thân họ không thể tự bảo vệ được
họ vì nếu khách không muốn dùng các biện pháp bảo vệ thì họ không thể ép
được. Họ biết nhưng đành buông xuôi, bất cần chịu đựng. Chấp nhận mang
trong mình những căn bệnh và sống chung với nó thậm chí là HIV/AIDS.
Đồng tiền mà họ kiếm được là không trong sạch bởi bán đi thứ vốn có của
mình để nuôi sống bản thân và dẫu biết rằng làm gái mại dâm là không đáng
được cảm thông, được chia sẻ nhưng họ cũng là con người, họ cũng cần được
bảo vệ.
1.2.4. Nhu cầu của gái mại dâm:
Mặc dù bị xã hội khinh thường và bị xem như một món hàng hóa nhưng
họ cũng là con người cũng có tình cảm và cảm xúc nên nhu cầu của gái mại
dâm là những đòi hỏi tất yếu khách quan, được họ phản ánh trong những điều
kiện cụ thể, cần được thỏa mãn để đảm bảo sự tồn tại và phát triển.
Nhu cầu của gái mại dâm là mong muốn, nguyện vọng của họ. Đó là
những thứ thiết yếu nhất để tồn tại như ăn, mặc ở hay đi lại và những nhu cầu
Lớp: Đ4CT1
13
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
cao hơn khó có thể nhìn thấy được để giúp những cô gái này có đủ nghị lực để
tồn tại. Họ là con người nên mỗi người cũng có những nhu cầu khác nhau như
được chia sẻ, được lắng nghe, được học tập hay được cảm thông của người đời
và cho họ có cơ hội được làm lại cuộc đời lầm lỡ. Đặc biệt họ cần sự cảm thông
và cởi mở trái tim của những người thân, có không ít gái mại dâm không phải
bản thân họ tự nguyện đi theo con đường này mà là do sựu đưa đẩy của số
phận, bị ép buộc nên chăng xã hội cần nhìn nhận họ một cách thoáng hơn, đừng
quá khắt khe mà hãy động viên cho họ. Và cũng chính vì những định kiến
những rào cản như thế nên gái mại dâm lại càng khép mình lại và không dám
tiếp cận với các dịch vụ xã hội, không dám chia sẻ những vấn đề khó khăn bản
thân mình đang phải đối mặt. Đó chính là lý do khiến không ít gái mại dâm có
tâm lý bất ổn, luôn luôn lo lắng và hoảng sợ.
Như vậy so với người bình thường trong xã hội thì nhu cầu của mại dâm
có thể nói còn cao hơn.
1.3. Tham vấn, tham vấn tâm lý và nhu cầu tham vấn tâm lý của gái
mại dâm trong Trung tâm GDLĐXH
1.3.1. Định nghĩa tham vấn
Tham vấn là một ngành được biết đến từ lâu ở nhiều nước trên thế giới.
Nhưng vói Việt Nam đây vẫn là ngành khá mới mẻ. Và không ít người không
hiểu được bản chất của nó và hiểu nó giống với tư vấn hay cố vấn.
Theo các chuyên gia của hiệp hội tâm lý học Mỹ thì : “ Tham vấn tâm lý là
quá trình trợ giúp cá nhân khắc phục những trở ngại tâm lý có thể gặp trong quá
trình trưởng thành, khiến người ta phát triển một cách lý tưởng”.
Tổ chức tham vấn Thể giới lại định nghĩa các khả năng: “ Tham vấn là
một quá trình trợ giúp dựa trên các khả năng. Trong đó một người dành thời
gian, sử dụng quan tâm và sử dụng thời gian một cách có mục đích để giúp đỡ
thân chủ khai thác tình huống, xác định và triển khai giải pháp khả thi trong
thời gian cho phép”.
Theo tiến sỹ Đỗ Thị Xuân Mai tham vấn thuộc lĩnh vực CTXH thì tham
vấn được hiểu với tư cách là: “ một quá trình trợ giúp tâm lý, trong đó nhà tham
vấn sử dụng kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ nghề nghiệp để thiết lập
mối quan hệ tương tác tích cực với thân chủ nhằm giúp họ nhận thức được hoàn
cảnh vấn đề để thay đổi cảm xúc, suy nghĩ và hành vi, tìm kiếm giải pháp cho
vấn đề của mình”.
Lớp: Đ4CT1
14
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
Trong bài khóa luận của mình. Tôi xin được sử dụng khái niệm của TS.
Bùi Thị Xuân Mai làm khái niệm công cụ để tiến hành nghiên cứu.
1.3.2. Các hình thức tham vấn
Có nhiều hình thức tham vấn: có thể chia theo cách thức can thiệp tham
vấn hay theo số lượng người tham gia. Trong bài khóa luận của mình tôi xin lựa
chọn cách phân theo hình thức can thiệp của tham vấn và tham vấn theo số
lượng người tham gia.
Tham vấn trực tiếp: Là hình thức tham vấn diễn ra trong sự tương tác
trực tiếp giữa nhà tham vấn với đối tượng cần tham vấn. Ví dụ như gặp gỡ trực
tiếp tại phòng tham vấn trong Trung tâm GDLĐXH.
Tham vấn gián tiếp thông qua hệ thống trợ giúp như mạng, điện thoại.
Hình thức tham vấn này do có hạn chế về thời gian và sự trao đổi gián tiếp nên
thường diễn ra với thời gian ngắn vì sự tương tác giữa hai phía không được sâu
sắc như tham vấn trực tiếp.
Tham vấn từng cá nhân đối tượng.
Tham vấn theo gia đình
Tham vấn theo nhóm
1.3.3. Nhu cầu tham vấn tâm lý
Tham vấn tâm lý là quá trình tương tác giữa nhà tham vấn- người có
chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề tham vấn-
với khách hàng là người đang gặp khó khăn về tâm lý cần được giúp đỡ. Thông
qua đó nhằm được sự giải tỏa, đồng cảm và sự trợ giúp cần thiết để họ nhận
thức đúng đắn, thái độ tích cực và hành vi phù hợp để tháo gỡ vấn đề.
Nhu cầu tham vấn tâm lý là nhu cầu mong muốn được những nhà tham
vấn giúp đỡ, chia sẻ và tháo gỡ những bế tắc trong cuộc sống mà chính bản thân
cá nhân không tự mình giải quyết được do cái tôi cá nhân không vững vàng để
đối mặt với những vướng mắc của bản thân trong cuộc sống.
Nhu cầu tham vấn tâm lý là loại nhu cầu tinh thần của con người. Nó có
thể được biểu hiện ở mức độ thấp thông qua các hình thức tâm sự của cá nhân
với những mà họ tin cậy, người đó có thể người thân trong gia đình, bạn bè hay
người họ cho rằng có thể giúp được họ Đây là hình thức phổ biến trong cuộc
sống. Tuy nhiên những cuộc hỏi ý kiến như vậy thường mang tính chủ quan rất
cao cả về phía người hỏi và người được hỏi. Do yêu cầu thực tiễn của xã hội,
Lớp: Đ4CT1
15
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
nhu cầu tham vấn đã được đáp ứng bởi một dạng hoạt động xã hội mang tính
chuyên nghiệp, đó là hoạt động tham vấn do các nhà tâm lý, các nhân viên công
tác xã hội được đào tạo chuyên sâu đảm nhiệm lúc này nhu cầu về đời sống tnh
thần càng được quan tâm đồng nghĩa với nhu cầu tham vấn trong xã hội sẽ ngày
càng phát triển.
Nhu cầu tham vấn tâm lý là một thành tố quan trọng giúp cá nhân hình
thành xu hướng tâm lý tích cực. Đứng trước những khó khăn tâm lý mà cuộc
sống đặt ra và yêu cầu buộc phải vượt qua nó để tồn tại và phát triển, từ việc
nhận thức được những băn khoăn cần sự chia sẻ và trợ giúp của người khác
cũng như quá trình nhận được sự trợ giúp chuyên nghiệp, tích cực của nhà tham
vấn sẽ giúp thân chủ khai thác được những tiềm năng của bản thân, ứng phó có
hiệu quả trước những khó khăn tâm lý mà họ gặp phải, góp phần cân bằng ổn
định tâm lý và phát triển nhân cách.
Như vậy có thể nói rằng tham vấn tâm lý là một nhu cầu khách quan mà
bất cứ cá nhân nào trong quá trình phát triển cũng cần được và nên tiếp cận. Bởi
khi ai đó gặp khó khăn vướng mắc trong cuộc sống mà bản thân họ không thể
nào vượt qua được mà cần sự giúp đỡ hay trợ giúp của ai đó thì các chuyên gia
tham vấn tâm lý sẽ cùng tháo gỡ hay cùng họ tìm ra vấn đề và biện pháp khả thi
để ứng phó. Đây là điều kiện thiết yếu đối với quá trình cân bằng tâm lý, giúp
con người có cảm xúc tích cực và niềm tin vào cuộc sống.
1.3.4. Nhu cầu tham vấn tâm lý và mức độ nhu cầu tham vấn tâm lý
của gái mại dâm.
GMD là những cô gái không được xã hội và cộng đồng tôn trọng. Họ bị
xem là con sâu phá hoại hạnh phúc gia đình và hình ảnh những cô gái mại dâm
làm băng hoại đạo đức lối sống. Chính vì thế họ luôn sống khép kín và không
muốn ai biết về mình. Nhưng bản thân họ cũng là những con người, cũng có
hoặc đã từng có một gia đình và họ cũng có lương tâm nên với môi trường như
thế họ lại càng nhạy cảm hơn. Những khó khăn trong cuộc sống, những nguy cơ
có thể gặp phải trong quá trình hành nghề là những nỗi đe dọa lớn đối với họ,
Hơn hết ánh mắt kỳ thị, xa lánh của mọi người chính là rào cản khó có thể giúp
những cô gái này sống bình thường được. Bởi chính bản thân họ cũng ghê tởm
chính mình đã khiến cho đời sống tâm lý của họ càng trở nên phức tạp. Đặc
biệt là những cô gái bị ép bán dâm thì càng bị khủng hoảng hơn và không biết
Lớp: Đ4CT1
16
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
cầu cứu ai, chỉ biết âm thầm chịu đựng. Những chia sẻ hay giãi bày thì với họ
những người cùng cảnh ngộ là người bạn duy nhất, có khi những người khách
mua dâm tử tế cũng là người bạn để họ tâm sự, trút lòng. Bởi cái quan niệm tất
cả những cô gái mại dâm trong xã hội này đều không đáng được cảm thông hay
giúp đỡ nên họ càng thu mình lại, sống bất cần với tất cả. Như vậy có thể nói
gái mại dâm gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc trong cuộc sống nhưng vấn đề
là ai sẽ chấp nhận và nghe họ nói?
Như vậy, là người bình thường trong xã hội khi gặp một vấn đề gì đó khó
khăn, vướng mắc mà bản thân mình không thể giải quyết cần sự giúp đỡ của
người khác thật sự dễ dàng hơn rất nhiều so với những cô gái bán dâm bởi
người ta thường nói “ đừng nghe cave kẻ chuyện, đừng nghe con nghiện trình
bày” đã khiến cho người đời luôn có cái nhìn định kiến về những cô gái này.
Nhưng thực tế họ đâu phải tất cả là người xấu, muốn đi vào con đường mà ngay
cả bản thân họ cũng ghê tởm. Họ cũng cần những chia sẻ, những lúc muốn
được ai đó lắng nghe họ nói và giúp họ vượt qua những khó khăn, bế tắc trong
cuộc sống. Tham vấn tâm lý sẽ là cầu nối giúp đỡ họ bởi mục đích của tham
vấn là luôn luôn lắng nghe, chia sẻ và cùng thân chủ của mình tìm kiếm giải
pháp và đặc biệt không có cái nhìn định kiến về thân chủ của mình và mọi
thông tin đều được giữ bí mật, không tiết lộ cho bất cứ ai. Chỉ có dịch vụ tham
vấn tâm lý là người bạn có thể giúp đỡ những cô gái lầm lỡ có thể tìm thấy
được niềm tin và hơn hết là ổn định tâm lý luôn lo âu, bất mãn và mặc cảm về
bản thân của mình. Ở đó họ không bị coi thường, không bị khinh rẻ hay miệt thị
công việc mình đang làm. Như vậy, nhu cầu tham vấn tâm lý là một yếu tố cần
thiết và thực sự quan trọng cần có để giải quyết những khó khăn trong cuộc
sống của gái mại dâm.
Cũng là con người nên mức độ tham vấn tâm lý của GMD cũng khác
nhau, tùy thuộc vào từng thời điểm, từng sự việc họ gặp phải mà nhu cầu muốn
được tham vấn cũng không giống nhau:
Ý hướng nhu cầu tham vấn tâm lý: Đây là mức độ thấp nhất trong nhu cầu
tham vấn tâm lý của gái mại dâm. Ở múc độ này, gái mại dâm chưa có ý thức
được đối tượng thỏa mãn nhu cầu tham vấn tâm lý và phương thức để chiếm lĩnh
được đối tượng này. Nhu cầu tham vấn tâm lý chỉ xuất hiện với dấu hiệu gái mại
dâm cảm thấy mong muốn và cần thiết phải chia sẻ những khó khăn, lo lắng với
Lớp: Đ4CT1
17
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
một người khác không phải bản thân mình. Đối tượng này thường là bạn cùng
nghề, hoặc một trung tâm tham vấn tâm lý nào đó mà họ biết.
Ý muốn nhu cầu tham vấn tâm lý: Khi xuất hiện ý muốn được tham vấn
tâm lý sẽ khuyến khích gái mại dâm có nhu cầu được thỏa mãn giải tỏa tâm lý.
Mức độ này cao hơn so với mức đọ trước bởi khi họ có ý muốn tham vấn tâm lý
nghĩa là họ đã nhận thức được đối tượng thỏa mãn nhu cầu tham vấn tâm lý.
Song họ lại gặp phải vấn đề là làm thế nào để có thể nhận được sự trợ giúp về
mặt tâm lý? Ở mức đọ này gái mại dâm đã xác định được đối tượng của nhu cầu
tham vấn tâm lý và tiếp tục thúc đẩy nó tìm kiếm cách thức điều kiện nhằm thỏa
mãn nhu cầu tham vấn tâm lý nào đó. Vì vậy, trong những trường hợp này thì
các chuyên gia tham vấn tâm lý phải vừa giúp cho gái mại dâm giải tỏa được
những khó khăn, vướng mắc và giúp họ hình thành được cảm xúc tích cực hay
giải quyết được những khó khăn đó.
Ý định nhu câu tham vấn tâm lý: Đây là mức đọ cao nhất của nhu cầu
tham vấn tâm lý, ý định tham vấn đã được ý thức đầy đủ cả về mặt đối tượng và
phương thức thỏa mãn nhu cầu tham vấn tâm lý.
Như vậy có thể nói nhu cầu tham vấn tâm lý dành cho gái mại dâm có
nhiều mức độ và cung bậc khác nhau tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là
bản thân của mỗi người. Việc nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lý dành cho gái
mại dâm trong các Trung tâm GDLĐXH sẽ giúp cho những đối tượng này tìm
được đối tượng phù hợp để thỏa mãn nhu cầu tham vấn tâm lý của mình.
1.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tệ nạn mại dâm
Là một quốc gia coi mại dâm là một tệ nạn thì Đảng và Chính phủ đã đưa
ra nhiều chủ trương, chính sách và các giải pháp kịp thời nhằm đẩy mạnh, tăng
cường công tác phòng chống mại dâm. Các quan điểm phòng chống mại dâm
được thể hiện trong Nghị quyết của các Đại hội của Đảng:
Trong những năm 1986- 1990, khi đất nước bắt đầu thực hiện đường lối
đổi mới kinh tế, mặt trái của thị trường đã tác động đến sự phát sinh tệ nạn xã
hội. Vì vậy trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã xác định rõ chủ
trương chính là phát động phong trảo toàn dân tham gia phòng ngừa và đấu
tranh với các loại tệ nạn xã hội.
Ở giai đoạn 1991- 1995, khi tình hình tệ nạn mại dâm có nhiều diễn biến
phức tạp và có xu hướng gia tăng, Đảng ta đã nhấn mạnh quan điểm của mình
Lớp: Đ4CT1
18
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Th.S Tiêu Thị Minh Hường
trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII về công tác phòng chống tệ nạn xã hội
là phải có trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt là tệ nạn mại dâm, ma túy ở các địa
bàn phúc tạp và bức xúc nhất.
Đến thời kỳ 1996- 2000, thực hiện theo hướng của Nghị quyết Đại hội
Đảng, lần thứ VIII, Đảng đã đưa ra chủ trương kết hợp hài hòa giưa tăng trưởng
kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong
việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ
nạn xã hội, nhất là trộm cắp, cờ bạc và mua bán dâm, mâ túy.
Cho tới Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã chỉ rõ vấn đề mấu chốt là phải “
Ngăn chặn và bài trừ tệ nạn xã hội, nhất là các tệ nạn mại dâm, ma túy và
HIV/AIDS”
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện rõ trong các văn bản quy
phạm pháp luật, pháp lệnh phòng chống tệ nạn mại dâm đã dần từng bước đi
vào cuộc sống.
Tiếp theo là chương trình hành động phòng, chống tệ nạn mại dâm giai
đoạn 2001- 2005, chương trình phối hợp liên ngành, chống mại dâm gia đoạn
2006- 2010, chương trình hành động phòng, chống mại dâm giai đoạn 2011-
2015 (Quyết định 679/QĐ- TTg ngày 10/5/2011) đã đưa ra các quan điểm chỉ
đạo chủ yếu đó là:
- Lấy công tác phòng ngừa làm trọng tâm của Chương trình hành động
phòng, chống mại dâm giai đoạn 2011- 2015, tập trung giải quyết tệ nạn mại
dâm tại những tỉnh trọng điểm. Tập trung và biện pháp tuyên truyền, giáo dục,
nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, lối sống của cá nhân, gia đình, cộng đồng,
tạo sự đồng thuận của an toàn xã hội, phòng ngừa từ xa; tăng cường lồng ghép
với các chương trình an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội; quản lý chặt chẽ các
yếu tố dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ
có liên quan; gắn kết chặt chẽ với xây dựng môi trường lành mạnh, không có
TNXH, nhất là ở các địa bàn đông dân cư.
- Nhà nước xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm pháp luật về
phòng, chống tệ nạn mại dâm; đặt công tác phòng, chống mại dâm trong mối
quan hệ với phòng chống tội phạm về buôn bán người và bóc lột tình dục phụ
nữ, trẻ em.
Lớp: Đ4CT1
19