Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

vận dụng phương pháp điều tra xã hội học đánh giá ảnh hưởng của đào tạo quốc tế trong việc nâng cao năng lực giảng dạy của giảng viên trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 98 trang )

Website: Email :
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục đại học Việt Nam bước sang thế kỷ XXI, vấn đề nâng cao chất
lượng đào tạo đại học đang được đặc biệt coi trọng bởi lẽ tuy qui mô của giáo dục
đại học ngày càng tăng nhưng điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục còn thấp so
với các chuẩn mực quốc tế và khu vực. Để có thể đào tạo được nguồn nhân lực có
chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế thì đòi hỏi đội ngũ giáo viên có
trình độ cao, có các phương pháp và kỹ năng giảng dạy luôn được cập nhật ở tầm
quốc tế.
Trong những năm gần đây, quá trình hội nhập và toàn cầu hoá ngày càng trở
nên phổ biến rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực và giáo dục cũng không nằm ngoài xu
thế đó. Một hình thức giáo dục đào tạo mới ra đời đó là hình thức hợp tác đào tạo
Quốc tế. Hình thức này không chỉ mang đến môi trường học tập phong phú hơn
cho những người muốn tham gia mà còn là một hình thức bồi dưỡng và phát triển
cán bộ giảng viên cực kỳ hiệu quả và có ích.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là trường đầu ngành của cả nước về đào
tạo kinh tế và quản trị kinh doanh. Đi đôi với việc phát triển các chương trình đào
tạo trong nước, các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế ngày càng được mở rộng
và đa dạng hơn về hình thức. Và đây cũng chính là môi trường tốt khuyến khích
các giảng viên trong trường tham gia để nâng cao năng lực giảng dạy của mình lên
tầm quốc tế hay nói cách khác đây chính là một hình thức bồi dưỡng và phát triển
năng lực giảng dạy của cán bộ giảng viên rất hiệu quả.
Để tạo ra một môi trường bồi dưỡng và phát triển năng lực giảng dạy của cán
bộ giáo viên ngày càng rộng rãi và hiệu quả hơn thì việc thu thập thông tin về
những lợi ích mà chương trình hợp tác đào tạo quốc tế mang lại cho các giảng viên
nói riêng và cho nhà trường nói chung là rất cần thiết. Vì lí do đó em xin chọn đề
tài: “Vận dụng phương pháp điều tra xã hội học đánh giá ảnh hưởng của đào
tạo Quốc tế trong việc nâng cao năng lực giảng dạy của giảng viên trường đại
học Kinh tế Quốc dân”.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương không kể lời nói đầu và kết luận
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về điều tra xã hội học


1
Website: Email :
Chương II: Xây dựng phương án điều tra đánh giá ảnh hưởng của đào tạo
quốc tế trong việc nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
Chương III: Xử lý số liệu và trình bày kết quả nghiên cứu
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
1. Khái niệm và những vấn đề có liên quan
1.1. Khái niệm
Điều tra xã hội học được hiểu là phương pháp thu thập thông tin về các hiện
tượng và quá trình kinh tế - xã hội trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể
nhằm phân tích và đưa ra những kiến nghị đúng đắn đối với công tác quản lý.
Như vậy, từ định nghĩa có thể thấy đối tượng của điều tra xã hội học là các
hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội trong những điều kiện thời gian và địa điểm
cụ thể. Những hiện tượng và quá trình này thể hiện mối quan hệ tác động qua lại
giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và ngược lại. Cụ thể các
mối quan hệ đó được thể hiện ở các lĩnh vực sau : Các hiện tượng về dân số, lao
động và việc làm; mức sống vật chất của dân cư và phân tầng xã hội; bảo hiểm và
bảo trợ xã hội; hôn nhân và gia đình; lối sống, trào lưu, thị hiếu; giáo dục - đào
tạo; y tế và chăm sóc sức khoẻ; văn hoá - nghệ thuật - thể thao - giải trí; tôn giáo,
tín ngưỡng và phong tục tập quán; dư luận xã hội, đạo đức xã hội và khuyết tật xã
hội; cấu trúc xã hội và thiết chế xã hội; môi trường sinh thái.
Đối tượng nghiên cứu của điều tra xã hội học thường là các hiện tượng đa
dạng và phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực, mối quan hệ đan xen, chồng
chéo lên nhau, do vậy việc đo lường chúng thường khó khăn hơn rất nhiều so với
2
Website: Email :
việc đo lường các hiện tượng kinh tế khác. Mặt khác, các hiện tượng trong điều tra
xã hội học thường mang tính chất định tính nhiều hơn nên chúng ta sẽ gặp rất nhiều

chỉ báo thống kê (là những chỉ tiêu phi lượng hoá).
Do tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu nên việc thu thập số liệu sẽ
gặp rất nhiều khó khăn, vì vậy ta phải kết hợp linh hoạt nhiều phương pháp để có
thể thu thập số liệu một cách đầy đủ và chính xác nhất.
1.2. Đặc điểm của phương pháp điều tra xã hội học:
Nhìn chung, phương pháp điều tra xã hội học có một số đặc điểm nổi bật sau
đây :
Thứ nhất, phương pháp điều tra xã hội học có một ưu điểm là rất thuận lợi
trong việc thu thập các thông tin định tính như: quan điểm, thái độ, động cơ, tâm tư,
nguyện vọng…
Thứ hai, điều tra xã hội học phải áp dụng các nguyên tắc cơ bản của điều tra
Thống kê nói chung, phải sử dụng các phương pháp xử lý số liệu thống kê và thậm
chí phải coi đó như là một bộ phận nghiệp vụ cơ bản.
Thứ ba, trong điều tra xã hội học ngoài việc sử dụng các phương pháp điều
tra thống kê còn phải kết hợp sử dụng các phương pháp của xã hội học như:
phương pháp phân tích tư liệu, phương pháp thực nghiệm, phương pháp trưng cầu
ý kiến và phải tính đến các yếu tố tâm lý trong quá trình điều tra…
1.3. Phân loại điều tra xã hội học
Cũng giống như điều tra Thống kê, tuỳ theo từng tiêu thức phân loại mà điều
tra xã hội học được chia thành các loại khác nhau.
Theo phạm vi, đối tượng được điều tra thực tế điều tra xã hội học được chia
ra làm hai loại:
- Điều tra toàn bộ: là việc thu thập tài liệu về toàn bộ tổng thể nghiên cứu
(hay còn gọi là tổng thể điều tra). Điều tra toàn bộ có ưu điểm là: cung
cấp tài liệu đầy đủ nhất về tất cả các đơn vị của hiện tượng, cho biết qui
mô của tổng thể lớn hay nhỏ, rất có ích cho công việc nghiên cứu; nhưng
cũng có những hạn chế nhất định như : đòi hỏi một chi phí rất lớn vì vậy
không thể tiến hành thường xuyên được, ngoài ra trong nhiều trường hợp
không thể tiến hành điều tra toàn bộ được. Một ví dụ điển hình nhất của
3

Website: Email :
điều tra toàn bộ đó là cuộc tổng điều tra dân số thường được tiến hành sau
10 năm hay 5 năm ở mỗi nước.
- Điều tra không toàn bộ: là việc thu thập tài liệu của một số đơn vị được
chọn ra từ tổng thể chung. Điều tra không toàn bộ có ưu điểm là: do khối
lượng điều tra ít nên chi phí điều tra tương đối thấp, có thể làm nhiều hơn
điều tra toàn bộ với nội dung điều tra rộng hơn, thời gian điều tra ngắn
hơn; tuy nhiên phạm vi nghiên cứu bị hạn chế, tính chính xác kém hơn so
với điều tra toàn bộ. Tuỳ theo mục đích và yêu cầu nghiên cứu ta có các
loại điều tra không toàn bộ khác nhau như : điều tra chọn mẫu, điều tra
trọng điểm, điều tra chuyên đề. Một số ví dụ về điều tra không toàn bộ
như : điều tra mức sống dân cư;
Theo thời gian (theo tính chất liên tục của việc ghi chép tài liệu) điều tra
xã hội học được chia ra làm hai loại:
- Điều tra thường xuyên: là việc thu thập tài liệu của các đơn vị nghiên cứu
một cách thường xuyên, liên tục theo thời gian, theo sát với quá trình phát
sinh, phát triển của hiện tượng. Loại điều tra này thường được dùng với
các hiện tượng cần được theo dõi liên tục do nhu cầu quản lý. Ví dụ như:
chấm công, xuất nhập kho, thu chi gia đình….
- Điều tra không thường xuyên: là việc thu thập tài liệu không vào thời gian
nhất định, khi nào cần thì mới mới tiến hành thu thập tài liệu tại một thời
điểm hay một thời kỳ nào đó. Loại điều tra này thường được dùng cho các
hiện tượng cần theo dõi thường xuyên nhưng chi phí điều tra lớn (ví dụ
như : tổng điều tra dân số…); hoặc không xảy ra thường xuyên (như :
điều tra dư luận xã hội về một vấn đề nào đó vừa mới xảy ra…).
Theo nội dung, điều tra xã hội học được chia ra làm hai loại:
- Điều tra cơ bản : là hình thức điều tra theo diện rộng, do các chủ thể quản
lý tiến hành trên các đối tượng quản lý của mình. Loại điều tra này
thường được dùng khi muốn đánh giá tình hình một cách toàn diện, qua
đó phát hiện những vướng mắc cần giải quyết, làm cơ sở cho các cuộc

điều tra chi tiết hơn. Ví dụ như : trường đại học X muốn thu thập thông
tin về số lượng, chất lượng giáo viên, sinh viên, về điều kiện cơ sở vật
chất, về những nguyện vọng của giáo viên cũng như sinh viên để phục vụ
4
Website: Email :
tốt hơn cho công tác dạy và học. Điều tra cơ bản thường có quy mô lớn,
sử dụng nhiều chỉ tiêu, nội dung phong phú. Tuy nhiên, nhược điểm lớn
nhất của loại điều tra này là tốn kém.
- Điều tra chuyên đề: là loại điều tra có giả thuyết về đối tượng nghiên cứu.
Kết quả điều tra phải làm sáng tỏ, góp phần khẳng định hay bác bỏ giả
thuyết đã đặt ra. Điều tra chuyên đề chỉ điều tra một số ít, thậm chí một
đơn vị tổng thể, nhưng lại đi sâu nghiên cứu chi tiết nhiều khía cạnh nhằm
phát hiện những nhân tố mới hay rút ra những bài học kinh nghiệm. Ví dụ
như nghiên cứu những điển hình lạc hậu hay tiên tiến…do tính chất của
nó, điều tra chuyên đề thường được tiến hành với số lượng phiếu ít hơn và
chi phí cũng ít hơn điều tra cơ bản. Đây là hình thức điều tra được sử
dụng khá phổ biến.
2. Việc đo lường và lập thang điểm đánh giá các hiện tượng xã hội
2.1. Những vấn đề chung về đo lường
a. Khái niệm chung về đo lường
Để có thể đi từ nhận thức định tính về một hiện tượng xã hội đến định lượng
về hiện tượng đó, ta phải lượng hoá chúng tức là đo lường chúng. Mục đích của
việc đo lường là biến những đặc tính của sự vật thành một dạng để người nghiên
cứu có thể phân tích được.
Do vậy đo lường được hiểu là việc ấn định các con số cho các hiện tượng và
sự kiện theo các quy tắc nhất định.
Theo định nghĩa này cần chú ý một số điểm như sau : thứ nhất, đo lường là
hành động ấn định các con số cho các sự kiện và hiện tượng nhưng hành động ấn
định các con số này phải theo những qui tắc nhất định và cùng với đó các qui tắc
hướng dẫn phải tạo nên sự phù hợp giữa hiện tượng được quan sát với con số được

ấn định cho nó; thứ hai, yêu cầu chung nhất của việc đo lường đó là phải làm sao
giải quyết được vấn đề mà người nghiên cứu muốn : đo cái gì, đo như thế nào ?
b. Những yêu cầu của việc đo lường
Đo lường các hiện tượng xã hội là một công việc rất khó khăn, phức tạp.
Muốn cho công việc đo lường có chất lượng tốt, cần đảm bảo 6 yêu cầu sau:
- Thứ nhất, có độ tin cậy: nghĩa là phải thu được những kết quả tương
đương và phù hợp với nhau nếu sử dụng cùng một phương pháp đo.
5
Website: Email :
- Thứ hai, có giá trị: một công cụ đo lường có giá trị khi nó đo lường đúng
những gì cần đo.
- Thứ ba, có độ nhạy: nghĩa là việc đo lường có thể chỉ ra sự biến động hay
sự khác biệt của các sự vật, hiện tượng dù rất nhỏ. Nếu thiếu độ nhạy,
việc nghiên cứu sẽ không đem lại kết quả có ý nghĩa đáng kể.
- Thứ tư, phải có sự liên hệ với những thuật ngữ mô tả hiện tượng cần đo:
tức là trong đo lường phải đặt thang đo có liên quan đến vấn đề cần đo.
- Thứ năm, phải có tính đa dạng: nghĩa là kết quả đo lường có thể được
đem ra sử dụng cho nhiều mục đích thống kê khác nhau như để giải thích,
để hỗ trợ cho độ giá trị của kết quả, để suy đoán những ý nghĩa khác…
- Thứ sáu, dễ trả lời: đây là vấn đề quan trọng vì nếu câu hỏi khó hiểu, khó
trả lời thì người được hỏi có thể từ chối không trả lời, hoặc sẽ đưa ra
những câu trả lời sai lệch không đáp ứng mục đích nghiên cứu.
2.2. Các loại thang đo
Hoạt động đo lường là hoạt động gắn con số cho những đặc tính cần quan
sát. Do vậy, mục đích của chúng ta là phát triển dạng thang đo nào đó rồi biến đổi
sự quan sát những đặc tính của sự vật theo loại thang đo ấy. Nói cách khác, chúng
ta sẽ chỉ định những con số sao cho những con số đó tương đương nhất với những
đặc tính của sự vật mà chúng ta muốn đo.
Trong nghiên cứu xã hội, theo tính chất của việc đo lường thường có 4 loại
thang đo : thang đo định danh, thang đo thứ bậc, thang đo khoảng, thang đo tỉ lệ.

Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về 4 loại thang đo này.
a. Thang đo định danh
Thang đo định danh là việc đánh số các biểu hiện cùng loại của một tiêu
thức. Loại thang đo này thường dùng đối với những tiêu thức mà các biểu hiện của
nó là một hệ thống các loại khác nhau không theo một trật tự xác định nào cả. Ví
dụ: tiêu thức giới tính, tiêu thức thành phần kinh tế, tôn giáo, nghề nghiệp…
Trong thang đo định danh, giữa các con số không có quan hệ hơn kém và vì
vậy mọi phép tính đối với các con số này đều là vô nghĩa. Các con số trong thang
đo này chỉ sử dụng để đếm tần số của biểu hiện tiêu thức.
b. Thang đo thứ bậc
6
Website: Email :
Thang đo thứ bậc là thang đo định danh nhưng có khả năng cung cấp thông
tin về mối quan hệ thứ tự hơn kém giữa các biểu hiện tiêu thức. Ngay trong định
nghĩa chúng ta đã thấy rõ: thang đo thứ bậc thường dùng để đo các tiêu thức mà
các biểu hiện của nó có quan hệ thứ tự. Ví dụ: huân chương có ba hạng, bậc thợ
có bảy bậc, trình độ văn hoá có 3 cấp…
Trong thang đo thứ bậc, các con số có trị số lớn hơn không có nghĩa ở bậc
cao hơn và ngược lại, mà do sự qui định “lớn hơn” hay “nhỏ hơn” mà thôi.
Thang đo thứ bậc nói lên quan hệ hơn kém nhưng sự chênh lệch giữa các
biểu hiện của tiêu thức không nhất thiết phải bằng nhau vì vậy thường không thực
hiện được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia mà chỉ nói lên đặc trưng một cách
tương đối căn cứ vào sự giải thích lớn hơn hay nhỏ hơn mà thôi.
c. Thang đo khoảng
Thang đo khoảng là thang đo thứ bậc có các khoảng cách đều nhau nhưng
không có điểm gốc là số 0. Vì vậy, ta có thể đánh giá sự khác biệt giữa các biểu
hiện tiêu thức bằng thang đo này.
Trong thang đo thứ bậc, do quan hệ hơn kém giữa các con số có khoảng cách
bằng nhau nên ta có thể thực hiện được các phép tính cộng, trừ, tính được các tham
số đặc trưng như: trung bình, phương sai… nhưng do không có điểm gốc là 0 nên

không so sánh được tỉ lệ giữa các trị số đo.
d. Thang đo tỉ lệ
Thang đo tỉ lệ là thang đo khoảng với một điểm không (0) tuyệt đối (điểm
gốc) để có thể so sánh được tỷ lệ giữa các trị số đo. Với thang đo này ta có thể thực
hiện được tất cả các phép tính với các trị số đo.
Thang đo tỷ lệ là loại thang đo tốt nhất vì nó có thể sử dụng được tất cả các
phép tính phân tích về mặt thống kê.
Tóm lại, theo tuần tự thang đo sau có chất lượng đo lường cao hơn thang đo
trước, đồng thời việc xây dựng thang đo (xác định trị số cụ thể cho biểu hiện của
tiêu thức) cũng phức tạp hơn. Song không phải lúc nào cũng có thể sử dụng được
thang đo hoàn hảo mà phải tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu thức.
Việc xây dựng thang đo định danh rất đơn giản. Đối với các thang đo còn lại,
khi xây dựng, thông thường người ta phải lấy ý kiến chuyên gia kết hợp với vận
dụng phương pháp tính toán thông kê thích hợp.
7
Website: Email :
2.3. Một số cách đặt thang điểm cơ bản
Trong điều tra xã hội học, thang điểm là một công cụ quan trọng để nhận biết
được những thông tin đánh giá về vấn đề nghiên cứu. Do vậy thang điểm có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình thu thập thông tin, nhất là đối với thông tin
định tính. Có rất nhiều cách đặt thang điểm khác nhau, mỗi loại thang điểm thường
có một ưu nhược điểm riêng, tuy nhiên, sau đây chúng ta chỉ đi sâu vào nghiên cứu
một số loại thang điểm cơ bản.
a. Thang điểm điều mục
Thang điểm điều mục là loại thang điểm đơn giản, phù hợp với nhiều hoàn
cảnh khác nhau. Loại này đòi hỏi người được phỏng vấn cho biết thái độ của họ
thông qua việc lựa chọn điều mục đánh giá, các mục này thường được sắp xếp theo
một thứ tự nào đó.
Tuy loại thang điểm này đơn giản, dễ trả lời, song khi vận dụng cần chú ý
một số điểm sau:

Thứ nhất, chọn số lượng điều mục cho phù hợp. Cần phải có sự quyết định
số mục lựa chọn tượng trưng cho thái độ của người được phỏng vấn, số lượng điều
mục ít hay nhiều đều có những ưu điểm hay hạn chế riêng của nó. Chẳng hạn: nếu
thang điểm chỉ có hai điều mục đối lập nhau thì nó mang tính chất thang đo định
danh, rất khó cho công việc phân tích nhưng có thể thích hợp cho bảng câu hỏi dài
hay khi trình độ văn hoá của người được hỏi có giới hạn hay do yêu cầu khái quát
của người nghiên cứu. Ngược lại, khi sử dụng nhiều điều mục thì giúp cho người
được hỏi có nhiều sự lựa chọn rộng rãi hơn nhưng phải phù hợp với đối tượng điều
tra và nội dung nghiên cứu đồng thời cần chú ý trong việc sử dụng nếu không sẽ
gây rắc rối và không đảm bảo sự khác nhau giữa các điều mục.
Thứ hai, nên cần quan tâm đến số điều mục trả lời là chẵn hay lẻ. Nếu số
điều mục trả lời là lẻ, người trả lời dễ có thái độ trung dung với cách chọn câu trả
lời ở giữa, tuy không đúng với sự thật nhưng dễ phân tích hơn. Còn nếu số điều
mục là chẵn thì người được hỏi bắt buộc phải biểu hiện thái độ của mình.
Thứ ba, không nên đặt câu trả lời lệch về một phía này hay một phía kia làm
cho người trả lời khó chọn sẽ ảnh hưởng đến câu trả lời.
b. Thang điểm xếp hạng theo thứ tự
8
Website: Email :
Thang điểm xếp hạng theo thứ tự là loại thang điểm mà người được hỏi sẽ
xếp hạng các mục trả lời theo thứ tự mà họ đánh giá vì vậy lượng thông tin sẽ thu
thập được nhiều hơn so với việc chỉ chọn một điều mục.
Loại thang điểm này tuy đơn giản, có thể phân tích được thông tin tương đối
sâu sắc mà lại dễ trả lời nhưng cũng gặp một số khó khăn như:
Thứ nhất, trong quá trình xây dựng thang điểm người nghiên cứu khó có thể
liệt kê được dầy đủ hết các trường hợp nên dữ liệu thu thập thiếu chính xác.
Thứ hai, đối với loại thang điểm này việc xếp hạng theo thứ tự được nhấn
mạnh nên có thể ảnh hưởng đến câu trả lời, đặc biệt là mục thứ nhất và mục chat
thường được quan tâm nhiều hơn (do yếu tố tâm lý).
Thứ ba, khi được hỏi để xếp hạng những mục hoàn toàn nằm ngoài ý thích

của người được hỏi thì câu trả lời không có ý nghĩa lắm.
Thứ tư, thang điểm này không giúp ta xác định khoảng cách xa gần giữa các
mục là bao nhiêu và tại sao người ta lại xếp như vậy.
c. Thang điểm có tổng không đổi
Thang điểm có tổng không đổi là loại thang điểm có khả năng cung cấp một
nhận thức tổng quát tốt hơn về khoảng cách giữa các điều mục trên giải thang điểm.
Cụ thể: người được hỏi cần chia hay xác định một số điểm có tổng không đổi
thường là 100 để biểu thị sự quan trọng tương đối của những đặc điểm nghiên cứu.
Số lượng điểm được xác định trong mỗi đặc điểm đã chỉ rõ hạng bậc của nó và
đồng thời cũng chỉ rõ sự khác biệt giữa các đặc điểm với nhau.
Thang điểm này có ưu điểm là cho phép phân tích chi tiết và cụ thể hơn
thông tin thu được nhưng vẫn còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, đối với loại thang điểm này nếu có quá nhiều điều mục thì việc
chia điểm cũng gặp khó khăn vì vậy thang điểm này chỉ sử dụng cho những đối
tượng có trình độ dân trí cao. Đôi khi, để khắc phục tình trạng này, ta có thể cho
điểm tuỳ ý các điều mục với thang điểm là 100.
Thứ hai, mặc dù như trên đã nói “số điểm được xác định cho mỗi đặc điểm
đã chỉ rõ hạng bậc của nó, đồng thời cũng chỉ rõ sự khác biệt giữa các đặc điểm với
nhau” tuy nhiên không thể chắc chắn là những kết quả đó có biểu thị đúng với
khoảng cách và tỉ lệ thực tế giữa các đặc điểm hay không.
d. Thang điểm có ý nghĩa đối nghịch nhau
9
Website: Email :
Thang điểm có ý nghĩa đối nghịch nhau là loại thang điểm mà người được
hỏi cho biết ý kiến của mình về vấn đề cần được nghiên cứu bằng cách ghi ý kiến
trả lời trên một chuỗi tính từ tạo thành từng cặp đối nghịch nhau về ý nghĩa. Ví dụ
như để hỏi đánh giá về chất lượng phục vụ tại một nhà hàng, người ta dùng thang
điểm 7 vị trí có ý nghĩa đối nghịch nhau như sau :
Cực nặng Cực nhẹ
Rất Khá Hơi Trung bình Hơi Khá Rất

nhiệt nhiệt nhiệt không không không
tình tình tình nhiệt nhiệt nhiệt
tình tình tình
e. Thang điểm đánh giá qua hình vẽ
Thang điểm đánh giá qua hình vẽ là loại thang điểm mà người được hỏi cho
biết ý kiến đánh giá của mình thông qua việc lựa chọn hình vẽ biểu thị mà họ cho là
phù hợp với nhận xét của mình nhất. Loại thang điểm này có thể đo ở nhiều mức
độ khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung và qui mô của hiện tượng nghiên cứu.
Trong điều tra xã hội học người ta thường sử dụng các loại thang điểm hình
vẽ như : thang điểm hình nhiệt kế, thang điểm với các vẻ mặt khác nhau v…v để
nói lên độ đồng tình hay không đồng tình về một vấn đề nào đó.
Tóm lại, ngoài các thang điểm cơ bản trên còn có nhiều cách đặt thang điểm
nữa tuỳ thuộc vào kỹ thuật của các nhà nghiên cứu tuy nhiên mỗi loại thang điểm
đều có những ưu nhược điểm riêng vì vậy người nghiên cứu phải biết lựa chọn loại
thang điểm nào thích hợp nhất, có khả năng đáp ứng tốt nhất những nhu cầu thông
tin với chi phí thấp nhất, phương pháp truyền đạt dễ dàng, dễ hiểu và dễ trả lời.
3. Các loại câu hỏi trong bảng hỏi
Trong điều tra xã hội học, nội dung của các cuộc điều tra được thể hiện bằng
các câu hỏi trong bảng hỏi. Nhờ có các câu hỏi này mà người hỏi có thể hướng
người được hỏi vào một quỹ đạo cần thiết, vì vậy các câu hỏi trong bảng hỏi là
“công cụ dẫn đường” vô cùng quan trọng giúp người hỏi có thể hoàn thành được
công việc thu thập thông tin một cách dễ dàng hơn.
10
Website: Email :
Tuỳ theo từng tiêu thức phân loại khác nhau mà các câu hỏi được chia ra
thành nhiều loại nhỏ tương ứng với các tiêu thức đó. Ta có sơ đồ phân loại các loại
câu hỏi sau : (xem trang bên)






11
Website: Email :
SƠ ĐỒ 1: CÁC LOẠI CÂU HỎI
Các loại câu hỏi
Theo công dụng Theo biểu hiện
Nội dung Chức
năng
Câu trả lời Cách hỏi
Câu
hỏi
sự
kiệ
n
Câu
hỏi
tri
thứ
c
Câu hỏi
quan
điểm,
thái độ,
động cơ
Câu
hỏi
tâm

Câu

hỏi
lọc
Câu
hỏi
kiểm
tra
Câu
hỏi
đóng
Câu
hỏi
mở
Câu
hỏi
nửa
đóng
Câu
hỏi
trực
tiếp
Câu
hỏi
gián
tiếp
Câu hỏi lưỡng
cực
Câu hỏi cường độ Câu hỏi tuỳ chọn
12
Website: Email :
3.1. Theo công dụng

a. Theo nội dung
Mục đích của cuộc điều tra là phải nắm được nội dung bao gồm tình hình, sự
nhận thức hiểu biết, thái độ quan điểm động cơ của người được điều tra. Vì vậy câu
hỏi về nội dung thường được chia thành 3 loại sau:
- Câu hỏi về sự kiện là những câu hỏi để nắm tình hình bao gồm cả tình hình
về đối tượng điều tra.
Ví dụ : Bạn đã tốt nghiệp đại học chưa ?

Bạn có biết tin tổng thống Nga sắp sang thăm nước ta hay
không?
Nhìn chung, những câu hỏi về sự kiện thường dễ trả lời. Chính vì vậy, người
ta thường dùng để bắt đầu hỏi trong phỏng vấn những câu hỏi sự kiện để người trả
lời quen dần với cuộc toạ đàm hoặc để tạm nghỉ giữa những câu hỏi về quan điểm,
thái độ, động cơ…
Thông tin thu được từ các câu hỏi sự kiện thường có độ tin cậy và xác thực
cao so với những câu hỏi về nội dung khác. Tuy nhiên, khi dùng những câu hỏi về
các sự kiện trong quá khứ cần đề phòng những sai lầm xảy ra do trí nhớ kém.
Trong trường hợp này, người nghiên cứu cũng cần phải giúp người trả lời bằng
cách phục hồi lại bối cảnh xung quanh để họ tái hiện thông tin cần thiết.
- Câu hỏi về tri thức là loại câu hỏi nhằm xác định xem người được hỏi có
nắm vững về một tri thức nào đó không, hay nhằm đánh giá trình độ nhận thức về
chủ đề điều tra.
Ví dụ : Tháng 4 năm nay cả nước sẽ long trọng kỉ niệm 30 năm
giải phóng miền Nam. Bạn hãy cho biết đôi điều về diễn biến lịch sử
của những ngày này 30 năm về trước.
Khi sử dụng những câu hỏi tri thức cần chú ý tránh loại câu hỏi lưỡng cực
“có - không” vì người trả lời dễ ngộ nhận là mình có biết. Trong trường hợp vẫn
dùng câu hỏi ấy thì phải kèm theo một số câu hỏi phụ để kiểm tra thêm đối tượng
có thực sự hiểu biết về vấn đề đó hay không.
13

Website: Email :
Nếu so sánh đối chiếu trên những bậc thang về nhận thức thì câu hỏi sự kiện
mới là ở mức “biết”, còn đến câu hỏi tri thức mới đạt tới mức “hiểu”.
- Câu hỏi về quan điểm, thái độ, động cơ
• Câu hỏi về thái độ (còn gọi là câu hỏi ý kiến) là câu hỏi nhằm thu thập
tất cả những xử sự nói (hoặc viết ra) của người được hỏi thành các
nhận xét, phê phán.
• Câu hỏi về quan điểm: quan điểm được hiểu là thói quen xử xự, nghĩa
là các quan hệ tương đối ổn định của con người đối với các hiện
tượng, sự vật, nhóm người, xã hội, các chuẩn mực và giá trị của
chúng. Chức năng của câu hỏi về qun điểm và thái độ có thể gần giống
nhau và khác chăng chỉ là về mức độ. Cụ thể: quan điểm là dạng tổng
hợp và suy diễn của các ý kiến thái độ.
• Câu hỏi về động cơ: động cơ được hiểu là cơ sở bên trong của cách xử
xự và thói quen xử xự và là động lực nguyên nhân của cách xử xự đó.
Khi tổng hợp và phân tích những câu hỏi về động cơ cần chú ý một số
vấn đề sau:
Thứ nhất, khó có thể thu thập về toàn bộ kết cấu các động cơ
khác nhau nên cần phải tìm ra một số động cơ chính để giải thích và
coi đó là động cơ duy nhất.
Thứ hai, phải phân biệt rõ ràng đâu là nguyên nhân trực tiếp,
đâu là nguyên nhân suy diễn (nguyên nhân gián tiêp).
Thứ ba, các nhầm lẫn (nếu có) khi trả lời câu hỏi này phần lớn
là không có chủ ý.
Thứ tư, khi đặt câu hỏi loại này phải khơi gợi được mối quan
tâm và đặc biệt là sự tin tưởng của người được hỏi vì nếu người được
hỏi biết rằng những nhận xét, quan điểm của họ có ý nghĩa, hoặc sẽ
được phản hồi thì người được hỏi sẽ rất hứng thú trả lời.
b. Theo chức năng
Trên thực tế, để truyền tải những nội dung của cuộc điều tra, đặc biệt là trong

hình thức phỏng vấn trực diện, cần phải có những câu hỏi mang tính chất kỹ thuật,
đó là các câu hỏi chức năng. Các câu hỏi về chức năng cũng thường được chia
thành 3 loại sau :
14
Website: Email :
- Câu hỏi tâm lý có thể là những câu hỏi tiếp xúc để gạt bỏ những nghi ngờ
có thể nảy sinh, để giảm bớt sự căng thẳng hay chuyển từ chủ đề này sang
chủ đề khác (thường chỉ dùng trong phỏng vấn trực diện).
Những câu hỏi tiếp xúc thường có ý đưa người được hỏi lên vị trí của
một chuyên gia, một người từng trải trong cuộc sống là động cơ thúc đẩy
người được hỏi và lôi cuốn họ vào vấn đề nghiên cứu.
Những câu hỏi để giảm bớt sự căng thẳng là những câu hỏi biểu thị sự
quan tâm tới người được hỏi về đời sống hàng ngày, gia đình v…v
thường không liên quan đến vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu.
Còn những câu hỏi để chuyển sang đề tài khác được sử dụng như một
chiếc cầu nối giữa các nội dung, thường thì những câu hỏi này cũng
không liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu.
Nhìn chung, với chức năng tâm lý của nó thì câu hỏi tâm lý không có
liên quan rõ ràng đến nội dung nghiên cứu. Chính vì thế việc sử dụng
những câu hỏi này phải khéo léo và có mức độ. Có người đã ví nó như gia
vị trong một món ăn, sử dụng nhiều hoặc không đúng chỗ có thể gây ra
phản tác dụng.
- Câu hỏi lọc là loại câu hỏi có tác dụng tìm hiểu xem người được hỏi có
thuộc nhóm người dành cho những câu hỏi tiếp theo hay không. Câu hỏi
lọc có thể dùng trước khi tiến hành cuộc phỏng vấn hay trước đi tiếp vào
một nội dung nào đó.
Khi nghiên cứu câu hỏi lọc, đặc điểm cần chú ý là có một hình thức
biến dạng của nó thường dùng trong điều tra thống kê nước ta là hướng
dẫn “bước nhảy” với ý nghĩa là cho phép chuyển đến hoặc “được phép
chuyển đến”, bởi vì nếu không chuyển ngay vào mà vẫn theo trình tự bình

thường thì các câu trả lời sẽ không có giá trị đích thực.
- Câu hỏi kiểm tra là câu hỏi có tác dụng kiểm tra độ chính xác của những
thông tin thu thập được. Câu hỏi kiểm tra có thể thực hiện được một vài
chức năng khác nhau. Nó có thể kiểm tra những câu trả lời về một vấn đề,
nhưng cũng có thể xác định mức tin cậy đối với từng câu hỏi hoặc toàn bộ
câu hỏi của bảng Anket nói chung. Phương thức để thực hiện có thể rất
khác nhau, rất linh hoạt. Có thể nêu câu hỏi, tiếp sau đưa phương án trả
15
Website: Email :
lời về câu hỏi đó để thử người được hỏi xem có trung thực với câu trả lời
của mình không. Khi đặt câu hỏi kiểm tra cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, trong quá trình phỏng vấn nên chuẩn bị một số cau hỏi kiểm
tra đối với các nội dung nghiên cứu chủ yếu và những câu hỏi này phải
được kiểm tra trong thực tiễn là có thể dùng được.
Thứ hai, câu hỏi kiểm tra không bao giờ được đặt liền với câu hỏi mà
nó định kiểm tra, mà thường phải cách xa khoảng 3, 4 câu hỏi khác. Nếu
không làm như vậy có thể làm phát sinh sự nghi ngờ ở người được hỏi,
làm ảnh hưởng đến tiến trình phỏng vấn tiếp theo.
3.2. Theo biểu hiện
a. Theo biểu hiện của câu trả lời
Theo hình thức biểu hiện này, các câu hỏi thường được chia thành 3 loại
- Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi đã có trước các phương án trả lời, cụ thể là
trong đó đã đề ra cho người trả lời một hoặc vài câu trả lời có thể có được.
Bằng cách nào đó người trả lời có thể đánh dấu hoặc gạch dưới câu trả lời đã
chọn hoặc những câu hỏi trong bảng hỏi. Nếu là phỏng vấn trực diện, những
câu trả lời có thể được đọc lên hay chỉ trên phiếu cho người được hỏi.
Người ta thường phân biệt ba loại câu hỏi đóng sau:
• Câu hỏi lưỡng cực (câu hỏi loại trừ) : loại câu hỏi này là phổ biến
nhất, câu trả lời cho loại câu hỏi này chỉ là “có - không”; “đồng ý-
không đồng ý”…Tuy nhiên loại câu hỏi này có nhược điểm đó là

thường nhận được câu trả lời thiên về một phía mà lại thường là phía
tích cực. Vì vậy, để người lời có trách nhiệm hơn và do đó câu trả lời
được xác thực hơn người ta thường xử lý bằng cách sử dụng câu hỏi
kiểm tra hoặc bằng việc thay đổi cách diễn đạt.
Ví dụ : Bạn đã từng đi du lịch vào Đà Lạt chưa ?
□ Chưa
□ Rồi
• Câu hỏi cường độ: là loại câu hỏi mà người mà người ta đặt ra nhiều
khả năng trả lời theo cường độ của hiện tượng hoặc ý kiến. Câu hỏi
cường độ được đưa ra để tránh sự cực đoan trong câu hỏi lưỡng cực.
16
Website: Email :
Với câu hỏi cường độ, người ta đưa ra số khả năng chọn là 3, 5 hoặc
nhiều hơn xoay quanh câu trả lời trung bình.
Ví dụ : Bạn cảm thấy cường độ làm việc trong công ty này
như thế nào ?
□ Rất nặng
□ Tương đối nặng
□ Bình thường
□ Tương đối nhẹ
□ Rất nhẹ
• Câu hỏi tuỳ chọn (câu hỏi tuyển) : đặc điểm khác cơ bản của câu hỏi
này là các khả năng trả lời không loại trừ lẫn nhau, người được hỏi có
thể chọn một số khả năng nào đó mà họ cảm thấy phù hợp với họ.
Ví dụ : Xin Anh(Chị) vui lòng cho biết hai lý do quan
trọng nhất khiến Anh(Chị) quyết định chọn sử dụng
mạng di động của tổng công ty V chúng tôi.
□ Chất lượng mạng tốt
□ Giá thành rẻ
□ Có nhiều hình thức khuyến mại hấp dẫn

□ Vùng phủ sóng rộng
□ Có nhiều loại hình dịch vụ thú vị
□ Phương thức thanh toán cước phí đa dạng
Những câu hỏi loại này thường được sử dụng khá phổ biến vì
trên phương diện kỹ thuật nó có khá nhiều ưu điểm như:
Về phía người được hỏi, khá thuận tiện cho việc trả lời. Họ chỉ
việc lựa chọn trong số khả năng trả lời đã có sẵn mà không cần suy
nghĩ gì thêm
Về phía người sử dụng kết quả, rất tiện cho việc tổng hợp và sử
dụng kết quả một cách rõ ràng.
Tuy nhiên, khi sử dụng loại câu hỏi này cũng gặp phải một chút
khó khăn sau:
17
Website: Email :
Khó khăn đầu tiên là về mặt kỹ thuật và tâm lý: người đặt câu
hỏi phải tự đặt vị trí của mình vào vị trí của người được hỏi.
Khó khăn thứ hai là về mặt nội dung: người soạn thảo bảng hỏi phải
lường trước tất cả những phương án trả lời có thể có và các phương
án trả lời muốn nhận được từ người được hỏi. Đồng thời rất khó để tìm
kiếm những vấn đề mới nảy sinh.
Còn một vấn đề nữa mà chúng ta nên lưu tâm khi sử dụng loại
câu hỏi này là : Với những câu hỏi loại này, ý kiến trả lời thường có
nguy cơ là thiên về những khả năng đầu tiên. Điều này có thể do nhiều
nguyên nhân nhưng thường là do người trả lời thiếu trách nhiệm, chỉ
ngộ nhận những khả năng đầu tiên là quan trọng nhất…
- Câu hỏi mở là câu hỏi không có sẵn phương án trả lời do người hỏi nghĩ ra
mà ngược lại, người trả lời sẽ tự nghĩ ra phương án trả lời. Như vậy, nó cho phép
người trả lời tự thông tin một cách tốt nhất những suy nghĩ của họ.
Do đặc điểm trên nên câu hỏi mở rất có tác dụng trong việc thu thập ý kiến,
quan điểm một cách đầy đủ nhất theo một chủ đề hoặc trong một phạm vi nghiên

cứu đã đề ra và thường được sử dụng trong những trường hợp sau:
• Được sử dụng vào lúc bắt đầu cuộc nghiên cứu, khi chuẩn bị thăm dò
ý kiến; nó cho phép rút ra những câu trả lời khác nhau cho một câu hỏi
nhất định.
• Trong trường hợp muốn làm tăng tính tích cực của người được phỏng
vấn, người ta thường bắt đầu phỏng vấn nói chung hoặc đi vào một
vấn đề cụ thể nào nói riêng bằng những câu hỏi mở để làm cho cuộc
hội thoại tự nhiên, người hỏi khỏi bị động.
• Để chuẩn đoán nhận thức hay kiểm tra nhận thức của người được hỏi.
• Để chuẩn đoán động cơ, lý do xử xự, những lo lắng cá nhân, những
vấn đề tồn tại, mong muốn, nguyện vọng…khó cho trước các khả
năng trả lời.
Khó khăn lớn nhất đối với câu hỏi mở là ở vấn đề xử lý. Nguyên tắc của việc
xử lý là phải tách thành các nhóm mà theo đó có thể thu thập tư liệu từ những câu
trả lời. Các nhóm ý kiến này do chính người trả lời hình thành. Chính vì thế trong
18
Website: Email :
rất nhiều phiếu phỏng vấn, phiếu điều tra, câu hỏi mở được sử dụng rất ít, thậm chí
không hề có, có khi chỉ là dạng người trả lời được kiến nghị.
Mặt khác, trong trường hợp những người được hỏi có trình độ không đều
nhau, quan điểm không nhất quán, việc trả lời những câu hỏi mở thường rất phân
tán, thậm chí còn trả lời trái ngược nhau. Cơ cấu người được hỏi ảnh hưởng đến
câu hỏi mở còn mạnh mẽ, phức tạp hơn.
Cho đến nay, việc sử dụng câu hỏi đóng, mở vẫn còn rất nhiều tranh cãi.
Người ta nêu ra các tiêu chuẩn đánh giá là: “tiết kiệm, ổn định, xác thực”, nhưng đi
vào từng trường hợp cụ thể, khó có loại câu hỏi nào giữ được ưu thế tuyệt đối. Một
vài điểm thống nhất cá biệt có thể là: những câu hỏi lọc bao giờ cũng là những câu
hỏi đóng; còn đối với những câu hỏi tiếp xúc, tâm lý, thái độ v…v đều là câu hỏi
mở.
- Câu hỏi nửa đóng về hình thức là dạng kết hợp giữa câu hỏi đóng và câu

hỏi mở, còn về nội dung thì nó được sử dụng trong những trường hợp sau đây:
• Trường hợp khi không tìm hết được những phương án diễn đạt cho
câu hỏi đóng, cần thiết phải cho người trả lời tự diễn đạt vấn đề theo ý
họ.
• Trường hợp khi chỉ cần xử lý tổng hợp theo những phương án trả lời
đã định sẵn nhưng không muốn người trả lời rơi vào thế hụt hẫng.
b. Theo biểu hiện của câu hỏi
Tuỳ theo cách hỏi, các câu hỏi được biểu diễn dưới dạng trực tiếp hoặc gián
tiếp.
- Câu hỏi trực tiếp là cách hỏi thẳng ngay vào nội dung vấn đề, người được
hỏi không bị câu nệ và có thể trả lời vào chính nội dung đó.
Ví dụ : Bạn có cho rằng giá xăng dầu lại sẽ tiếp tục tăng nữa
không?
□ Có
□ Không
- Câu hỏi gián tiếp là cách hỏi khôn khéo, thường những vấn đề mà xã
hội gán cho nó tính tiêu cực hay những vấn đề tế nhị thì nên hỏi gián tiếp.
19
Website: Email :
Ví dụ khi muốn hỏi về thu nhập của một người, ta có thể hỏi : “Anh(Chị) chi
tiêu như thế này chắc thu nhập cũng khá lắm nhỉ? ”; “Thu nhập của Anh(chị) chắc
cũng đủ dùng và có thể tiết kiệm được một khoản chứ nhỉ”.
Nhìn chung, đối với các nội dung cấm kỵ, nhất là ở các nước phương Đông
thì giữa câu hỏi trực tiếp và gián tiếp có thể có kết quả khác nhau.
4. Các phương pháp thu thập thông tin
Trong điều tra xã hội học, việc tiến hành thu thập thông tin là một trong
những công việc khá quan trọng và không thể thiếu trong mỗi cuộc điều tra. Thông
tin thu thập được có đầy đủ và chính xác thì kết quả phân tích mới thực sự có ý
nghĩa. Mặt khác, các hiện tượng xã hội lại rất phức tạp, các điều kiện và hoàn cảnh
để thu thập thông tin lại rất khác nhau. Vì vậy, để thông tin thu thập đầy đủ và

chính xác, đồng thời tận dụng được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau thì phương
pháp thu thập thông tin phải đa dạng và phù hợp. Sau đây, ta sẽ đi sâu nghiên cứu
một vài phương pháp thu thập thông tin cơ bản trong điều tra xã hội học.
4.1. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin dựa vào một
bảng hỏi đã được thiết kế sẵn và khi đó bảng hỏi sẽ là cầu nối giữa điều tra viên và
người được hỏi. Do vậy bảng hỏi giữ một vai trò hết sức quan trọng trong phương
pháp này. Có 3 phương pháp phỏng vấn cơ bản: Phỏng vấn viết (Anket); phỏng vấn
trực diện; phỏng vấn qua điện thoại (xem sơ đồ trang 22)
20
Website: Email :
SƠ ĐỒ 2 : CÁC LOẠI PHỎNG VẤN
Các loại phỏng vấn
Phỏng vấn viết
(Anket)
Phỏng vấn trực diện
Phỏng vấn qua điện
thoại
Theo nội dung,
trình tự tiến h nhà
Theo đối tượng
phỏng vấn
Phỏng
vấn
tiêu
chuẩn
hoá
Phỏng
vấn
bán

tiêu
chuẩn
Phỏng
vấn
tự
do
Phỏng
vấn
sâu
Phỏng
vấn

nhân
Phỏng
vấn
nhóm
Phỏng
vấn
định
hướng
21
Website: Email :
a. Phương pháp Anket (phỏng vấn viết)
Phương pháp Anket là phương pháp trong đó sự tiếp xúc với người được hỏi
được thực hiện thông qua bảng hỏi, người được hỏi tự điền câu trả lời vào bảng hỏi
và vì vậy những nguyên tắc tâm lý trong sắp xếp bảng hỏi đều hướng vào người trả
lời.
Phương pháp Anket có những đặc điểm cơ bản phù hợp với yêu cầu điều tra
xã hội học. Cụ thể :
- Dễ tổ chức: chỉ cần một bảng hỏi lập sẵn là có thể tiến hành điều tra hay

phỏng vấn mà không cần có địa điểm và nghi thức gặp gỡ, không cần có
mặt người phỏng vấn. Bên cạnh đó, khi điều tra những vấn đề về tâm tư,
tình cảm, thái độ hay những vấn đề về tâm lý phức tạp thì sự vắng mặt
của người điều tra là thích hợp. Mặt khác, việc dấu tên người phỏng vấn
cho phép điều tra sâu và rộng ở nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Nhanh chóng: Việc điều tra có thể tiến hành với nhiều người cùng một
lúc. Nếu có đông người cùng tập trung tại một địa điểm trong một thời
gian thì có thể nhanh chóng thu thập được ý kiến cần thiết của tất cả mọi
người.
- Tiết kiệm chi phí: với phương pháp này có thể tiết kiệm được cả chi phí
lẫn cả thời gian. Với bảng hỏi đã lập sẵn, cùng một lúc có thể tiến hành
điều tra được nhiều người mà không cần nhiều cán bộ điều tra.
Tuy nhiên bên cạnh đó, phương pháp này vẫn còn một số hạn chế như:
- Điều kiện áp dụng: phương pháp này chỉ có thể áp dụng cho những vùng
có trình độ dân trí cao như các thành phố chẳng hạn, không thể áp dụng
cho vùng sâu vùng xa vì trình độ dân trí của người dân ở đây thấp và tinh
thần trách nhiệm không cao.
- Tỉ lệ trả lời thấp: không phải tất cả các phiếu hỏi đều thu được phiếu trả
lời mà số lượng trả lời còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như : sự hấp dẫn
của chủ đề cuộc điều tra, hình thức và độ dài bảng hỏi, chất lượng của thư
giải thích về mục đích nghiên cứu và những vấn đề có liên quan, phương
pháp sử dụng để phân phát bảng hỏi.
- Ít có cơ hội để giải thích các vấn đề: nếu vì bất kì lý do gì người được
phỏng vấn không hiểu một vài câu hỏi, thì họ không có cơ hội để được
22
Website: Email :
giải thích rõ ràng hoặc câu hỏi được hiểu với nhiều ý nghĩa khác nhau thì
sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của thông tin thu được.
- Câu trả lời của câu hỏi này bị ảnh hưởng bởi câu hỏi khác: Bởi vì trước
khi trả lời, người được hỏi có thể đã đọc lướt qua tất cả các câu hỏi, nên

cách trả lời một câu hỏi cụ thể nào đó có thể bị ảnh hưởng bởi nội dung
của các câu hỏi khác.
- Người được hỏi có thể tham gia ý kiến với người khác: với bảng hỏi được
phát thì người được hỏi có thể tham khảo ý kiến của người khác trươc khi
trả lời.
- Phương pháp Anket không thể kết hợp với các phương pháp khác để thu
thập thông tin: một cuộc phỏng vấn đôi khi có thể kết hợp các phương
pháp để thu thập thông tin ví dụ như kết hợp phỏng vấn trực diện với
phương pháp quan sát chẳng hạn, nhưng phương pháp Anket không có
được lợi thế này.
b. Phương pháp phỏng vấn trực diện
Phương pháp phỏng vấn trực diện thông thường được hiểu là cuộc nói
chuyện riêng hay trò chuyện có chủ định mà ở đó người điều tra trực tiếp tiếp xúc
với người được điều tra.
Như vậy, với định nghĩa như trên ta thấy phỏng vấn trực diện khác với cuộc
nói chuyện thông thường ở hai điểm: Thứ nhất, mục đích của cuộc nói chuyện này
là do chương trình nghiên cứu qui định từ trước. Thứ hai, vai trò của người nói
chuyện đã được qui định, thậm chí được chuẩn hoá. Vì thế, phỏng vấn trực diện
còn được coi là “cuộc tiếp xúc giả tạo”.
Do việc tiếp xúc trực tiếp như vậy nên phỏng vấn trực diện có nhiều ưu điểm
mà phương pháp Anket không có được như:
- Việc tiếp xúc trực tiếp tạo ra những điều kiện đặc biệt để có thể hiểu đối
tượng sâu sắc hơn, từ đó làm cho chất lượng thông tin thu được thường có
độ chính xác cao, làm cho người nói chuyện có thể hiểu vấn đề một cách
đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và sát với thực tế hơn.
- Do tiếp xúc trực tiếp nên có thể kết hợp việc phỏng vấn với quan sát đối
tượng từ hình dạng bên ngoài cho đến thay đổi tâm lý thái độ, tình cảm và
từ đó có thể phát hiện ra những sai sót có thể và kịp thời uốn nắn.
23
Website: Email :

- Dễ dàng giải thích cho đối tượng những cau hỏi, những thuật ngữ, những
vấn đề mà người ta chưa hiểu hoặc hiểu không chính xác, trên cơ sở đó
làm cho chất lượng thông tin tốt hơn.
Tuy nhiên, phương pháp phỏng vấn trực diện cũng có một số hạn chế cần
phải lưu ý như:
- Tốn kém: so với các phương pháp khác, thì chi phí cho các phương pháp
này tốn kém hơn rất nhiều với các khoản như tiền ăn ở, phương tiện đi lại
cho điều tra viên cũng như thời gian và công sức mà điều tra viên bỏ ra.
- Tổ chức khó khăn: việc tổ chức đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng về
điều tra viên, địa điểm, nghi thức gặp gỡ.
- Câu trả lời có thể chịu ảnh hưởng bởi ý kiến cá nhân của điều tra viên:
vì đây là cuộc gặp trực tiếp, điều tra viên giải thích cho đối tượng điều tra,
nên nếu điều tra viên không hiểu rõ vấn đề đang nghiên cứu hoặc giải
thích có tính chủ quan thì có thể ảnh hưởng đến chất lượng trả lời.
Xét một cách toàn diện, một cuộc phỏng vấn trực diện có 4 tính chất sau đây:
- Tính một chiều: cuộc phỏng vấn trực diện là cuộc giao tiếp một chiều do
người phỏng vấn điều khiển. Người phỏng vấn phai làm chủ cả quá trình
phỏng vấn từ khi mở đầu đến lúc kết thúc. Chính do tính chất một chiều
và làm chủ đó mà người phỏng vấn phải tạo được không khí cởi mở, dễ
dàng thổ lộ cho người trả lời.
- Tính qui định: tính chất này biểu hiện ở chỗ nội dung và các khả năng xử
xự trong cuộc nói chuyện được qui định sẵn trong bảng hỏi và trong kế
hoạch phỏng vấn.
- Tính giả định: là các yêu cầu và tình huống giả định để thu lại những
phản ứng khác nhau của người được phỏng vấn.
- Tính phi hậu quả: có nghĩa là các cuộc phỏng vấn phải đảm bảo không
gây hậu quả cho người được phỏng vấn. Mức phi hậu quả bắt nguồn từ
hai lý do sau đây: Thứ nhất, từ tính giả định của cuộc phỏng vấn. Thứ hai,
từ nguyên tắc nặc danh, yêu cầu được giữ bí mật của cuộc phỏng vấn,
tránh những điều phiền toái, truy cứu những người trả lời.

24
Website: Email :
Tuỳ theo tiêu thức phân loại là nội dung trình tự tiến hành hay đối tượng tiếp
xúc mà phỏng vấn trực diện được chia ra làm các loại khác nhau với những ưu
điểm và hạn chế riêng.
Nếu xét theo nội dung và trình tự tiến hành thì phỏng vấn trực diện được
chia ra làm 5 loại :
- Phỏng vấn tiêu chuẩn hoá : là cuộc phỏng vấn diễn ra theo một trình tự
nhất định với nội dung được vạch sẵn cho mọi người dựa vào một bảng
hỏi. Đối với loại phỏng vấn này, người phỏng vấn không được thay đổi
trình tự các câu hỏi, không có quyền đưa thêm câu hỏi bổ sung hoặc gợi ý
thêm các phương án trả lời.
Với tính chất như trên, loại phỏng vấn này có ưu điểm là số liệu có thể
so sánh trực tiếp được với nhau phục vụ việc tổng hợp dễ dàng và thường
phù hợp với việc kiểm định giả thuyết.
- Phỏng vấn bán tiêu chuẩn : thực chất là hình thức trung gian giữa phỏng
vấn tiêu chuẩn hoá và phỏng vấn tự do. Cụ thể là ở đây các câu hỏi có
tính chất quyết định hay các câu hỏi chủ yếu được tiêu chuẩn hoá, còn các
câu hỏi khác thì có thể phát biểu tuỳ tình hình thực tế.
Như vậy, phỏng vấn bán tiêu chuẩn sẽ tận dụng được ưu điểm và hạn
chế nhược điểm của phỏng vấn tiêu chuẩn và phỏng vấn tự do.
- Phỏng vấn tự do : là cuộc phỏng vấn không có những câu hỏi đã định
trước và cũng không theo kế hoạch đã định trước mà chỉ đưa ra đề tài và
người phỏng vấn hoàn toàn tự do tiến hành như một cuộc nói chuyện.
Loại phỏng vấn này có ưu điểm là người trả lời được tự do trình bày ý
kiến, quan điểm của mình sâu rộng một cách tuỳ ý còn người phỏng vấn thì
chủ động thực hiện mục đích của mình mà không bị gò bó.
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của loại phỏng vấn này là người phỏng
vấn phải có trình độ chuyên môn cao, biết duy trì và dẫn dắt câu chuyện
đến đích.

- Phỏng vấn sâu khác với phỏng vấn tự do ở chỗ ngoài những đề tài nói
chuyện chung, người ta còn đặt trước một số câu hỏi hoặc vấn đề nhất
định cần phải được trả lời.
25

×