BẢN THU HOẠCH
ĐỀ TÀI: Những hạn chế của TTCK Việt Nam hiện nay
Nguyên nhân và giải pháp khắc phục
I - Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển TTCK Việt Nam
- Hoạt động mua bán cổ phiếu ở Việt Nam đã diễn ra sôi động kể từ
sau khi hàng loạt doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, đây là một tiền đề
quan trọng cho việc hình thành nên một thị trường giao dịch, huy động vốn
trực tiếp hay còn gọi là thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán
Việt Nam chính thức hoạt động vào tháng 7/2000, với sự ra đời của Trung
tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ngày 28/7/2000 theo Quyết
định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998, mà nay đã được chuyển đổi
thành Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ngày 8/8/2007. Sau đó
vào 8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động đánh dấu
bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Trung tâm GDCK TP Hồ Chí Minh khai trương hoạt động của mình
chỉ với 2 mã cổ phiếu là REE và SAM với giao dịch khối lượng giới hạn.
Vào tháng 7/2005, số lượng mã cổ phiếu niêm yết trên thị trường này đã là
30 mã cổ phiếu cộng thêm 1 quỹ đóng. Đến nay, con số này đã là 110 mã cổ
phiếu được niêm yết với tổng vốn hóa thị trường xấp xỉ 13 tỉ USD, 2 chứng
chỉ quỹ IFCs và 407 trái phiếu các loại. Giá trị giao dịch bình quân trong
ngày trên thị trường này lên tới 40 triệu USD. Có thể quan sát thấy rằng,
trong 7 năm qua chỉ số VNIndex(chỉ số phản ánh tình hình giá cả trên thị
trường giao dịch TPHCM) trên thị trường đã tăng mạnh và liên tiếp tạo nên
những bước nhảy vọt kỉ lục mặc dù trong thời gian gần đây thị trường đang
có nhiều điều chỉnh khiến chỉ số VNIndex có phần ảm đạm. Những mức
đỉnh đạt được hết sức quan trọng thúc đẩy thị trường đi lên như mức 571.04
điểm vào tháng 6/2001, mức 632.69 điểm vào tháng 4/2006 và gần đây nhất
là mức đỉnh kỉ lục 1174.22 điểm trong tháng 3/2007. Tuy nhiên chỉ số
VNIndex hiện nay đang trong giai đoạn điều chỉnh và nó đã giảm xuống
khoảng 20% so với mức đỉnh kỉ lục đã đạt được. Hiện nay TT GDCK HCM
đã được chuyển đổi thành Sở GDCK HCM (HOSE - Ho Chi Minh Stock
Exchange), hoạt động như một công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên và
chuyển đổi phương thức từ giao dịch khớp lệnh định kỳ sang giao dịch khớp
lệnh liên tục.
- Trung tâm GDCK Hà Nội khai trương hoạt động vào tháng 3/2005
dưới sự giám sát chặt chẽ chỉ thực hiện một số hoạt động đấu giá IPO -
Initial public offering(phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng) và một số
trái phiếu chính phủ trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 7/2005.
Sau đó, thị trường giao dịch tại Hà Nội mới chính thức hoạt động như thị
trường giao dịch thứ cấp vào với giá trị giao dịch khiêm tốn khoảng 6.4 triệu
USD. Đến nay, thị trường này đã có 87 mã cổ phiếu được đăng ký với tổng
giá trị thị trường là 4.5 tỉ USD. Và theo định hướng của Chính phủ thì xây
dựng thị trường giao dịch Hà Nội trở thành một trung tâm giao dịch chứng
khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn pháp định từ 10 tỉ VND cho
đến 80 tỉ VND, và đến năm 2010 phải xây dựng TT GDCK Hà Nội thành
một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC - Over the counter) đơn giản,
gọn nhẹ.
- Đứng bên ngoài những hoạt động giao dịch cổ phiếu trên hai thị
trường tập trung chính thức đó là thị trường phi tập trung OTC, mà theo như
những người trên thị trường gọi nó là ''thị trường chợ đen'' chính vì chưa có
một trung tâm giao dịch nào hình thành để quản lý thị trường này. Đây là
một thị trường phát triển tự phát, độc lập và chưa được quản lý chặt chẽ, nên
rất khó nắm bắt những số liệu báo cáo, tuy nhiên theo đánh giá của các nhà
nghiên cứu thì giá trị thị trường OTC đang giao dịch là rất lớn, với khoảng
600 công ty đại chúng đang có cổ phiếu lưu hành trên thị trường này.
- Với sự phát triển thần kì trong suốt 7 năm qua, thị trường chứng
khoán Việt Nam đã đánh dấu những bước tăng trưởng nhảy vọt trong đầu tư
với tổng lượng vốn hóa thị trường đã đạt mức 17.5 tỉ USD mà trong đó đã có
sự tham gia của khoang 200.000 tài khoản của nhà đầu tư trong nước và
6.000 của nhà đầu tư nước ngoài trong đó có 4000 nhà đầu tư cá nhân và
270 nhà đầu tư có tổ chức. Số lượng các quỹ đầu tư trên thị trường cũng tăng
lên đáng kể, hiện nay đã có 45 quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam, với
tổng vốn đạt 6.277 tỉ USD. Ngoài ra, còn có khoảng 50 tổ chức đầu tư theo
hình thức uỷ thác qua công ty chứng khoán.
- Hệ thống các tổ chức trung gian trên TTCK đã hình thành và phát
triển nhanh chóng. Tính đến nay, trên thị trường có 57 công ty chứng khoán,
tăng mạnh hàng năm, vốn điều lệ bình quân đạt 77 tỉ đồng/công ty. Ngoài ra,
còn có sự tham gia của 18 công ty quản lý quỹ, 2 chứng chỉ quỹ đầu tư, 43
tổ chức tham gia hoạt động lưu ký chứng khoán, 8 ngân hàng lưu ký.
- Sự ra đời của Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007)
đã tạo khung pháp lý cao cho TTCK phát triển góp phần thúc đẩy khả năng
hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế của TTCK Việt Nam. Những vấn
đề liên quan đến TTCK, trong đó những quy định về đăng ký, lưu ký, công
khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của các cơ quan chức năng quản lý
hoạt động của TTCK từng bước được hoàn thiện. Chính phủ đã chỉ đạo việc
phối hợp giữa Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Ngân hàng
Nhà nước trong việc tăng cường kiểm soát TTCK ở nước ta tạo ra sự ổn
định và phát triển mạnh mẽ của thị trường.
1. Một số đặc điểm đáng chú ý của TTCK Việt Nam trong thời gian qua là:
- Cùng với sự phát triển của các nhà đầu tư là doanh nghiệp (bảo đảm
về năng lực tài chính, có tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chứng
khoán...) thì sự phát triển của các nhà đầu tư cá nhân rất đông (chiếm hơn
70% số nhà đầu tư) và nhà đầu tư nước ngoài cũng quan tâm đầu tư vào
TTCK nước ta ngày càng nhiều (bao gồm cả những nhà đầu tư có tổ chức và
nhà đầu tư cá nhân). Các nhà đầu tư nước ngoài (hiện có khoảng 4000 nhà
đầu tư cá nhân và 270 nhà đầu tư có tổ chức) chủ yếu đầu tư vào cổ phiếu và
trái phiếu đã niêm yết (khoảng 68% cổ phiếu và 32% trái phiếu), trong đó
các nhà đầu tư nhỏ lẻ đã nắm giữ tới 1tỉ USD.
- Tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta hiện nay còn mang tâm lý
“đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán
theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong
bóng” là có thật và cũng qua đó nhiều người được hưởng từ “một vốn, bốn
lời” thậm chí tới 10 hoặc hơn 10 lời.
Tình hình sôi động của TTCK đã phản ánh những hiện tượng kinh tế
tốt lành là:
(1) nền kinh tế Việt Nam đã và đang tăng trưởng và có xu hướng tiếp
tục tăng trưởng;
(2) vốn cho đầu tư phát triển được huy động qua kênh TTCK và vẫn
còn điều kiện phát triển qua kênh này trong thời gian tới, do nhiều doanh
nghiệp lớn (trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước) tiến hành cổ
phần hoá, phát hành trái phiếu, thực hiện niêm yết tại các công ty chứng
khoán.
Tuy nhiên, việc phát triển “nóng” của TTCK cũng sẽ phát sinh 2 vấn
đề cần phải quan tâm:
(1) việc các nhà đầu tư nước ngoài có điều kiện thao túng, dễ gây rủi
ro cho TTCK trong nước;
(2) cũng đã tác động khá mạnh đến thị trường bất động sản, đẩy giá
nhà, đất lên cao.
- Các ngân hàng thương mại cổ phần sau quá trình tái cơ cấu đã làm
ăn tốt, đang ổn định và phát triển, tiếp tục tái cơ cấu để tăng cường năng lực
cạnh tranh và hội nhập theo các cam kết của WTO, trong đó có việc phát
hành thêm cổ phiếu để tăng vốn. Theo quy định tại Nghị định số 141 ngày
22 - 11 - 2006 của Chính phủ “Về ban hành danh mục vốn pháp định của tổ
chức tín dụng” thì đến hết năm 2007 vốn điều lệ của các ngân hàng thương
mại nước ta phải đạt 1000 tỉ đồng và đến năm 2010 phải đạt 3000 tỉ đồng.
Để thực hiện được việc này, các ngân hàng thương mại phải tìm mọi cách để
tăng vốn, trong đó bao gồm cả việc phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng
(phát hành mới, phát hành thêm, thưởng cuối năm bằng cổ phiếu) và đây
cũng là một trong những nguyên nhân làm cho cổ phiếu ngân hàng luôn
“nóng”.
- Có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng thương mại sang đầu
tư chứng khoán theo 2 hướng:
(1) các nhà đầu tư cá nhân rút tiền gửi tiết kiệm để đầu tư chứng
khoán
(2) những người khác (bao gồm cả công ty chứng khoán của ngân
hàng) lại vay tiền của ngân hàng thương mại để kinh doanh chứng khoán
(theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ các ngân hàng thương mại cho
các công ty chứng khoán ngân hàng vay để kinh doanh chứng khoán tại thời
điểm cuối năm 2006 là 2,6%). Qua đây cũng phần nào tác động đến hoạt