Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

thực trạng bạo lực thể chất đối với phụ nữ tại xã trường giang, huyện nông cống, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 99 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi; các số liệu, kết quả
nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị
tôi nghiên cứu./.
Tác giả khóa luận
Sinh viên
i
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Để khóa luận đạt kết quả như ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn các
thầy cô trong khoa Công tác xã hội, các thầy cô giáo bộ môn đã giảng dạy suốt 4
năm học trên giảng đường. Đặt biệt, trong thời gian làm khóa luận này, em xin
bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô giáo TS. Bùi Thị Xuân
Mai đã dành nhiều thời gian, tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho em từ khi bắt
đầu cho đến khi hoàn thành bài khóa luận này.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn đến các cán bộ lãnh đạo UBND xã
Trường Giang, Chú Lê Văn Chung cán bộ văn hóa xã hội ( phụ trách về mảng
bạo lực gia đình) của xã đã cho phép và tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho em
được đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về thực trạng bạo lực thể chất đối với phụ nữ ở
xã. Em cũng xin chân thành cảm ơn các Bác, các Cô Chú, các Anh Chị bên các
ban ngành đoàn thể địa phương, các gia đình trong xã đã hợp tác và tạo điều
kiện thuận lợi cho em nghiên cứu và hoàn thành bài khóa luận này.
Dù đã nỗ lực, cố gắng và say mê tìm hiểu nghiên cứu của bản thân nhưng
do thời gian, kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế, khóa luận không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp và sự
chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, Tháng 5, năm 2012

ii


Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Diễn giải
1 BLGĐ Bạo lực gia đình
2 BLTC Bạo lực thể chất
3 BL Bạo lực
4 N Số người
DANH MỤC BẢNG BIỂU
iii
Khóa luận tốt nghiệp
STT
Tên bảng biểu
Trang
Bảng 1 Mẫu nghiên cứu 24
Bảng 2 Đánh giá mức độ phổ biến của các hành vi bạo lực
thể chất đối với phụ nữ
27
Bảng 3 Cách ứng phó chủ yếu của phụ nữ khi bị bạo lực thể
chất.
33
Bảng 4: Bảng đánh giá nhận thức của người dân trong xã về
hành vi của BLGĐ
39
Bảng 5 Đánh giá trình độ văn hóa. 42
Bảng 6 Hậu quả của bạo lực thể chất đối với phụ nữ 50
Bảng 7 Đánh giá dịch vụ hỗ trợ trực tiếp cho phụ nữ khi bị
bạo lực thể chất.
53
Bảng 8 Khi xảy ra bạo lực thể chất hình thức thường được
xử lý đối với người gây bạo lực

56
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 1 Đánh giá mức độ phổ biến của tình trạng
BLTC đối với phụ nữ tại xã Trường Giang.
25
iv
Khóa luận tốt nghiệp
Biểu đồ 2 Nguyên nhân của bạo lực thể chất đối với phụ
nữ tại xã Trường Giang (%)
37
Biểu đồ 3 Hoàn cảnh kinh tế gia đình phụ nữ bị bạo lực
thể chất hiện nay.
47
Biểu đồ 4 Thể hiện sự hiểu biết về luật bình đẳng giới,
Luật phòng chống bạo lực gia đình của 60
người được khảo sát tại xã Trường Giang.
61
Biểu đồ 5 Hình thức tuyên truyền Luật bình đẳng giới,
Luật phòng chống bạo lực gia đình .
62
v
Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
vi
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Gia đình là tế bào xã hội, là tổ ấm thân yêu của mỗi con người, như Bác
Hồ đã từng nói: “Gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng

tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, hạt nhân của xã hội là gia đình, chính vì vậy
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý đến hạt nhân cho tốt”. Quả đúng
như vậy gia đình luôn được coi là nền tảng để phát triển xã hội. Nếu gia đình
hạnh phúc, tốt đẹp sẽ mang lại sự bình yên, hạnh phúc cho mỗi con người, sự
bình ổn và phát triển cho xã hội. Nếu gia đình có mâu thuẫn, xung đột thường
xuyên xảy ra bạo lực nó sẽ cản trở sự phát triển của mỗi cá nhân và ảnh hưởng
tới toàn xã hội.
Bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực chống lại phụ nữ đang diễn ra khắp
nơi trên thế giới với nhiều dạng thức tinh vi không phân biệt dân tộc, màu da,
tầng lớp, lứa tuổi, trình độ văn hóa, địa vị xã hội. Ngay ở những nước được coi
là phát triển và văn minh ở châu Âu, châu Mỹ vẫn có không ít người phải chịu
đựng vấn nạn này. Theo số liệu điều tra năm 2001, hơn ½ triệu phụ nữ Mỹ
(588.490 phụ nữ) chết do bạo lực ngia đình bởi người chồng của họ. Trung bình
mỗi ngày có 3 phụ nữ bị giết bởi người chồng hoặc bạn trai của họ. Trong tài
liệu được công bố tại hội nghị châu Âu lần thứ nhất về phòng chống thương tích
và nâng cao an toàn tại Viên (Áo) từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 6 năm 2006
cũng đưa ra những số liệu đáng quan tâm về nạn bạo lực gia đình – bạo lực giữa
các đôi chiếm 40 – 70% các vụ án mạng ở phụ nữ, cứ 4 người phụ nữ thì có 1
người (tỉ lệ này ở nam là 1 trên 20) đã từng bị bạo lực tình dục trong cuộc đời.
Các số liệu cho thấy BLGĐ thực sự là vấn nạn mang tính toàn cầu và đòi hỏi
một cách tiếp cận đa ngành để giải quyết triệt để.
Tại Việt Nam bạo lực gia đình đang diễn ra ngày càng gia tăng và phức
tạp dưới nhiều hình thức khác nhau, ở mọi gia đình, mọi nơi dễ nhìn thấy nhất
là bạo lực thể chất. Tình trạng bất hạnh đỗ vỡ sau hôn nhân, mà chủ yếu là do
bạo lực gia đình đã kéo theo biết bao nhiêu hệ lụy ảnh hưởng rất lớn đến đời
sống đạo đức, đây là một thực tế đáng lo ngại cần sự quan tâm sâu sắc của toàn
xã hội. Theo kết quả điều tra 8 tỉnh của hội liên hiệp phụ nữ năm 2008, có 30%
số gia đình có hành vi bạo lực tình dục, 25% số gia đình được hỏi có hành vi bạo
lực tình dục và 23% số gia đình được hỏi có hành vi bạo lực thể chất trong đó
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt

1
Khóa luận tốt nghiệp
phụ nữ là nạn nhân chiếm 97%. Cũng theo điều tra của trung tâm nghiên cứu
Giới và phát triển, Bạo lực gia đình đã làm cho gia đình tan nát chiếm 49,7%,
thống kê của tòa án nhân dân tối cao chúng ta càng thấy rõ hậu quả của bạo lực,
tính trung bình trong 5 năm từ 2000 đến 2005 cả nước có 352.000 vụ ly hôn có
tới 39,730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình (chiến 53,1%).
Ở Xã Trường Giang, huyện Nống Cống, tỉnh Thanh Hóa thì bạo lực gia
đình đối với phụ nữ là hiện tượng thường xảy ra, có tính chất ngày càng nghiêm
trọng nhất là bạo lực thể chất với phụ nữ ngày càng gia tăng về số vụ và mức độ
nghiêm trọng. Bản thân người nghiên cứu cũng đã chứng kiến nhiều vụ bạo lực
thể chất tại địa phương. Mặc dù trong những năm gần đây đời sống kinh tế - xã
hội của bà con trong xã ngày càng phát triển. Song vai trò, địa vị, quyền con
người phụ nữ vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Một điều rất dễ nhận thấy là
trong gia đình người phụ nữ ít được quan tâm, ít có cơ hội làm chủ gia đình. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do công tác phòng chống
bạo lực với phụ nữ ở địa phương vẫn chưa được triển khai hiệu quả. Vì vậy việc
tìm hiểu thực trạng và các hoạt động trợ giúp phụ nữ bị bạo lực thể chất của
chính quyền xã từ đó đưa ra giải pháp khắc phục, phòng chống là rất quan trọng
và cần thiết.
Đề tài “Thực trạng bạo lực thể chất đối với phụ nữ tại xã trường
Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa ” muốn nêu lên thực trạng bạo lực
thể chất đối với phụ nữ và một số giải pháp để phòng chống nó thông qua những
chứng cứ thực tế từ cuộc đấu tranh chống bạo lực gia đình đặc biệt là bạo lực thể
chất đối với phụ nữ. Chúng ta những con người của thế kỹ 21 cần phải đặc biệt
quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và lên án nạn bạo lực với phụ
nữ góp phần vào nâng cao địa vị và quyền con người chính đáng của phụ nữ ở
trong gia đình và ngoài xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiều thực trạng bạo lực thể chất với phụ nữ và một số hoạt động trợ

giúp phụ nữ bị bạo lực của chính quyền xã Trường Giang, huyện Nông Cống,
tỉnh Thanh Hóa. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị trong công tác
phòng chống bạo lực gia đình nói chung và bạo lực thể chất với phụ nữ nói
riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
2
Khóa luận tốt nghiệp
Bạo lực thể chất đối với phụ nữ trên địa bàn xã trường Giang, huyện
Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Công tác phòng chống bạo lực thể chất đối với phụ nữ của chính quyền
địa phương.
4. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: bạo lực thể chất với phụ nữ đã lập gia đình tại xã
Trường Giang trong độ tuổi từ 20- 50
Thời gian nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu trong gia đoạn từ 2008 –
2012. Các quan điển giải pháp nhằm phòng chống bạo lực thể chất với phụ nữ
xã Trường Giang và xây dựng cho thời kỳ tiếp.
5. Khách thể nghiên cứu
Nghiêm cứu 70 người dân trong xã trong đó:
+27 phụ nữ tại xã trường Giang ( Đã có gia đình)
+27 nam giới tại xã trường Giang ( Đã có gia đình)
+6 Cán bộ xã, thôn chuyên chịu trách nhiệm các mảng: Dân số gia đình
và trẻ em, hội phụ nữ, công an, y tế, kế hoặch hóa gia đình.
Phỏng Vấn sâu 35 người.
Các chính sách pháp luật về luật phòng chống bạo lực gia đình với phụ nữ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập thông tin :
- Điều tra bảng hỏi.
- Phỏng vấn sâu

- Thảo luận nhóm.
- Nghiên cứu tài liệu ( Sách báo, Internet, tài liệu…)
Xử lý thông tin :
- Thống kê toán học.
- Tổng hợp phân tích.
- So sánh
- Phân tích tài liệu.
Các số liệu được sử dụng trong nghiên cứu là các kết quả nghiên cứu các báo
cáo và số liệu thống kê của cá nhân và các tổ chức cơ quan trong xã và các tổ
chức quốc gia.
7. Kết cấu đề tài
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
3
Khóa luận tốt nghiệp
Bài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương I : Một số vấn đề lý luận cơ bản về bạo lực thể chất đối với phụ nữ.
Chương II : Thực trạng bạo lực thể chất đối với phụ nữ tại xã Trường
Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm phòng chống bạo lực thể chất
đối với phụ nữ tại xã Trường Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
4
Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẪN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẠO LỰC THỂ
CHẤT ĐỐI VỚI PHỤ NỮ.
1.1. Khái niệm bạo lực gia đình và một số khái niệm liên quan.
1.1.1.Khái niệm gia đình
Gia đình là tế bào xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng

và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt
đẹp phòng chống bạo lực gia đình và ngăn ngừa các tệ nạn xã hội xâm nhập vào
gia đình, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Có rất nhiều định nghĩa về gia đình, nhưng nhìn chung, các nhà khoa học
đều thống nhất rằng gia đình là một thiết chế xã hội, dựa trên hai mối quan hệ
cơ bản là hôn nhân (chồng-vợ) và huyết thống (cha-mẹ-con). Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2010 định nghĩa: Gia đình là một thiết chế xã hội dựa
trên cơ sở kết hợp những thành viên khác giới thông qua hôn nhân để thực hiện
các chức năng sinh hoc, kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng. Đây là mộ nhóm xã hội
hình thành từ sự kết hợp của một đôi nam nữ, nữ không cùng huyết thống nảy
sinh từ quan hệ hôn nhân của họ (con cái, ông bà, họ hàng bên nội, bên ngoại,
đồng thời GĐ có quan hệ bao gồm một số người được nuôi dưỡng tuy không
có quan hệ gia đình) thường có ngân sách chi tiêu chung và chung sống dưới
một mái nhà.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các loại hình gia đình cũng dần biến đổi
với nhiều dạng gia đình mới như: gia đình đơn thân (mẹ và con, cha và con); gia
đình các cặp đôi nam - nữ không kết hôn vẫn chung sống. Trên thế giới có nhiều
nền văn hóa khác nhau, nhiều lối sống khác nhau, nên cũng có nhiều hình thức
và cấu trúc gia đình khác nhau. Khó có thể đưa ra một định nghĩa chung và hoàn
hảo. Dù theo cách tiếp cận nào, thì gia đình vẫn sẽ là một thuật ngữ đa nghĩa.
Khi nào thì con người ta cảm thấy thực sự hạnh phúc. Trước hết có lẽ đó là nhờ
sự hỗ trợ đắc lực của những người thân trong gia đình. Hạnh phúc là khi con
người ta cảm thấy được an toàn khi sống trong “tổ ấm gia đình mình”.
1.1.2.Khái niệm phụ nữ.
Phụ nữ thường được hiểu ở một góc độ hẹp hơn khi họ chỉ được xem như
những người trưởng thành, có mối quan hệ hôn nhân (không phải quan hệ huyết
thống – đóng vai trào là người vợ) với người nam giới trong gia đình (đóng vai
trào là người chồng).
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
5

Khóa luận tốt nghiệp
Tuy nhiên, ngày nay phụ nữ được đề cập tới ở góc độ rộng hơn. Trong từ
điển tiếng Việt ( Hoàng Phê, năm 1997) phụ nữ được định nghĩa như người lớn
thuộc nữ giới. Phụ nữ còn được hiểu là con người có giới tính là nữ và đã trưởng
thành dù họ đã xây dựng gia đình hay chưa xây dựng gia đình.
1.1.3.Khái niệm bạo lực với phụ nữ.
“ Bạo lực” hai từ mà dường như hàng ngày chúng ta đều tìm thấy trên các
phương tiện thông tin đại chúng, nhìn thấy xung quanh mình, những hành vi có
thể tìm thấy trong gia đình hay ngoài xã hội, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ bất
ngờ, ngẫu nhiên đến một quá trình. Chỉ đơn giản là những va chạm nhỏ trong
giao thông, trong buôn bán, sinh hoạt, trong tình cảm… cũng dẫn đến những hậu
quả phạm pháp như: Đánh nhau, đâm chém tạt axit, nặng nhất là giết người…
Những hiện tượng này ngoài yếu tố mất thang bằng trong tâm lý cá nhân còn là
kết quả của nhiều nguyên nhân sâu sa cần được khảo sát.
Chúng ta có thể hiểu Bạo lực : là hình thức chém giết, đánh đập hành hạ
nhau về mặt thể xác, nhưng cũng có thể là trấn áp, đe dọa, gây sức ép về mặt
tâm thần, tâm lý…
Từ khái niệm Bạo lực nêu trên ta có thể hiểu Bạo lực trên cơ sở giới: là
bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ nữ thường là nạn nhân và điều
này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa nam giới và phụ
nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ nữ và cũng ảnh hưởng lớn đến tinh thần và
thể chất phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm, những tổn hại về thân thể, tình
dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe doạ, gây đau khổ, cưỡng bức, hoặc tước đoạt
sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng đồng), nhưng nó không hạn chế
chỉ ở những dạng này. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm cả bạo lực do Nhà nước
gây ra hoặc bỏ qua (Theo Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), năm 2003) .
Bạo hành đối với phụ nữ là một vấn đề phổ biến và nghiêm trọng có ảnh
hưởng đến cuộc sống của phụ nữ và là một trở ngại cho việc đạt được sự bình
đẳng, phát triển và hòa bình trong tất cả các châu lục. Nó nguy hiểm của phụ nữ
sống và cản trở sự phát triển đầy đủ các khả năng của phụ nữ. Nó cản trở việc

thực hiện quyền của họ như là công dân; nó hại gia đình và cộng đồng và củng cố
các hình thức khác của bạo lực trên toàn xã hội, thường là với hậu quả chết người.
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
6
Khóa luận tốt nghiệp
Trong thập kỹ quốc tế phụ nữ (1975 – 1985) các tổ chức về quốc tế nhấn
mạnh bạo lực giới cần được ưu tiên. Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết về
vấn dề BL chống phụ nữ. Tuyên bố của Liên hợp quốc về BL về BL chống phụ
nữ đưa ra vào mùa thu năm 1993, đã nêu ra định nghĩa như sau: bất kì hành
động nào về giới, mà làm tổn hại hoặc gây tổn thương tới thể chất, tình dục hoặc
tâm lý của người phụ nữ bao gồm cả các hành động đe dọa, ép buộc hoặc tự ý
đoạt quyền tự do của họ, bất kỳ ở nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư đều coi
là bạo lực phụ nữ.
Định nghĩa có thể hiểu cụ thể là mọi hành động đánh đập, dạm dụng tình
dục, hành hạ người phụ nữ bằng đòn tâm lý… đều được xem là bạo lực về giới.
Trong xã hội vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng giới, quyền hành nằm trong tay
nam giới thì BL giới trong gia đình thường là bạo lực của người chồng đối với
người vợ trường hợp ngược lại có diễn ra nhưng không phổ biến.
1.1.4. Khái niệm về bạo lực gia đình.
Hiện có nhiều cách định nghĩa khác nhau về bạo lực gia đình. Tuy nhiên một
định nghĩa có tính pháp lý về BLGĐ lại chưa được ban hành. BLGĐ thông thường
được hiểu là sự ứng xử bằng vũ lực hoặc không bằng vũ lực do những người trong
gia đình thực hiện chống lại những người khác cùng trong gia đình đó.
Bộ luật của Bang Georgia (Mỹ) số 19-13-1 định nghĩa bạo lực trong gia
đình là một số hành vi tội phạm thực hiện giữa những người có quan hệ với
nhau. Các hình thức tội phạm bao gồm hành hung, doạ nạt, rình rập, phá hoại tài
sản mang tính tội phạm, câu thúc bất hợp pháp, xâm nhập mang tính tội phạm,
và bất cứ tội hình sự nào khác. Các hành vi diễn ra giữa những con người có liên
hệ với nhau như vợ chồng trong hiện tại hay quá khứ, là cha mẹ chung của cùng
một đứa trẻ, cha mẹ và con cái, cha mẹ kế và con kế hoặc ngay cả những người

ngoài hiện đang hoặc đã sống chung trong một gia đình.
Định nghĩa BLGĐ của Liên hợp quốc thông qua năm 1993 được các tổ
chức cũng như nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó, BLGĐ là
bất kỳ hành động bạo lực nào dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những tổn thất về
thân thể, tâm lý hay tình dục hay những hay những đau khổ của người trong gia
đình, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, việc cưỡng bức hay
tước đoạt sự tự do.
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
7
Khóa luận tốt nghiệp
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của các thành viên trong gia đình gây tổn
hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất – tinh thần, kinh tế đối với các
thành viên khác trong gia đình (Điều 1 – khoản 2 – Luật phòng chống bạo lực
gia đình của Việt Nam, năm 2007, trang 1).
Trong từ điển Tiếng Việt ( 2003) đưa ra khái niệm " Bạo lực là sức mạnh
dùng để trấn áp lật đổ". Tuy nhiên không phải mọi hình thức bạo lực trong xã hội
đều mang tính chính trị, đều chỉ hướng vào việc lật đổ các đảng nhóm, phe phái
chính trị. Người ta có thể dùng bạo lực để hành xử với nhau trong cuộc sống hàng
ngày vì rất nhiều lý do. Các mối quan hệ xã hội là vô cùng đa dạng và phức tạp
thì hành vi bạo lực trong việc xử lý các mối quan hệ này cũng đa dạng phức tạp
như vậy. Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội. Nó là việc các
thành viên trong gia đình sử dụng sức mạnh để xử lý các vấn đề trong gia đình.
Nếu gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt, là hình thức thu nhỏ của xã hội thì
BLGĐ cũng là một hình thức thu nhỏ và đặc biệt của bạo lực xã hội. Sự khác biệt
giữa BLGĐ với các dạng thức bạo lực xã hội khác là ở chỗ BLGĐ lại diễn ra giữa
những người thân, những người có cùng huyết thống, hôn nhân, những người
sống dưới một mái nhà, nơi được coi là tổ ấm hạnh phúc của mỗi người.
Bạo lực trong gia đình là một khái niệm mới được dùng ở Việt Nam để
chỉ bất kỳ một hành động bạo lực nào của thành viên trong gia đình gây ra hoặc
có thể gây ra hậu quả làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho thành viên khác trong

gia đình về thân thể, tình dục hay tâm lý. Hình thức bạo lực trong gia đình khá
đa dạng như bố mẹ, con cái, anh chị em trong nhà đánh đập, giết hại lẫn nhau,
trong đó phổ biến nhất là bạo lực từ phía các ông chồng đối với vợ như: đánh
đập, chửi mắng, cấm đoán, cưỡng ép quan hệ tình dục, cưỡng ép đẻ thêm con
Có thể hiểu bạo lực gia đình là hành vi lạm dụng quyền lực (có hoặc không sử
dụng vũ lực) nhằm hăm doạ hay đánh đập một người thân trong gia đình để điều
khiển, kiểm soát người đó.
Như vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố bạo hành về thể chất, về
tinh thần và cả về kinh tế. Những hành vi bạo lực gia đình gây ra để lại nhiều
tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đối với con người, đặc biệt đối với nạn nhân bị
bạo hành - đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp.
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
8
Khóa luận tốt nghiệp
1.1.5. Khái niệm về bạo lực thể chất với phụ nữ.
Trong các loại BLGĐ thì bạo lực thể chất là loại bạo lực dễ dàng nhận
thấy, bởi nó luôn được thể hiện ra bên ngoài nên việc định nghĩa nó cũng trở nên
bớt căng thẳng hơn.
Trong bộ luật của Liên Hợp Quốc về bạo lực gia đình đã xác định: Bạo lực
về thể chất: đây là hình thức bạo lực bao gồm bất cứ hành vi bạo lực thể chất
gây ra thương tích về thể chất hoặc tổn thương thân thể ở bất kỳ mức độ nào.
Theo tài liệu của viện khoa học xã hội thì: Bạo lực thể chất là hành vi
cưỡng bức thân thể, đánh đập nhằm gây thương tích cho nạn nhân hoặc hạn chế
nhu cầu cần thiết như: ăn,uống, ngủ…
Bạo lực về thể chất đối với người phụ nữ: là sự bất bình đẳng trong mối
quan hệ trong hôn nhân, ngoài hôn nhân hoặc trong những mối quan hệ liên
quan tới hôn nhân đối với người phụ nữ, gây ra những thương tích về thân thể,
xa hơn là gây nên các hậu quả về tinh thần, hoặc tính mạng.
1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Phân loại các loại hình BLGĐ là một vấn đề phức tạp, tuy nhiên lại là hết

sức quan trọng bởi nó cho phép mô tả đa diện thực trạng vấn đề để tìm ra
phương pháp hữu hiệu cho phép khắc phục thực trạng vấn đề. Dựa theo kết quả
các nghiên cứu về thực trạng BLGĐ có thể nói đến các loại hình cơ bản sau của
BLGĐ. Theo tác giả Lê Thị Quý (1999) và Lê Ngọc Văn ( 2004. tr 32) chia ra
hai loại BLGĐ là loại hình BLGD nhìn thấy được thường là hành vi BL về thể
chất như đánh đập, cưỡng bức tình dục, vũ lực hoặc đê dọa về vũ lực kể cả việc
dùng vũ lực để can thiệp vào ý muốn sử dụng các biện pháp tránh thai của vợ và
bạo lực không nhìn thấy được bao gồm cả việc xỉ nhục, chửi bới, thờ ơ lãnh
đạm, hoặc “chiến tranh lạnh”.
Nghiên cứu của Lê Thị Phương Mai (2000) và Nguyễn Thị Hoài Đức
(2001) đã phân ra hai loại BLGĐ gồm bạo lực về thể xác và BL về tinh thần.
Mọi hoạt động làm tổn thương đến đời sống tinh thần của phụ nữ như lăng mạ,
xỉ nhục, đe dọa, hoặc những hành vi xúc phạm, làm nhục vợ, ngoại tình và bạo
hành tình dục trái với ý muốn của người vợ…
Trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá nêu trên chúng ta nêu trên chúng ta có thể
chia làm 4 loại BLGĐ:
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
9
Khóa luận tốt nghiệp
1.2.1. Bạo lực thể chất:
Là loại BL thể hiện rõ nhất, phổ biến nhất, thường gặp trong xã hội ở bát
kỳ nơi đâu, bất kỳ chỗ nào, từ thành thị lẫn nông thôn, đồng bằng hay miền núi.
Là những hành vi ngược đãi, đánh đập hay xỉ nhục của một hoặc nhiều thành
viên trong gia đình làm tổn thương đến nhân phẩm, sức khỏe, tâm thần, tính
mạng của phụ nữ.
Các hành vi chủ yếu của bạo lực thể chất đối với phụ nữ.
+ Thờ ơ.
+ Ngắt, véo gây đau.
+ Đánh đau gây thương tích ở những khu vực khó phát hiện.
+ Xô đẩy, kiềm, xiết.

+ Giật kéo, lắc mạnh, rứt tóc.
+ tát cắn.
+ Đấm, đá.
+ Bóp cổ ném đồ vật vào nạn nhân.
+ Đánh dá vùng bụng gây sảy thai hoặc sinh non.
+ Sử dụng hung khí có sẵn trong nhà tấn công nạn nhân.
+ Gây thương tích nặng không cho nạn nhân chữa trị.
+ Dùng phương tiện có dự định ( Dao, súng)
+ Hủy hoại hoặc làm biến dạng hình thể.
+ Giết.
Nghiên cứu của Dearwater et al, 1998 chỉ ra trong số những người bị bạo
lực gia đình có tới 41,5% nạn nhân bị bạo lực thể chất và có thương tích. Tại
Việt Nam bạo lực thể chất chiếm 23%.Theo báo cáo của bộ công an, từ 1995
đến 2000, đã có 106 vụ án BLGĐ dẫn đến chết người.
1.2.2. Bạo lực tinh thần
Đây là loại BL không những gây tổn thương trực tiếp về thân thể, tổn
thương ngay lập tức mà nó còn để lại hậu quả lâu dài, ảnh hưởng rất lớn đến tâm
lý của người bị BL. Đó là những lời nói thái độ xỉ nhục, lăng mạ của một người
hoặc một nhóm người đối với chủ yếu là phụ nữ làm tổn thương tới nhân phẩm,
tâm lý của họ. BL tâm lý còn là sự áp đặt, chỉ đạo, hoặc xâm phạm đến nguyện
vọng, ý thích, thị hiếu riêng của người phụ nữ. rất nhiều phụ nữ bị hành hạ về
mặt tinh thần này đẩy họ vào địa ngục trần gian và tìm đến cái chết.
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
10
Khóa luận tốt nghiệp
Một nghiên cứu của Viện Xã hội học năm 2001 đưa ra con số là 44,5 %
nam giới thừa nhận đã từng có hành vi “im lặng, từ chối nói chuyện với vợ”,
26,8% đã từng bị chồng mắng chửi hoặc bỏ lửng là kết quả của khảo sát của Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam năm 2001.
1.2.3. Bạo lực tình dục

Đây là loại BL ít xảy ra bên ngoài, người ngoài cuộc khó có thể nhận
thấy được. Đó là hành vi cưỡng ép hoặc dùng BL để thoae mãn tình dục của một
người hay nhiều người đối với phụ nữ. Hành vi này có thể diễn ra một lần hoặc
nhiều lần và diễn ra phổ biến trong quan hệ vợ chồng và bạn tình. BL tình dục
có thể diễn ra kín đáo và âm thầm vừa có thể diễn ra công khai nhưng nhìn
chung cả về đạo đức và pháp luật khó có thể can thiệp.
Một nghiên cứu của trung tâm tư vấn tình yêu hôn nhân và gia đình
Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy trong 1.665 ca BLGĐ năm 2006, có 165 phụ
nữ bị BL tình dục Theo điều tra gia đình Việt Nam 2006 có 7,2% người chồng
cho biết họ là người ép buộc quan hệ tình dục khi vợ không có nhu cầu.
1.2.4. Bạo lực kinh tế
Là việc một người (phần lớn là nam giới) hoàn toàn kiểm soát về tài chính
kể cả trong trường hợp người phụ nữ không được phép kiếm việc làm, nếu họ cố
tình tìm kiếm việc làm thì sẽ phải tự chi trả chi phí, hoặc người đàn ông có thể
đưa cho người phụ nữ một khoản tiền nhỏ so với số tiền cần thiết để đảm bảo
nhu cầu cần thiết.
Tuy các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều loại BL khác nhau, nhưng thực tế
hành vi bạo BL trong gia đình thường là sự kết hợp của nhiều yếu tố tấn công.
BLGĐ có thể là kết quả của việc làm tổn thương tâm lý đối với phụ nữ, kìm hảm
sự phát triển của phụ nữ và đầu độc bầu không khí chung của gia đình làm tổn
hại đối với môi trường giáo dục con cái.
Qua tìm hiểu cách phân chia này ta thấy có một số nét tương đồng. Tuy
nhiên giữa chúng không có ranh giới rõ ràng bởi có loại BL vừa có thể nhìn thấy
được, vừa có loại không nhìn thấy được. Trong các loại BL trên thì bạo lực thể
chất là hay diễn ra nhất và cũng dễ nhìn thấy nhất, tính chất nghiêm trọng mà nó
mang lại cho người phụ nữ là vô cùng đau đớn. Biết bao phụ nữ hàng ngày vẫn
sống sống chung với những trận đoàn thừa sống thiếu chết của các “đức long
quân” mà vẫn âm thầm chịu đựng qua ngày.
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
11

Khóa luận tốt nghiệp
Như vậy vấn đề BLGĐ và hành vi BL là một vấn đề phức tạp thể hiện
nhiều góc độ BL trong gia đình đã trở thành hiểm họa cho xã hội lại xuất phát từ
gia đình 1 tế bào của xã hội. Nếu không có giải pháp ngăn chặn tình trạng này
nó sẽ vô tình phá hoại mọi giá trị đạo đức vốn có của con người Việt Nam. Khi
vẫn còn những người điều chỉnh quan hệ gia đình bằng “nắm đấm” thì còn có
những người phụ nữ đau khổ cả về thể xác và tinh thần, còn có những đứa trẻ
mất môi trường giáo dục lành mạnh trở thành người công dân tốt.
1.3. Khái quát về bạo lực thể chất đối với phụ nữ hiện nay ở Việt Nam.
1.3.1. Khái quát chungvề tình hình bạo lực thể chất đối với phụ nữ.
Trên thực tế, ở Việt Nam tình trạng bạo lực gia đình đang diễn ra ngày càng
phổ biến ở nhiều nơi, số vụ bạo hành gia đình gây hậu quả nghiêm trọng có
chiều hướng tăng cao, tình trạng xúc phạm danh dự, nhân phẩm và tính mạng
của con người xảy ra hàng ngày chủ yếu đối với phụ nữ và trẻ em. Cụ thể có thể
dẫn chứng như: Có 66% các vụ ly hôn ở Việt Nam liên quan đến bạo hành gia
đình.Trong 5 năm từ 2000 - 2005, có 186.954 vụ ly hôn do bạo lực gia đình,
hành vi đánh đập, ngược đãi chiếm 53,1% trong các nguyên nhân dẫn tới ly hôn.
Riêng trong năm 2005, có tới hơn 39,7 nghìn vụ ly hôn có nguyên nhân từ bạo
hành trong tổng số gần 65 nghìn vụ án về hôn nhân và gia đình, chiếm tỷ lệ
60,3%
.
. 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần 23% gia đình có bạo lực về
thể chất, 30% cặp vợ chồng xảy ra hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục, tại
đồng bằng sông Cửu Long có 1.319 ca nhập viện do bạo hành gia đình, trong đó
khoảng 1.000 ca tự tử, và 30 trường hợp tử vong.
Gần 5% phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ trong đó có
nhiều vụ việc thương tâm và gây phẫn nộ dư luận như vụ án gây phẫn nộ nhất
trong dư luận là vụ Vũ Tiến Đại, tại Hải Dương đánh chết vợ chỉ vì một củ
khoai sạn trong khi ăn. Đau lòng hơn cả là vụ Vũ Văn Thành ở Hà Nội, xuất
phát từ một mâu thuẫn nhỏ của gia đình đã dùng dao đâm chết vợ và hai con của

mình. Rồi gần đây nhất gây sự phẫn nộ của dư luận là của Chị Lê Thị Lý chị bị
chồng đánh rất dã man và bắt xem phim sex chồng quan hệ với người tình
Trên đây chỉ là một trong số ít các vụ trọng án về bạo lực gia đình gây chấn
động dư luận trong thời gian vừa qua mà được phanh phui khi mức độ nghiêm
trọng tới mức quá lớn.
Một cuộc điều tra khác cũng cho biết có 21,2% cặp vợ chồng đã kết hôn
cho biết đã trải qua một trong những hình thức bạo lực gia đình như bị đánh,
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
12
Khóa luận tốt nghiệp
mắng, nhục mạ Cuộc điều tra cho thấy hành vi bạo lực gia đình vẫn tồn tại ở
1/5 các cặp vợ chồng. Nạn nhân chủ yếu là người phụ nữ và con cái trong gia
đình. Tình trạng bạo lực xuất hiện ở các cặp vợ chồng từ 31 đến 40 tuổi phổ biến
hơn các nhóm tuổi khác.
Theo Nghiên cứu Quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam
được Tổng cục Thống kê (GSO) và Liên Hợp Quốc (UN) tại Việt Nam công bố
thì có tới 58% phụ nữ Việt Nam được hỏi cho biết, họ từng là nạn nhân của ít
nhất một trong số các hình thức bạo lực gia đình: thể xác, tình dục, tinh thần
Nghiên cứu này cũng đã chỉ ra, bạo lực gia đình là một mối đe dọa nghiêm
trọng đối với cuộc sống của trẻ em. Trẻ em sống trong những gia đình người mẹ
bị cha bạo hành sẽ có nhiều khả năng có các vấn đề về hành vi hơn so với những
trẻ em khác.
1.3.2. Hậu quả của bạo lực thể chất đối với phụ nữ.
Có thể nói, BLGĐ nói chung, BLTC nói riêng đã gây ra nhiều hậu quả
xấu về thể chất, tâm lý, kinh tế, xã hội cho người bị bạo lực cho gia đình và cho
toàn xã hội. Trong đó BLTC có ảnh hưởng rất sâu sắc tới phụ nữ bởi họ là
những nhóm đối tượng có nguy cơ bị BL nhiều nhất cũng như dễ bị tổn thương
nhiều nhất.
Người bị BL vad bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong đa số các vụ BLGĐ
trong đó có BLTC là phụ nữ. Người phụ nữ luôn phải ở trong tâm trạng sợ hải vì

những đe dọa của người chồng hay của những người khác trong gia đình về việc
có thể gây thương tích cho con cái họ. Nhằm mục đích thống trị, người ngược
đãi phụ nữ trong gia đình thường tìm cách cô lập họ, ép buộc họ cắt đứt mọi
đường dây liên lạc qua thư từ, điện thoại. Người phụ nữ cũng luôn bị kiểm soát
thân thể, khiến họ ngày càng trở nên không tự chủ, luôn có cảm giác xấu hổ, mất
tinh thần, hay mất ngủ, trầm uất, họlkuôn phải tuân theo ngững mệnh lệnh ngay
cả việc liên quan đến những sinh hoạt hàng ngày như ăn, mặc, đi lại
Theo báo cáo của Hội liên hiệp hội phụ nữ Việt Nam, năm 2009 thì hậu
quả của bạo lực gia đình gây thương tích thân thể chiếm 12,8%; tổn thương về
tinh thần 28,3%; Vợ chồng ly thân 5,1%; ly hôn 14,8%; con cái không được
chăm lo 13,3%; tử vong 2,8%; tự tử 1,2%; (số này ở miền núi và dân tộc chiếm
cao hơn), 2,7% bạo lực về kinh tế (hành vi phá hoại làm hư hỏng về tài sản).
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
13
Khóa luận tốt nghiệp
Nghiêm trọng hơn BLTC đã xâm phạm đến quyền con người, danh dự
nhân phẩm tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Thậm chí
nó còn làm xói mòn về đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và ảnh hưởng xấu đến
thế hệ tương lai. BL trong gia đình để lại một hậu quả nghiêm trọng, có thể các
vết thương về thể xác sẽ nhanh chóng phục hồi và lành lặn nhưng những vết
thương về tình thần rất khó để xóa nhòa đối với phụ nữ và trẻ em chứng kiến
BLGĐ. Đây cũng là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình.
BLGĐ không chỉ gây nên những tổn thương đối với phụ nữ trong gia đình mà
nó còn gây nên những ảnh hưởng tới nhiều thành viên khác trong gia đình nhất
là trẻ nhỏ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển sau này của trẻ. Những tổn thất
về kinh tế do BLTC gây nên đối với gia đình là rất rõ rệt. Sự đập phá trong
những cơn giận dữ đã làm tiêu tán rất nhiều của cải của gia đình hay hành vi
đánh vợ phải đi điều trị cũng vậy. Do bị thương tích trong các cuộc BL nên
nhiều phụ nữ thậm chí đàn ông phải nghĩ việc, vì vậy thu nhập của gia đình bị
giảm sút…

BLGĐ trong đó có BLHTC cũng đã và đang gây nên nhiều tổn thất cho
xã hội cả về khía cạnh vật chất và tinh thần. Những chi phí cho xã hội để can
thiệp các ca bạo hành trong gia đình không phải là nhỏ. Một số thống kê về chi
phí liên quan đến BLGĐ tại thành phố New York với số dân 8 triệu người cho
thấy hàng năm kinh phí viện phí vào khoảng 1 tỷ đô la Mỹ, kinh phí cho các nhà
tạm lánh của những người bị BL cũng đạt từ 30 đến 40 triệu đô la Mỹ.
Thực tế trên cho thấy cần một thể chế pháp lý đủ mạnh để có thể góp
phần phòng và chống bạo hành gia đình bảo vệ các đối tượng yếu thế bên cạnh
các phương pháp như kinh tế, giáo dục, tuyên truyền, thuyết phục.
1.3.3. Nguyên nhân gây nên bạo lực thể chất đối với phụ nữ.
Nguyên nhân dẫn đến BLTC có nhiều, song kết quả điều tra của Uỷ ban các
vấn đề về xã hội, năm 2010 chỉ ra rằng, nguyên nhân cơ bản dẫn đến bạo lực gia
đình cũng như BLTC là do lạm dụng rượu bia (63,7%) và các tệ nạn xã hội khác
như cờ bạc, nghiện ma tuý, ngoại tình, ghen tuông, thiếu hiểu biết pháp luật,
kinh tế khó khăn, kể cả kinh tế khá giả cũng có bạo lực gia đình. Ở Việt Nam,
các nghiên cứu cũng chỉ ra nghèo đói cũng gắn với trình độ học vấn thấp của các
thành viên trong gia đình, làm họ không mhận thức đầy đủ của tác hại của các
hành vi bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình. Điều tra gia diình Việt Nam
(2006) cho thấy một trong những nguyên nhân chính gây ra BLGĐ là khó khăn
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
14
Khóa luận tốt nghiệp
về kinh tế? (7,8%). Tương tự Lê Thị Phương Mai và Lê Ngọc Lan trong nghiên
cứu của mình các tác giả cũng tìm thấy một tỉ lệ 75% số người được hỏi đề cập
tới khó khăn về kinh tế được xem là nguyên nhân của BLGĐ nói chung và
BLTC nói riêng.
Bạo lực trong gia đình thường do người chồng "khởi xướng". Nguyên nhân
sâu xa là sự tồn tại tình trạng bất bình đẳng giới và tư tưởng gia trưởng (có quyền
"dạy bảo" các thành viên yếu thế trong gia đình bằng vũ lực hoặc nhục mạ).
Những hành vi bạo lực gia đình đã thể hiện lối sống thiếu trách nhiệm,

việc ứng xử thiếu văn hoá trong gia đình, phản ánh sự suy thoái về đạo đức của
một số thành viên trong gia đình. Các hành vi bạo lực thường xảy ra đằng sau
những cánh cửa khép kín. Các thành viên trong gia đình còn cố tình che giấu.
Thậm chí, nhiều chị em bị chồng đánh bầm tím mặt mày, khi hàng xóm hỏi đến
thì lấy lý do là tai nạn xe, hay vấp ngã để bao che cho chồng mình. Chính sự che
giấu này, đã vô tình góp phần duy trì hành vi BLTC của người chồng. Ngoài ra,
chính thái độ dửng dưng của nhiều người khi xem chuyện BLGĐ là chuyện
riêng của người khác, nên khi thấy hành vi bạo lực xảy ra đã không can thiệp,
hoặc không thông báo cho chính quyền địa phương.
Sự thiếu vắng các chính sách và sự thực hiện các chính sách bình đẳng
giới và bảo vệ phụ nữ cũng cần được xem xét như một nguyên nhân của sự tồn
tại và gia tăng của hiện tượng bạo lực gia đình. Sự thiếu vắng những dịch vụ trợ
giúp nạn nhân bị BL trong cộng đồng, không những hạn chế việc công khai các
ca BL mà còn làm gia tăng sự cam chịu của các nạn nhân và trở thành tiềm thức
cho việc quy gán trách nhiệm con người và tội lỗi của chính phụ nữ với hành vi
BL của chồng.
Nói tóm lại, có khá nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan trong sự
tồn tại của BLTC, việc tìm ra nguyên nhân giải quyết nó là một vấn đề cần sự
phối hợp của nhiều cơ quan, đoàn thể. Muốn ngăn ngừa và giảm bớt hành vi này
cần có sự can thiệp của xã hội để giải quyết các nguyên nhân gây nên những
hành vi BL được đề cập ở trên.
Bạo lực gia đình là một hiện tượng tiêu cực đi ngược lại những giá trị
chuẩn mực về đạo đức, văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam và việc thực hiện
các chính sách kinh tế xã hội và tiến bộ xã hội của Đảng và Nhà nước. Vì vậy
Luật Phòng chống bạo lực gia đình cũng đã được Quốc hội thông qua và có hiệu
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
15
Khóa luận tốt nghiệp
lực từ ngày 1/7/2008, đã tạo hành lang pháp lí quan trọng cho việc xây dựng các
mô hình và tổ chức các biện pháp phòng, chống bạo lực có hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, bạo lực gia đình là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp, gắn liền
với truyền thống, văn hóa, phong tục, tập quán của mỗi địa phương và nhận
thức, suy nghĩ của người dân. Do vậy công tác phòng, chống bạo lực gia đình
không chỉ bao gồm việc áp dụng và thực thi pháp luật mà còn phải gắn liền với
việc thực hiện bình đẳng giới và công tác xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc;
không chỉ bao gồm việc điều tra, xử lý trách nhiệm người gây bạo lực mà còn
phải trợ giúp có hiệu quả đối với nạn nhân của bạo lực gia đình.
1.4. Quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước ta về bạo lực
gia đình.
Bạo lực gia đình trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng hiện
nay đang là một vấn đề nhức nhối, nổi cộm và có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát
triển của xã hội, bạo lực gia đình gây tổn hại rất lớn về tâm lý, sức khỏe của
người bị bạo hành. Đây cũng là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm bền vững
hạnh phúc gia đình. Vì vậy cần có khung pháp lý để ngăn chặn tình trạng BL,
việc phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ hiện nay thực sự là cần thiết nhưng
không mấy dễ dàng, nó đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ giữa khung pháp lý
đưa ra cùng với các hoạt động can thiệp trong thực tế khác hẳn với những vấn
đề BL trong xã hội.
1.4.1.Các quyền của phụ nữ liên quan đến BLGĐ.
“ Quyền của phụ nữ là nhân quyền” kể từ hội nghị quốc tế về nhân quền
tổ chức tại Viên ( Áo) năm 1993, khẩu hiệu này trở thành lời kêu gọi cho phụ nữ
trên khắp thế giới rằng phụ nữ là con người và đã là con người thì có quyền như
nhau. Tại Việt Nam trong hiến pháp 1992 có các quy định liên quan đến BLGĐ
với phụ nữ tập trung vào các điều 50,52,63,71. Đã khẳng định những nguyên tắc
cơ bản “ Mọi công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật” ( điều 52), “ Công
dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biẹt đối xử với phụ nữ, xúc
phạm nhân phẩm”( Điều 63). Đặc biệt trong điều 71 quy định rõ “ công dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Bộ luật dân sự 1995 khẳng định ở nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam danh dự và uy tiến của cá nhân được pháp luật
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
16
Khóa luận tốt nghiệp
bảo vệ, cá nhân có quyền được đảm bảo tính mạng, sức khỏe thân thể vợ chồng
bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia
đình… tất cả điều này được ghi rõ trong điều 32,33,36,37,38 của bộ luật này.
Luật hôn nhân và gia đình dành rất nhiều quy định, nghĩa vụ và trách nhiệm
giữa vợ và chồng, giữa các thành viên trong gia đình thể hiện cụ thể trong điều
2,18,19,38,47,49,67,83. Nội dung chủ yếu: Vợ chồng có quyền đồng thời là
nghĩa vụ chung thủy, thương yêu chăm sóc lẫn nhau, tôn trọng danh dự, nhân
phẩm, uy tín của nhau. Vợ chồng có quyền ly hôn. Nếu đánh giá dưới góc độ
phòng chống BLGĐ thì ly hôn là biện pháp cuối cùng để đảm bảo không xảy ra
bạo lực đối với phụ nữ. Bộ luật tố tụng hình sự cũng thể hiện rõ quyền của công
dân như các quyền trên ở điều 61.
Tuy khung pháp đưa ra rất nhiều quyền cho phụ nữ nhưng việc thực hiện
nó lại là một vấn đề nhất là khi vẫn còn tư tưởng “trọng nam khinh nữ” thì
quyền mà phụ nữ được hưởng là rất ít. Một thực tế đáng buồn là rất ít phụ nữ
biết được mình có những quyền lợi nào trước pháp luật, trong cuộc sống hàng
ngày. Chính vì vậy mà cần có biện pháp nhằm nâng cao quyền lợi, nâng cao
nhận thức cho phụ nữ. Điều này cần có sự phối hợp của nhiều ban ngành từ
trung ương đến địa phương.
1.4.2.Pháp luật Việt Nam về các vấn đề liên quan tới bạo lực gia đình.
1.4.2.1. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới bạo lực gia đình.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Việt Nam năm 1992 điều 63 quy định “
Nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xâm phạm nhân phẩm
phụ nữ” với tư các là công dân, người phụ nữ có quyền bất khả xâm phạm sức
khỏe, tính mạng và được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm.
Bộ luật dân sự , ngày 14/06/2005, quy định tư cách pháp lý, định mức, và
hành vi của cá nhân, các quyền và nghĩa vụ của họ đối với các thành viên gia

đình và tài sản của họ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân, kinh doanh, thương
mại và lao động. Theo quan hệ tài sản và gia đình của Bộ luật này, có các quy
đối với hành vi của chồng, vợ và các thành viên khác trong gia đình, được quy
định đầy đủ và toàn diện. Điều 5 về các nguyên tắc bình đẳng và Điều 36 về
bình đẳng của vợ chồng theo quan hệ dân sự cũng được quy định cụ thể.
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
17
Khóa luận tốt nghiệp
Luật hôn nhân và gia đình, ngày 09/06/2000: Gia đình là tế bào xã hội. Gia
đình tốt thì xã hội mới tốt, được sống trong một gia đình ấm no, hạnh phúc,
không có BL là quyền của mỗi con người được hưởng. Mỗi hành vi BL trong
gia đình đều là nổi bất hạnh của mọi thành viên là vật cản trên con đường xây
dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, bền vững. Vì vậy mà luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 đã quy định rất rõ tại Điều 2( các mục 1,2,5), Điều 4, Điều
19,20,21,22, 23, 2434,35,38,67 và 107 của luật này bao gồm các điều khoản trực
tiếp liên quan đến phòng chống bạo lực gia đình khẳng định sự bình đẳng giữa
nam giới va phụ nữ, chồng và vợ, nghiêm cấm phân biệt đối xử, ngược đãi, xúc
phạm lẫn nhau, khẳng định quyền của người vợ tự do lựa chọn nơi cư trú, khẳng
định các nghĩa vụ tôn trọng và bảo toàn danh dự, nhân phẩm và uy tín của vợ
chồng.
Điều 6 của bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi bổ sung 26/11/2003 quy định:
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của
công dân đều bị xử lý trước pháp luật”. Như vậy bất kể hành vi xảy ra trong đời
sống cộng đồng hay phạm vi gia đình bất kể chủ thể vi phạm có quan hệ gia
đình với nạn nhân hay khong đều bị xử lý trước pháp luật.
Quyết định số 106/2005/QĐ – TTg ngày 16/05/2005 của thủ tướng chính
phủ về việ phê duyệt chiếm dược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-
2010 tại mục tiêu 2 đã quy định: Tăng cường phòng, chống bạo lực trong gia
đình; khuyến khích phát huy các phong tục, tập quán tốt đẹp và vận động người
dân xóa các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình.

Các quy định trên đã đóng một vai trò quan trọng trong công tác phòng
chống bạo lực gia đình, thiết lập các nguyên tắc cho hành vi tiến bộ và trách
nhiệm, góp phần xây dựng gia đình bình đẳng và hạnh phúc.
1.4.2.2. Biện pháp xử lý đối với những hành vi vi phạm các quyền:
Biện pháp hình sự - bộ luật hình sự 21/12/1999 quy định và hình phạt đối
với người phạm tội. Những người gây ra các hành vi bạo lực gia đình cấu thành
một tội phạm cụ thể theo quy định của Bộ luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình
sự đối với tội phạm đó. Điều 48, quy định các tình tiết tăng nặng, trong khoản 1,
điểm h nêu rõ: “ Tình tiết tăng nặng bao gồm các tội phạm đối với trẻ em, phụ nữ
mang thai, người già, người không có khả năng tự bảo vệ hoặc những người phải
dựa vào người vi phạm về vật chất, tinh thần, công việc hoặc những vấn đề
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
18
Khóa luận tốt nghiệp
khác”. Toàn bộ chương XII của bộ luật hình sự đã quy định tội danh và hình phạt
tới các hành vi và bạo lực đối với các công dân nói chung và đối với phụ nữ nói
riêng. Chương này gồm có 30 điều trong đó có 14 điều liê quan tới hành vi BLGĐ
với phụ nữ đó là các điều 93 tội giết người, điều 104 tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác, điều 110 tội hành hạ người khác, tội buôn
bán phụ nữ, điều 121 tội làm nhục người khác. Ví dụ. cố ý gây thương tích hoặc
tổn hại sức khỏe của những người khác sẽ được định nghĩa là hành vi phạm tội
bất cứ khi nào mức độ tổn thương từ 11 – 30%. Tuy nhiên, nếu nạn nhân là ông
bà, cha mẹ, trẻ em, phụ nữ mang thai…thì hành vi sẽ được xá định là hành vi
phạm tội mặc dù mức độ thương tích thấp hơn 11%.
Pháp lệnh Xử lý hành chính 02/07/2002, và các văn bản pháp luật hướng dẫn
chi tiết thi hành pháp lệnh này quy định xử phạt hành chính đối với các cá nhân,
tổ chức đã cố ý hoặc vô ý vi phạm các nguyên tắc quản lý nhà nước, nhưng không
bị coi là tội phạm mà chỉ bị xử phạt hành chính căn cứ trên yêu cầu của pháp luật.
Theo quy định của pháp lệnh (các điều 23, 24, 25,26), việc xử phạt hành chímh
cũng đượ áp dụng đối với những cá nhân thường xuyên vi phạm. Các hình thức

xử phạt bao gồm: Giáo dục tại cộng đồng,chữa trị bệnh tại các cơ sở y tế, và các
trung tâm cải tạo. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, thủ phạm của
bạo lực gia đình sẽ bị trừng phạt băng cachs xử phạt hành chính hoặc bằng cách
gửi tại các trung tâm giáo dục hoặc trường học đặc biệt.
Biện pháp hành chính: nghị định của chính phủ số 87 – 2001/NĐ/CP về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Nghị định quy định về xử
phạt hành chính đối với các hành vi ép buộc hôn nhân, kết hôn, ly hôn, vi phạm
chế độ 1 vợ 1chồng vi phạm các quy định về cấp dưỡng. ĐẶc biệt quy định các
hành vi ngược đãi, hành hạ các thành viên trong gia đình đã khẳng định quan điển
của nhà nước không coi BLGĐ là việc của riêng ai mà là việc của toàn xã hội.
Tiếp theo là Luật Phòng chống bạo lực gia đình được thông qua năm 2007,
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2008 đã đưa ra những biện pháp bảo vệ để
ngăn không cho bạo lực xảy ra trong phạm vi gia đình đối với các thành viên và
Luật cũng nêu chi tiết một loạt các hành vi bạo lực gia đình. Luật Phòng chống
bạo lực gia đình là một luật dân sự và bổ sung cho Bộ luật Hình sự và các luật
khác đã đề cập tới những hình thức bạo lực khác. Điều 43 của luật này quy định
việc áp dụng biện pháp giáo dục cộng đồng, đưa các thủ phạm vào các cơ sở để
giáo dục và đào tạo. Nó quy định việc áp dụng những biện pháp như vậy đối với
SVTT: Nguyễn Thị Nguyệt
19

×