Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

bạo lực gia đình hiện nay, nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.57 KB, 29 trang )

Website:


Email :
đại học quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học khoa học x hội và nhân vănã
Khoa triết học

tiểu luận
bạo lực gia đình hiện nay,
nguyên nhân và giải pháp
Giáo viên hớng dẫn : Nguyễn Văn Thiện
Nhóm : Số 2
Lớp : K47-Triết học
Hà Nội -2005
Đặt vấn đề
Quan hệ gia đình giữa chồng với vợ, cha mẹ và con cái, anh chị
em với nhau là quan hệ tình cảm thiêng liêng, ấm áp Gia đình là tổ
ấm, là nơi thoả mãn những nhu cầu tình cảm và vật chất của các thành
viên, bảo vệ họ trớc những căng thẳng của cuộc sống. Gia đình trở
thành thiên đờng trong thế giới con tim (chữ dùng theo nhan đề một
cuốn sách của tác giả Mĩ). Thế nhng có phải gia đình nào cũng là
thiên đờng không khi mà
Bạo lực gia đình đang là vấn đề mang tính chất toàn cầu, nó xảy
ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo số liệu điều tra của liên
đoàn Phụ nữ toàn quốc bạo lực gia đình đang đe doạ cuộc sống của
30% trong tổng số 270 triệu gia đình sống trên lục địa (Theo tạp chí
khoa học về phụ nữ, số 4/2003).
Quả thực, đó là một con số không nhỏ. Riêng ở Việt Nam
trong khoảng 10 năm trở lại đây, vấn đề này mới đợc nghiên cứu ở
một số công trình của Hội Liên hiệp Phụ nữ và một số tác giả ở trong


nớc. Hậu quả của bạo lực gia đình gây ra là một đặc biệt nghiêm
trọng, nó không chỉ gây tổn thơng đến cuộc sống, sức khoẻ, danh dự
của các thành viên trong gia đình, mà còn vi phạm tới các chuẩn mực
đạo đức xã hội, tiếp tay cho sự gia tăng của các tệ nạn nh : mại dâm,
2
ma tuý, ngời lang thang cơ nhỡ, nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ
Qua đó cho thấy bạo lực không còn là việc nội bộ tự giải quyết trong
mỗi gia đình, mà đã trở thành một tệ nạn cần có sự quan tâm của toàn
xã hội.
Trong đề tài này, chúng tôi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu thực
trạng của vấn đề bạo lực trong gia đình Việt Nam hiện nay dựa trên
các số liệu thống kê của một số báo và tạp chí trong năm 2005. Từ đó
nêu bật hậu quả cũng nh kinh nghiệm và giải pháp của nạn bạo hành
trong gia đình hiện nay.
3
Chơng 1: Thực trạng về bạo lực và gia đình
ở nớc ta hiện nay.
1.1. Bạo lực gia đình đợc hiểu nh thế nào?
Năm 1993, Đại hội đồng liên hợp quốc đã thông qua định nghĩa
về : Bất kỳ hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc
có khả năng dẫn đến tổn thất về thân thể, về tình dục hay tâm lý hay
những đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe doạ có những hành động
nh vậy, sự cỡng bức hay tớc đoạt một cách tuỳ tiện sự tự do, dù nó
xảy ra ở nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng t. (Tạp chí TLH,
số 5 (74), 5-2005).
Nếu xét trên quan điểm này thì bạo lực xảy ra trong gia đình
chủ yếu tồn tại dới 2 hình thức. Thứ nhất, là bạo lực nhìn thấy đợc
hay còn gọi là bạo lực thể xác nh: xô đẩy, đánh đấm, dùng roi vọt,
thậm chí có tính hành hung và gây thơng tích cho các nạn nhân. Thứ
hai, là bạo lực không nhìn thấy, diễn ra một cách âm thầm, chủ yếu là

dùng ngôn ngữ chì chiết đay nghiến dày vò tinh thần. Đặc biệt loại
bạo lực này xảy ra và có xu hớng ngày càng gia tăng. Theo một
nghiên cứu của Trung tâm t vấn Tình yêu, hôn nhân và gia đình thành
phố Hồ Chí Minh thì trong 1665 vụ bạo hành trong gia đình có 43,6%
phụ nữ bị bạo hành về thể xác, 55,3% bị bạo hành về tinh thàn và
1,6% bị bạo hành về tình dục (Báo Tâm lí học, số 5, 5/2005).
Bạo lực gia đình là sự phản ánh cuộc khủng hoảng của gia đình,
bất đồng trong quan điểm, sa xút về tình cảm và cả sự suy thoái về
các chuẩn mực đạo đức.
4
1.2. Bạo lực trong quan hệ vợ chồng.
Bớc sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình vẫn lan rộng và trở thành
vấn đề xã hội nghiêm trọng và phổ biến, đặt ra cho xã hội nhiệm vụ
cấp bách là: Phải làm gì để bảo vệ phụ nữ trớc những hành vi bạo lực?
ở Việt Nam, cha có các cuộc khảo sát trong cả nớc về tình trạng bạo
lực gia đình, nhng theo báo cáo của Bộ Công an, từ năm 1995 đến
năm 2000 đã có 106 vụ án bạo lực gia đình dẫn tới chết ngời. Riêng
năm 2001 trong số 1.100 vụ giết ngời trong cả ncớ thì có tới 16% số
vụ do ngời thân trong gia đình giết hại lẫn nhau. Trên báo chí hàng
ngày đã đăng tải nhiều vụ bạo lực rất dã man trong gia đình nh : Bài
khống chế, đổ thuốc diệt cỏ vào miệng vợ!?. Báo thanh niên, số 186
ra ngày 5/7/2003; Kẻ giết vợ dã man - Báo Giáo dục và Thời đại ra
ngày 13/5/2003; Cần nghiêm trị kẻ giết vợ dã man - Báo Phụ nữ
Việt Nam ra ngày 17/2/2003; Đổ xăng đốt vợ - Báo Công an nhân
dân ra ngày 7/12/2002 Những bài báo đã mô tả những hành động
tội ác dã man, vô nhân tính của ngời chồng đối ới vợ mình và rút ra
những bài học sau những vụ bạo lực dã man đó. (Bạo lực trong gia
đình - Vấn đề xã hội nghiêm trong và phổ biến. (Thân Trung Đông -
Giáo dục và trẻ em)
Về cơ bản, bạo lực và quan hệ vợ chồng hiện nay có thể đợc

chia thành 3 hinh thức chính nh sau.
- Bạo lực thân thể:
Bạo lực thân thể là những hành vi sử dụng cơ bắp, (tay, chân)
hoặc công cụ (thậm chí cả vũ khí) gây nên sự đau đớn về thân thể đối
với nạn nhân. Bạo lực thân thể còn bao gồm cả việc ngắn cấm phụ nữ
5
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cũng nh ngăn ngừa họ không
đợc tiếp cận các nhu cầu vật chất của mình nh: ăn, uống, ngủ, nghỉ
Thực tế cho thấy bạo lực trong gia đình nhất là bạo lực chống
lại phụ nữ đã và đang trở thành vấn đề khá phổ biến ở hầu hết các
tỉnh thành trong cả nớc, nhng những con số thống kế số vụ bạo hành
trong gia đình so với thực tế là quá ít.
Nạn nhân của bạo lực trong gia đình (xét trong quan hệ vợ
chồng) thì phụ nữ chiếm đa số. Thực tế cũng cho thấy không chỉ
những ngời phụ nữ có trình độ văn hoá thấp mà cả những ngời phj nữ
có trình độ văn hoá tơng đối cao, có địa vị trong xã hội cũng là nạn
nhân của nạn bạo hành trong gia đình. Trong đó bạo hành về mặt thể
xác của ngời chồng đối với vợ là rõ nhất. Nguyên nhân của nạn bạo
hành thể xác đối với phụ nữ là do ngời chồng say rợu, cờ bạc, nghiện
hút, đòi tiền để thoả mãn cơn nghiện hoặc do căng thẳng, thần kinh
không ổn định, thất vọng trong cuộc sống Bạo lực về mặt thể xác
đối với phụ nữ ở nông thôn cao hơn ở thành thị. Phần lớn là tập trung
trong các gia đình ngời chồng có trình độ văn hoá thấp, làm nông
nghiệp, tuy nhiên cũng có những ngời chồng có trình độ văn hoá tơng
đối cao, có địa vị trong xã hội.
Bạo lực thân thể để lại hậu quả nghiêm trong đối với sức khoẻ
của ngời phụ nữ, có những ngời phụ nữ bị chồng đánh đập đã phải
mang thơng tật suốt đời, thậm chí không ít những ngời vợ đã phải
thiệt mạng bởi chính bàn tay của chồng mình. Báo Gia đình và xã hội
số 195 (821) ra ngày 4/10/2005 trong bài: Bạo lực gia đình - Những

hồi chuông báo động đã đa tin một ngời đàn ông là N.V.M (xã Hảo
Đức, Châu Thành, Tây Ninh) trong lúc tức giận, say xỉn đã đá vào
6
bụng vợ mình khi vợ mình đang mang thai tháng thứ 6, khiến cả 2 mẹ
con chết trên đờng đi cấp cứu.
Cũng trên báo Gia đình và Xã hội số 163 (825) ra ngày
11/10/2005. Trong bài Phải xử lý nghiêm kẻ vũ phu (tác giả: Hoàng
Hữu Quyết) đã lên án tên Nguyễn Văn Dần (1962, P.Hoà Minh, thành
phố Đà Nẵng) vì ghen tuông mù quáng đã lấy cây gỗ dùng ván cốp
pha đánh tới tấp vào ngời, đầu và mặt vợ là chi Hà Thị Trờng. Cha hả
giận, hắn còn lấy dây xích chó và một đoạn xích dùng để kéo xe bò
trói và khoá chân tay của chị Trờng vào chân giờng bằng 3 ổ khoá
lớn, không cho ăn uống trong 2 ngày
Báo cáo của ngành Toà án tổng kết 8 năm thực hiện luật Hôn
nhân và Gia đình cho biết, Hà Nội có 7372 vụ ly hôn do phụ nữ bị
đánh đập, ngợc đãi chiếm 31,1% trong các cuộc ly hôn, ở Hải Phòng
có 2359/7743 vụ ly hôn do gia đình có hành vi bạo lực, trong đó có
22 vụ cấu thành tội phạm hình sự; tại thành phố Hồ Chí Minh có 10%
số vụ ly hon do ngời chồng rợu chè, cờ bạc và thờng xuyên đánh đập
vợ. Bệnh viện huyện Xuân Trờng, Nam Định trong 4 năm đã tiếp
nhận 90 ngời tự tử vì bị đối xử tệ bạc, ngợc đãi. 90% trong số này do
bị chồng hành hẹ, ngợc đãi nên phẫn uất tìm cách quyên sinh. Cảnh
sát 113, Hà Nội trong 3 năm đã nhận đợc 517 tin liên quan trực tiếp
đến nạn bạo hành gia đình. Lực lợng này đã phải bắt giữ, xử lý 516
đối tợng, chủ yếu do ngời chồng nghiện ngập, không có tiền nên đe
doạ, đánh đập vợ, có trờng hợp còn đốt nhà của mình. (Báo Gia đình
và Xã hội, số 159 ra ngày 4/10/2005).
Những con số trên đã cho thấy bạo hành thân thể trong gia đình
đã và đang là vấn đề nóng bỏng, xảy ra ở hầu hết các địa bàn trên
7

toàn quốc và trở thành nguyên nhân chủ yếu làm tổn hại sức khoẻ,
đến sự bền vững của gia đình, vi phạm pháp luật.
Bạo lực thân thể trong quan hệ vợ chồng không chỉ tác động
trực tiếp đến sức khoẻ, tinh thần của ngời phụ nữ mà còn gây ảnh h-
ởng lớn đến sự phát triển tình cảm của trẻ em. Gia đình không hoà
thuận, cha mẹ đánh đập nhau sẽ tác động không tốt đến t tởng, làm
mất niềm tin ở con trẻ vào cha mẹ của mình, không thấy đ ợc ý nghĩa
của cuộc sống.
V.A.Xukhômlinxiki đã nhận xét: Những đứa trẻ tốt thờng lớn
lên trong những gia đình mà bố mẹ chúng yêu thơng nhau thực sự,
cũng biết yêu thơng và tôn trọng ngời khác. ở những đứa trẻ đó có sự
yên tính trong tâm hồn, một tâm hồn mạnh khoẻ, khoẻ khoắn, vững
chắc, một niềm tin chân thành vào điều thiện. Chính vì vậy, cha mẹ
luôn phải là tấm gơng sáng để trẻ học tập và noi theo. Nh vậy, có thể
thấy rằng bạo lực thân thể là một những những nguyên nhân chính
của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến chỗ tan vỡ, đẩy
trẻ em phải ra đờng sống lang thang, thậm chí trở thành tội phạm.
Bên canh những hành động bạo lực giã man - và thô bạo thì một loại
bạo lực khá phổ biến hiện này là bạo lực tình dục.
- Bạo lực tình dục:
Bạo lực tình dục là cỡng ép, ép buộc phuu nữ phải làm những
việc liên quan đến tình dục trái với mong muốn của họ; bàn luận về
những bộ phận trên cơ thể phụ nữ, cỡng hiếp, giam cầm và sử dụng
công cụ tình dục; xem phụ nữ chỉ nh là một đối tợng tình dục; ép phụ
nữ phải quan hệ tình dục hoặc bắt phải xem các hình ảnh khiêu dâm
mà ngời phụ nữ không muốn hoặc ép phải quan hệ tình dục khi đã bị
8
đánh đập, cố tình gây đau đớn hoặc tổn hại cho họ trong quá trình
quan hệ tình dục.
Trong đời sống vợ chồng ở nhiều gia đình, hôn nhân đợc hiểu

nh là sự cho phép ngời đàn ông có quyền tiếp cận tình dục với ngời vợ
vô điều kiện và họ có sức mạnh để củng cố sự tiếp cận này thông qua
cỡng bức nếu thấy cần thiết. Không ít phụ nữ khi không đồng ý quan
hệ với chồng đã bị chồng chì chiết, chửi mắng thậm tệ, thậm chí bị
trói vào cột nhà để hãm hiếp. Bị bạo hành về tình dục đã khiến ngời
phụ nữ có cảm giác nh mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của
chồng nên cảm thấy quan hệ sợ mỗi khi gần gũi với chồng. Trong
quan hệ phòng the, lẽ ra ngời phụ nữ cũng có quyền đợc trân trọng
thì trái lại, họ lại bị trớc đi quyền đợc làm vợ, nghĩa là đợc nâng niu,
chiều chuộng và đợc yêu thơng. Họ cỉ có một nhiệm vụ duy nhất là
phục vụ và phục vụ.
Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu về Giới, Gia đình, Phụ
nữ và Vị thành niên thì trong hơn 30.000 cuộc gọi điện thoại đến nhờ
Trung tâm t vấn có liên quan đến bạo lực gia đình thì có gần 2000
cuộc gọi liên quan đến bạo lực tình dục (Gia đình và Xã hội, số 160
ra ngày 6/10/2005).
Bạo lực tình dục đang ngày càng trở nên pổ biến ở các nông
thôn và thành thị. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều ngời phụ nữ nói
chung, thậm chí cả những ngời phụ nữ là nạn nhân của dạng bạo hành
này cũng không biết họ đang bị bạo lực tình dục, nhiều ngời phụ nữ
còn rất ngạc nhiên. Quả thật, bạo lực tình dục còn là vấn đề khá mới
mẻ với rất nhiều phụ nữ trong xã hội ta hiện nay.
Đã có rất nhiều bài báo viết về vấn đề bạo lực tình dục trong gia
đình nh bài viết Bạo lực tình dục - nỗi kinh hoàng trong đêm của
9
tác giả Vạn Xuân (Báo Gia đình và Xã hội số 160 ra ngày 6/10/2005).
Bài Chống bạo lực tình dục của Trần Tuấn Linh (Tạp chí Gia đình
và Trẻ em); bài Bạo dâm - hành vi ngợc đãi phụ nữ cần đợc ngăn
chặn của Phúc Hng và Ngọc Hùng (Tạp chí Gia đình và Trẻ em). ở
các bài viết này, các tác giả đã nêu lên nhiều trờng hợp cụ thể những

phụ nữ là nạn nhân của nạn bạo lực tình dục.
Nh vậy có thể nói nạn bạo lực tình dục đã và đang trở thành vấn
nạn của các gia đình và toàn xã hội. Nạn nhân của tệ nạn này phần
lơn là những ngời phụ nữ. Bạo lực tình dục không chỉ gây đau đớn về
mặt thể xác đối với phụ nữ mà còn gây ra hậu quả về mặt tinh thần
hết sức nghiêm trọng, trở thành nỗi kinh hoàng trong đêm của rất
nhiều phụ nữ. Sự lạm dụng về tình dục gây ra những căn bệnh có liên
quan đến sức khoẻ sinh sản khó điều trị nhất nh mang thai ngoài ý
muốn HIV, các bệnh lây truyền qua đờng tình dục, hay những biến
chứng thai sản Dạng bạo lực này ngày càng gây hậu quả nghiêm
tọng đối với phụ nữ. Tuy nhiên dạng bạo lực này không mấy ai biết
và chú ý bởi vì nó đợc nguỵ trang một cách kín đáo bởi vỏ bọc là
quan hệ tình cảm giữa hai vợ chồng. Mặt khác, đây là vấn đề tế nhị
cho nên chị em thờng dấu giếm vì không muốn vạch áo cho ngời xem
lng. Những điều này góp phần làm cho dạng bạo lực này ngày một
phát triển, đặc biệt ở nông thôn và gây ra những hậu quả vô cùng
nghiêm trọng đối với phụ nữ.
Ngoài hai hình thức bạo lực trên còn có nhiều dạng bạo lực
khác làm tổn thơng lớn đến ngời phụ nữ nh không quan tâm, bỏ rơi,
không nói chuyện nh kiểu chiến tranh lạnh, chửi bới, kể cả những
hành vi quản lí tiền nong chi tiêu trong gia đình Các dạng bạo lực
này có thể quy vào dạng bạo lực tinh thần.
10
- Bạo lực tinh thần:
Theo thống kê của trung tâm nghiên cứu ứng dụng về Giới, Gia
đình, Phụ nữ và Vị thành niên thì trong hơn 30.000 cuộc điện thoại
gọi đến Trung tâm có đến 23.233 cuộc liên quan đến bạo lực tinh
thần chiếm 78%; 9,6% là bạo hành thể chất; 5,7% là bạo hành tình
dục (Báo Giáo dục và Dia đình, số 161, ra ngày 8/10/2005). Đây chỉ
là những thống kê sơ bộ nhng cũng đủ thấy bạo lực tinh thần đã và

đang trở nên nghiêm trọng tỏng đời sống vợ chồng.
Với bạo lực thể xác, nỗi đau đớn thể hiện rõ ràng trên cơ thể
ngời phụ nữ nhng với bạo lực tinh thần thì vết thơng ấy nông sâu nh
thế nào không ai đo đếm đợc. Bạo lực tinh thần từng ngày từng giờ
gặm nhấm ý chí, tâm can của ngời phụ nữ khiến những nạn nhân này
luôn trong tình trạng căng thẳng dẫn đến stress, tâm thần ở thể nhẹ
hoặc thần kinh và hậu quả đau lòng nhất là có nhiều ngời quá bế tắc
đã phải tìm đến cái chế để giải toả.
Nếu nh những vết thơng tích trên cơ thể ngời phụ nữ do ngời
chồng đánh đập theo thời gian cũng sẽ mờ dần thì bạo lực tinh thần
lại là những vết thơng khó lành, thậm chí càng theo thời gian (kéo dài
tình trạng này) thì vết thơng càng hằn sâu trong tâm của ngời phụ nữ.
Thực tế cho thấy bạo lực tinh thần sẽ dẫn đến tan vỡ hạnh phúc lứa
đôi của các cặp vợ chồng, gây đổ vỡ cuộc sống gia đình. Bạo lực tinh
thần vì vậy cũng là một vấn nạn râts nguy hại đối với xã hội. Bạo lực
tinh thần phổ biến ở thành phố, nhất là những gia đình trí thức, nhiều
vặp vợ chống tuy sống chung một mái nhà nhng họ lại sống ly thân
(ăn riêng, ở riêng). Nguyên nhân của bạo lực tinh thần có rất nhiều do
tính gia trởng của ngời đàn ông, luôn áp đặt, bắt vợ phải nghe theo,
làm nô lệ cho mình, do mâu thuẫn vợ chống Tuy nhiên một thực tế
11
chỉ ra rằng phụ nữ bị bạo hành tinh thần càng chịu đựng càng rơi vào
bế tắc.
Những bài báo đã mô tả những hành động tội ác dã man, vô
nhân tính của ngời chồng đối với vợ mình và rút ra những bài học sau
những vụ bạo lực dã man đó.
Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình nhất là bạo lực về mặt
thể xác gây ra hậu quả rất nghiêm trọng đối với ngời phụ nữ: Gây th-
ơng tích đau đớn, thậm chí cái chết của ngời phụ nữ, nhiều gia đình
tan nát do cha mẹ ly hôn Theo báo cáo thống kê 8 năm thực hiện

Luật Hôn nhân Gia đình của Toá án nhân dân thành phố Hà Nội
(1995) Nguyên nhân ly hôn do bị đánh đập, ngợc đãi là 7.372 vụ
chiếm tỷ lệ 31.1%. Theo toà án nhân dân thành phố Hải Phòng sau 8
năm thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình có 2.359 trên tổng số 7.743
vụ việc về hôn nhân, gia đình có hành vi bạo lực, trong đó có 22 vụ
cấu thành tội phạm hình sự.
Nh vậy có thể thấy rằng bạo hành trong gia đình là một trong
những nguyên nhân chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều
gia đình đến chỗ tan vỡ, đẩy trẻ em ra đờng phải sống lang thang,
thậm chí trở thành tội phạm.
Bên cạnh những hành động bạo lực giã man và thô bạo, một loại
bạo lực khá phổ biến hiện nay là sự ép buộc vợ quan hệ tình dục.
Bạo lực tình dục một vấn đề đã cũ nhng lại rất mới. Bởi vì thực
tế nhiều ngời phụ nữ nói chung, thậm chí cả những ngời phụ nữ bị
nạn bạo hành náy cũng không biết nó là một dạng bạo lực. Vì vậy khi
đợc ngời khác cho biết họ đang bị bạo lực tình dục, nhiều ngời phụ nữ
12
còn rất ngạc nhiên. Quả thật bạo lực tình dục còn là vấn đề khá mới
mẻ với rất nhiều phụ nữ trong xã hội ta hiện nay.
Có rất nhiều bài báo viết về vấn đề này: Bài viết: Bạo lực tình
dục, nỗi kinh hoàng trong đêm của tác giả Vạn Xuân đăng trên báo
Gia đình và Xã hội số 160 ra ngày 6/10/2005; bài viết chống bạo lực
tình dục của Trần Tuấn Linh trên tạp chí Gia đình và trẻ em); Bài
(Bạo dâm, hành vi ngợc đãi phụ nữ cần đợc ngăn chặn của Phúc Hng
- Ngọc Hùng đăng trên tạp chí (Gia đình và Trẻ em).
ở các bài viết này các tác giả đã chỉ ra một vài trờng hợp cụ thể
những ngời phụ nữ là nạn nhân của nạn bạo lực tình dục.
Nói về bạo lực trong gia đình phần lớn đề cập đến bạo lực
chống lại phụ nữ - một vấn đề nghiêm tọng và phổ biến, ngày càng có
chiều hớng gia tăng. Tuy nhiên, theo thống kê cũng cho thấy số vụ

bạo lực của vợ đối với chồng chũng tăng lên nhanh chóng. Năm 2001
số vụ bạo lực của vợ đối với chồng tăng 3%, trong tổng số những vụ
nghiêm trọng đối với đàn ông. Nguyên nhân của thực trạng này bắt
nguồn từ bình đẳng giới. Trong xã hội hiện đại, vai trò của ngời phụ
nữ đợc khẳng định, ngày càng có nhiều phụ nữ nắm kinh tế trong gia
đình do vậy, họ ngày càng nắm quyền chi phối các hoạt động khác
trong gia đình. Mặt khác có những gia đình do ngời chồng quá hiền
lành, nhu nhợc, thua kém vợ về nhiều mặt nên luôn bị vợ lấn áp, trở
thành nạn nhân của nạn bạo lực đặc biệt là nạn bạo lực tinh thần.
Khi trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình, hầu hết các ông
chồng đều không có cách gì đối phó lại vợ giống nh phụ nữ thờng làm
khi bị chồng hành hạ nh là báo cảnh sát, kêu cứu Phần vì họ nghĩ
rằng họ có thể chống đỡ lại đợc, phần vì họ ngại để lộ ra chuyện này
13
bời dù sao họ cũng đờng đờng là đáng mày râu hay họ gì khi bị lép
vế.
Nh vậy không phải chỉ có phụ nữ mới là nạn nhân của các loại
bạo hành trong gia đình mà một bộ phận nam giới cũng là nạn nhân
của bạo hành trong gia đình. Dù là phụ nữ hay nam giới thì bạo lực
trong xã hội cũng đã và đang là vấn đề bị xã hội lên án, vì hậu quả
của nạn bạo lực trong gia đình là nguyên nhân của các cuộc ly hôn,
gia đình tan nát, hạnh phúc lứa đôi bị rạn nứt, tan vỡ, con cái bơ vơ.
bạo lực gia đình không những tác động xấu đến các gia đình mà còn
ảnh hởng trực tiếp đến sự phát triển của toàn xã hội.
1.2. Bạo lực của cha mẹ đối với con cái.
Cũng nh hình thức bạo lực giữa vợ chồng, bạo lực cha mẹ với
con cái là một trong hai hình thức bạo lực khá phổ biến trong gia đình
Việt Nam hiện nay. Báo Gia đình và Trẻ em kỳ 1 tháng 9/2005 bài
của tác giả Thân Trung Dũng đã nói khà rõ vấn đề này. Thông qua
hợp tác giữa Viện nghiên cứu Thanh niên với tổ chức Radda Barren

đã điều tra d luận học sinh với chủ đề hình phạt của cha mẹ đối với
trẻ em tại 12 điểm, đại diện các tỉnh, thành: thành phố Đà Nẵng,
Nghệ An, thành phố Hà Nội, Hải Dơng, thành phố Hải Phòng và tỉnh
Hoà Bình với sự tham gia của 1240 học sinh tiểu học và trung học cơ
sở (632 nam và 608 nữ).
Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ trẻ em nói rằng, cha mẹ thờng
xuyên sử dụng hình phạt khi trẻ em mắc lỗi (45,7), đôi khi sử dụng
(50,1%) và không xử phạt (4,1%). Nh vậy, hầu hết cha mẹ đều sử
dụng hình phạt đối với con cái khi chúng mắc sai phạm. Tuy nhiên,
còn 4,2% cha mẹ không quan tâm hay ít để ý đến những sai phạm của
con cái mình.
14
Điều này cho thấy, trẻ em thừa nhận việc cha mẹ sử dụng hình
phạt đối với chúng chiếm tỷ lệ cao và các hình thức xử phạt rất đa
dạng. Trong số các hình phạt thì hình thức mắng chiếm tỷ lệ cao nhất
64,9% so với đánh là 23,6%, những hình thức khác là 9,5%. Nh vậy
số đông các bậc cha mẹ dùng hình thức mắng con khi con có lỗi. Tuy
nhiên, còn hơn 1/4 số trẻ phạm lỗi bị hình phạt đánh và gần 1/50 còn
phải chịu các hình phạt khác, tuy không đau về thân thể, nhng vô
cùng ảnh hởng xấu đến tâm lý nh xỉ nhục, phạt không cho ăn cơm,
phạt đứng nắng.
Kết quả điều tra cũng cho thấy: trẻ nhỏ từ 6 - 10 tuổi hay bị
mắng là 100%; bị chửi là 18%; bị xỉ nhục là 4,9% và bị đánh đập là
55%; hình thức khác là 8% và tỷ lệ này ở nhóm trẻ từ 11 - 16 tuổi, t -
ơng ứng là 92% ; 40% ; 7,3%; 69% ; 9%.
Những số liệu thu đợc cho thấy dù ở lứa tuổi nào, tỷ lệ trẻ em
chịu sự trừng phạt của cha mẹ là tơng đối cao. (Báo khoa học về Phụ
nữ số 3-2005).
Nh vậy, việc mắng, đánh của cha mẹ đối với con cái thực sự là
mối quan tâm lớn trong xã hội hiện nay. Với lô suy nghĩ bỏ thủ: con

t, tui đẻ, tui nuô, tui có quyền đánh (Lê Thị Quý, Báo Khoa học về
phụ nữ số 4/1994). Một số cha mẹ tự cho mình cái quyền đợc dùng vũ
lực để giáo dục con cái. Họ cứ tởng rằng phải dùng đòn roi nghiêm trị
thì con cái mới nên ngời đợc.
Bởi vậy, khi con cái mắc khuyết điểm họ không lựa lời khuyên
bảo mà áp dụng những hình phạt nặng nề nh bắt úp mặt vào tờng mấy
tiếng đồng hồ, bắt nằm sấp lên giờng để đánh đòn, thậm chí có ngời
trói con vào cột đánh đến thâm tím mặt mày, hoặc dìm con xuống n ớc
lạnh giữa mùa đông rét mớt chỉ để dạy con. Những hình thức dạy
15
dỗ con kiểu nh vậy chính là sự lạm dụng trẻ em về thân thể nhng lại
không đợc đại đa số những ngời cha, ngời mẹ nhìn nhận đúng. Việc
ngợc đãi trẻ em do đó vẫn diễn ra một cách thờng xuyên thông qua
cách dạy dỗ của cha mẹ, mà điển hình là ở nôgn thôn do không chào
hỏi, mời mọc ngời lớn tuổi, ngời trên.
Trong số 260 bố mẹ trả lời về các lỗi trẻ thờng mắc phải thì có
168 trẻ trai thờng mắc lỗi này chiếm 64,6%; có 151 trẻ gái chiếm
58,1% số trẻ trai mắc lỗi bị cha mẹ xử lý là 168 (100%) và số trẻ
gái mắc lỗi bị cha mẹ xử lý là 150 (9,3%) (báo Gia đình và trẻ em
trong bài cha mẹ ở nông thôn với việc sử dụng bạo lực trong giáo dục
con cái) và Làm h hỏng, làm vỡ, làm gãy đồ dùng lao động, sinh
hoạt trong gia đình. Cũng là một nguyên nhân bạo lực cha mẹ đối
với con cái thì có 134 trẻ trai (51,5%) và 123 trẻ gái (47,3%). Số trẻ
trai bị cha mẹ xử lý là 91,8% (123) và 91% (112) trẻ em gái.
Bên cạnh đó, chúng ta biết rằng không chỉ bị đánh đập bởi cha
mẹ - ngời tự coi là có quyền dạy con bằng vũ lực - mà trẻ em trong
gia đình còn là đối tợng bạo lực tình dục. Cũng trong báo khoa học về
Phụ nữ số 3 (70) 2005 viết: Lạm dụng tình dục trẻ em trong gia đình
là những hành động dâm dục của ngời lớn trong gia đình đối với trẻ
em, chủ yếu là với trẻ em nữ. Những trẻ lạm dụng tình dục trẻ em

trong phạm vi gia đình là những kẻ biết lợi dụng quyền lực và vị thế
của họ trong gia đình, lợi dụng sự phụ thuộc, sự ngây thơ, ngờ nghệch
của trẻ để có hành vi mang ý đồ dâm dục bất chính, từ chỗ có thể chỉ
là vuốt ve, ôm ấp - sờ mó vào những bộ phận kín của trẻ cho đến hành
vi giao cấu - cỡng hiếp các em. Thật đáng lên án khi chính các em bị
những ngời thân trong gia đình lạm dụng. Những ngời này có thể là
những ông bố dợng, ngời bác, ngời chú, ngời anh trong quan hệ huyết
thống, quan hệ gần gũi thân thuộc với các em trong gia đình, nhng
16
chỉ vì những ham muốn, dục vọng thấp hèn, mà quên đi cả luân thờng
đạo lý, quên đi đạo đức tối thiểu của một con ngời. Từ đó có những
hảnh vi man rợ, táng tận lơng tâm bị lạm dụng tình dục trẻ em.
Cũng cần phải nói là có một số tí, trí thức cho rằng nên hạn chế
dùng bạo lực trong gia đình mà khuyên bảo giáo dục con bằng lời
nói, nêu gơng ngời khác. Tuy ở nớc ta, bạo lực giữa cha mẹ đối với
con cái là quá phổ biến phần do nhận thức kém, do nhận thức kém, do
kinh tế. Tuy nhiên nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Theo
kết quả khảo sát về thực trạng bạo lực trong gia đình tại vùng Đông
Nam Bộ của vụ Gia đình, Uỷ ban dân số, giáo dục, trẻ em cho biết:
56,4% cho rằng bạo lực gia đình có ảnh hởng xấu đến tâm lý con cái:
46,1% cho rằng bạo lực trong gia đình sẽ dẫn đến việc con cái dễ
dàng sa vào các tệ nạn xã hội; 58,7% cho rằng có ảnh hởng đến học
hành của con cái và 35,4% đồng ý với ý kiến cho rằng bạo lực trong
gia đình có ảnh hởng đến cuộc sống của gia đình. Qua con cái sau
này. Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng: trẻ từ nhỏ đã phải trải qua
nhiều bất hạnh do bạo lực gia đình gây ra thờng có tính cách đặc biệt
nh thiếu tự tin, rụt rè, lo sợ, hay làm h hỏng việc. Một số lớn lâm vào
cảnh lang thang, nghiện hút vào tù vì bạo hành có đến 10 - 20%
nguyên nhân gây tổn hại đến sức khoẻ tâm thần của trẻ em có tính
chất bẩm sinh, di truyền, còn lại 2/3 là các yếu tố gia đình dẫn đến

rối loạn hành vi chống đối, tự sát, nghiện hút (Bài 7: Bạo lực gia đình,
nhân cách của trẻ em) Báo Gia đình và Xã hội số 165 (827) ra ngày
15/10/2005 tácgiả Vạn Xuân).
Ngoài ra hành động bạo lực của cha mẹ đối với con cái còn dẫn
đến làm băng hoại tình cảm mẫu tử, phụ tử: thứ nhất, trẻ mất niềm
tin, sự an toàn và coi thờng nhân cách của cha mẹ, Khi các em là nạn
nhân gián tiếp của bạo lực gia đình. Thứ hai, trẻ vừa bị đau đớn về
17
mặt thể xác, vừa bị tổn thơng về mặt tình cảm, trẻ có thể hoảng sợ,
chán ngán gia đình, thậm chí căm thù cha mẹ và muốn tìm con đ ờng
khác đẻ thoát khỏi cuộc sống. Đôi khi các em là nạn nhân trực tiếp
của bạo lực gia đình.
Hậu quả bao lực gia đình đối với con cái. Trẻ em là những trẻ
em phát bệnh trầm cảm ở tuổi mới lớn. Khi nạn nhân bị bạo hành từ 5
trận đòn cay nghiệt, sẽ bị hụt hẫng về tình cảm, mất đi sự th ơng yêu
che chở của ngời thân.
Đồng thời gia tăng hiện tợng trẻ em có những hành vi lệch
chuẩn, hớng ra đờng phố, đi tìm kiếm sự bù đắp về cả vật chất và tinh
thần mà trẻ thiếu hụt trong gia đình. Theo thống kê của Bộ Lao động
- Thơng binh - Xã hội, cả nớc có khoảng 50.000 trẻ lang thang bởi vì
lý do khác nhau, trong đó đáng chú ý có tới 40% trẻ lang thang do gia
đình tan vỡ, bất hạnh. Cảnh không gia đình khiến các em dễ bị bóc
lột, lạm dụng tình dục bị lôi kéo vào những hoạt động phi pháp và dễ
bgị tổn thơng về nhân cách (Bài 7 Vũ Thị Cẩm Tú), Báo Gia đình và
Xã hội.
Tóm lại, hậu quả để lại cho mỗi gia đình, Việt Nam là nhiều
đứa trẻ lớn lên mà tuổi thơ của chúng đầy ắp những tác động tiêu cực
và hậu quả có thể là mầm mống tạo ra những bản sao của bạo lực gia
đình.
18

Chơng 2. Nguyên nhân và giải pháp chống
lại bạo lực gia đình.
2.1. Nguyên nhân.
Vì sao bạo lực gia đình hiện nay lại trở thành một hiện tợng xã
hội phổ biến? Xung quanh vấn đề này có nhiều nguyên nhân khác
nhau để giải thích:
* Thứ nhất: Do sự bất bình đẳng giới.
Có thể nói sự bất bình đẳng giới là nguyên nhân gốc rễ của bạo
lực gia đình đối với phụ nữ. ở nhiều xã hội, nhiều nên văn hoá, ngời
ta dung thứ, thậm chí tán thành bạo lực quan hệ vợ chồng, nhất là
việc chồng đánh vợ.
Tại Mỹ, khoảng 1/4 số ngời đợc hỏi thuộc cả 2 giới tin rằng:
nếu chồng đánh vợ thì hẳn có lý do chính đáng và một tỉ lệ thấp hơn
cho rằng: nếu vợ đánh chồng chắc không phải là vô cớ. Nh vậy việc
vợ chồng trong gia đình đánh nhau đợc thừa nhận nh là một sự việc,
một hiện tợng thờng tình, nó đều có nguyên nhân của nó cả. Thái độ
đó, sự thừa nhận ấy thể hệin rõ trong bài hát quen thuộc của họ:
a waman, a horse and a hickorytree. The more yow beat them,
the better they be
( Giddens).
Tạm dịch:
Một phụ nữ, một con ngời và một cây mai châu Anh càng
đánh, họ càng tốt hơn).
19
ở Việt Nam, quan niệm về địa vị và phân công vai trò trong gia
đình theo giới vẫn mang nặng tính truyền thống. Việc mắng chửi và
xâm phạm thân thể ngời phụ nữ ở một mức độ nào đó đợc coi là biện
pháp ngời chồng có thể sử dụng khi cần thiết. Do ảnh hởng của t tởng
phong kiến nên vai trò, vị thế của ngời phụ nữ trong gia đình từ xa
đến nay luôn bị hạ thấp, bị coi thờng trong gia đình, phụ nữ chỉ có

một nhiệm vụ duy nhất là phục tùng chồng và gia đình nhà chồng,
ngoài ra không đợc quyền tham gia ý kiến hoặc quyết định bất cứ một
việc gì khác. Sự bất bình đẳng giới trong xã hội phong kiến đã không
cho phép ngời phụ nữ đợc học tập và tham gia hoạt động xã hội, họ bị
trói chặt bởi đạo tam tòng (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử). T tởng trọng nam khinh nữ cho rằng con gái là con ngời
ta. Đến nay vẫn còn tồn tại một cách dai dẳng. Mong muốn có ngời
nối dõi tông đờng và trông cậy lúc tuổi già luôn thôi thúc các gia
đình phải bằng mọi cách để sinh đợc con trai bởi họ cho rằng Nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vô.
Trong xã hội phong kiến, ngời phụ nữ không bao giờ đợc phép
cãi lại chồng và gia đình nhà chồng nếu không sẽ bị coi là kẻ lăng
loàn, không biết đạo làm vợ và sẽ bị đuổi về nhà cha mẹ đẻ. Ng ợc lại,
ngời chồng lại hoàn toàn có quyền mắng chửi, đánh đập, xâm phạm
thân thể ngời phụ nữ khi không vừa ý. Điều này đợc sự đồng tình của
xã hội và sự thừa nhận của luật pháp phong kiến. Cho đến nay, sự bất
bình đẳng trong quan hệ giới và t tởng trọng nam khinh nữ vẫn còn
tồn tại dai dẳng ở nhiều lúc, nhiều nơi. Bạo lực gia đình vẫn đợc nhìn
nhận nh một vấn đề riêng t, là chuyện quá trình thờng nh cơm bữa.
Mặc dù hiện nay chúng ta vẫn đang hết sức cố gắng đấu tranh cho
bình đẳng giới nhng đây là một cuộc đấu tranh rất lâu dài bởi lẽ, từ xa
đến nay, trong gia đình, quyền uy của ngời đàn ông luôn cao hơn phụ
20
nữ. Rất đông và thậm chí còn so sánh vợ với con theo nghĩa cả hai
đều cần sự dạy dỗ của ngời chồng:
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về
Nhiều phụ nữ Việt Nam từ thuở nhỏ đã đợc dạy theo những
niềm tin nh vậy nên họ chấp nhận bị chồng dùng bạo lực nếu họ có
lỗi.

Tóm lại, t tởng ngời chồng có quyền dạy vợ dạy con bằng bạo
lực đã ăn sâu vào lối suy nghĩ của đại đa số ngời dân Việt. Do đó, họ
mặc nhiên thừa nhận, thậm chí chấp nhận bạo lực trong gia đình.
- Thứ hai: Liên quan đến bản chất gia đình.
So với các thể chế xã hội khác, nơi con ngời thờng chỉ đóng
một vai trò nào đó, và biểu hiện ở một vài khía cạnh nhân cách, thì
gia đình là nơi mà mỗi thành viên bộc lộ toàn bộ nhân cách, con ng ời
thực sự của mình. Do đó trong gia đình có nhiều chủ để gây bất đồng
tranh cãi và bạo lực diễn ra nhiều hơn những nơi khác.
Hơn thế nữa, hôn nhân làm cho quan hệ vợ chồng mang sắc thái
cảm xúc cao, nh thế dễ khiến cho những bất đồng, xung đột bùng nổ
về mặt tình cảm.
Một sự bất đồng với đồng nghiệp tại nơi làm việc về sở thích
âm nhạc không có cùng một cờng độ cảm xúc nh sự bất đồng giữa cha
mẹ và con cái. Một ngời đàn ông có thể dễ dàng bỏ qua khi nữ đồng
sự của mình nói nhiều, nhng dễ nổi nóng nếu vợ mình tỏ ra lắm lời.
Đó là kết quả thu đợc của một điều tra xã hội học.
- Thứ ba: Sự hạn chế về trình độ dân trí của phụ nữ nói chung:
21
Phụ nữ Việt Nam do còn chịu ảnh hởng của t tởng trọng nam
khinh nữ nên đa phần chỉ tập trung vào việc chăm sóc gia đình, chông
con, ít có cơ hội học tập nâng cao trình độ và tham gia các hoạt động
xã hội. Chính bởi lý do này ma phụ nữ Việt Nam nhìn chung có trình
độ thấp hơn nam giới.
Nói tới trình độ dân trí của phụ nữ là bao hàm cả kiến thức văn
hoá, khoa học kỹ thuật, sự hiểu biết về y tế, giáo dục, pháp luật, giao
tiếp đó là toàn bộ tri thức cần thiết tạo nên năng lực t duy ứng xử
và hoạt động. Chính sự hạn chế về trình độ học vấn đã quy định địa vị
Kinh tế - xã hội thấp của phụ nữ. Phần đông những ngời phụ nữ là
nạn chân của bạo lực gia đình đều là những ngời phụ thuộc kinh tế và

chồng, hoặc là không chó thu nhập, hoặc là thu nhập rất thấp. Chính
sự phụ thuộc và kinh tế đã tạo ra tâm lý lo sợ, không dám chống lại
chồng ở ngời phụ nữ.
- Thứ bốn: Sự im lặng của nạn nhân và d luận:
Nhiều xã hội thờng có xu hớng coi bạo lực gia đình là chuyện
riêng t nên không can thiệp với bất cứ hình thức nào. Sự bàng quang
này vô hình chung đã dung thứ thậm chí khuyến khích bạo lực trong
gia đình. Khi trong gia đình nếu có sự xô xát, đánh đập nhau thì các
thành viên phải tự giải quyết.
Theo quan niệm của ngời Việt Nam, xung đột gia đình là
chuyện bình thờng và khó tránh khỏi. Mọi ngời thờng nói đến bát đĩa
trong chạn còn có lúc bị xô đi đẩy lại huống hồ trong quan hệ gia
đình. Do vậy chỉ khi ngời vợ hoặc con cái bị đánh thành thơng tích
hay thờng xuyên thì họ mới nhờ đến sự can thiệp của chính quyền địa
phơng.
22
Ngay cả nạn nhân trực tiếp của bạo lực gia đình cũng không lên
tiếng để tự bảo vệ mình mà lại cam chịu chấp nhận bạo lực, đặc biệt
là bạo lực tình dục - lĩnh vực vẫn đợc coi là thầm kín. Có nhiều
nguyên nhân giải thích sự im lặng này nh: xấu hổ, không muốn vạch
áo cho ngời xem lng. Sợ ảnh hởng đến con cái Tuy nhiên, cần
thấy rằng chính sự cam chịu ấy lại là sự tiếp tay cho bạo lực.
- Lý do thứ 5: Nam giới muốn thể hiện sức mạnh của ngời đàn
ông đối với vợ con, thể hiện uy quyền của ngời trụ cột đối với gia
đình.
Bên cạnh đó cũng phải thấy đợc một nguyên nhân nữa của bạo
lực gia đình là sự suy thoái về đạo đức, cùng với bạo lực giữa vợ,
chồng (vợ đánh chồng, chồng đánh vợ). Giữa cha mẹ - con cái (không
chỉ có cha mẹ đánh con cái mà có cả con cái lớn đánh cha mẹ già)
anh chị em trong gia đình đánh nhau. Sự suy thoái về các chuẩn mực

đạo đức, xuống cấp về nề nếp gia phong, thiếu tôn trong lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình ấy là một nguyên nhân sâu xa dẫn
đến bạo lực gia đình.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến bạo lực gia
đình. Vấn đề là ở chỗ khi lý giải ai về mộtbạo hành gia đình cần áp
dungj vào từng môi trờng hoàn cảnh cụ thể, với các mối quan hệ vây
quanh chúng.
23
2.2. Giải pháp .
Có thể khẳng định lại rằng, ngày nay, tình trạng bạo lực gia
đình đã trở thành một vấn nạn nhức nhối, phổ biến ở nhiều gia đình,
nhiều tầng lớp xã hội. Nó bộc lộ một sự bất ổn sâu sắc về tình trạng
đạo đức xã hội nói chung và sự khủng hoảng trầm trọng về giáo dục
gia đình nói riêng, mà cha có cách nào tháo gỡ.
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi xin đa ra một
số giải pháp sau:
Thứ nhất: Nâng cao nhận thức. Cần giáo dục cho mọi ngời hiểu
bạo lực gia đình dới bất kỳ hình thức nào, vì nguyên nhân gì cũng đều
là vi phạm pháp luật, vi phạm quyền con ngời. Mỗi ngời đều có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, quyền đợc tôn trọng về nhân phẩm,
danh dự. Đồng thời, cần giáo dục cho mọi ngời về hậu quả của bạo
lực gia đình đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, cần
giáo dục cho mọi ngời nhận thấy t tởng trọng nam, khinh nữ là không
phù hợp trong xã hội hiện đại, nam nữ bình đẳng là động lực của sự
phát triển gia đình và xã hội. Giải pháp riêng đối với gia đình trí thức
là chúng ta phải tổ chức truyền thống rộng rãi dới nhiều hình thức
cho cán bộ công nhân viên chức. Có thể mở các lớp tập huấn gọn nhẹ
nhng sâu sắc với nội dung lồng ghép chống bạo lực gia đình vào các
chơng trình dân số, sức khoẻ sinh sản. Nhấn mạnh vai trò, trách
nhiệm, bổn phận của ngời chồng, ngời vợ trong gia đình. Mỗi cá nhân

phải quan tâm đến lợi ích chung của gia đình tránh sự ích kỷ cá nhân
dẫn tới sự áp đặt ý chí của ngời khác. Chồng và vợ có vai trò nh nhau
trong việc hình thành gia đình nuôi dạy con cái, đồng thời phải tôn
trọng ý kiến nguyện vọng của các thành viên trong gia đình.
24
Để thay đổi những thói quen, tính nếu xấu không phải là điều
đơn giản nhng không phải hoàn toàn không thay đổi đợc. Vấn đề đặt
ra là các thành viên trong gia đình phải có cách xử sự đúng đắn, phải
lấy sự khôn khéo, mềm mỏng, lòng kiên trì và tình yêu để dần cảm
hoá, giúp đỡ nhau, nhằm bảo toàn hạnh phúc.
Cũng trong giải pháp này, chúng ta cần nâng cao nhận thức của
ngời dân để họ không coi bạo lực gia đình là chuyện vặt, chuyện
nội bộ của các gia đình hay là vấn đề cá nhân mà phải nhận thức
đó là vấn đề xã hội và cần giải quyết nó bằng các chính sách và luật
pháp thích hợp.
Thứ hai: Từ việc nâng cao nhận thức ngời dân để họ hiểu bạo
lực gia đình là vấn đề xã hội, từ đó huy động cộng đồng tham gia giải
quyết vấn đề bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình có nguyên nhân từ
phía chính sách vì không ít ngời quan niệm sai lầm rằng bạo lực là
một cách để giải quyết mâu thuẫn và quan niệm rằng đèn nhà ai nhà
nấy rạng. Do vậy cần chỉ ra nhận thức đó là sai lầm, từ đó huy động
cộng đồng tích cực tham gia phòng ngừa, ngăn chặn bạo lực gia đình
thông qua các mối quan hệ làng xóm láng giềng, tổ hoà giải, hội Phụ
nữ và các tổ chức xã hội khác.
ở đây Hội phụ nữ, tổ hoà giải phải thờng xuyên đợc nâng cao
kỹ năng và kiến thức về phòng ngừa, ngăn chặn bạo lực gia đình.
Trang bị kỹ năng cụ thể khi bạo lực xảy ra, gồm cả sự tìm hiểu, giúp
đỡ, t vấn những nạn nhân bị bạo lực hành hạ, đặc biệt đối với bạo lực
không nhìn thấy.
Thứ ba: Một điều đáng buồn rằng trong thực tế ở nớc ta có

nhiều công cụ pháp lý nh luật Hôn nhân gia đình, Luật Chăm sóc và
Bảo vệ trẻ em, Công ớc quốc tế về quyền trẻ em, cũng lại có nhiều cơ
25

×