Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

phân tích chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi cả nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.96 KB, 36 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
1. Quan niệm và bản chất của chênh lệch vùng 4
1.1 Khái niệm và phân loại 4
1.2. Bản chất và nguyên nhân 4
2. Hệ thống chỉ tiêu sử dụng để phân tích chênh lệch vùng 7
2.1 Nhóm chỉ tiêu về kinh tế- xã hội 7
2.2 Các công cụ đánh giá sự chênh lệch 7
3. Sự cần thiết của việc nghiên cứu vấn đề chênh lệch vùng 9
HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG Ở VIỆT NAM 11
1. Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn 11
1.1 Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi cả nước
11
1.1.1. Chênh lệch về GDP và GDP/ người 11
1.1.2. Chênh lệch về thu nhập và chi tiêu bình quân tháng 13
1.1.3. Chênh lệch về tỷ lệ thất nghiệp thành thị 15
1.1.4. Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ nghèo 16
1.2 Chênh lệch giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi 6 vùng 16
1.2.1 Chênh lệch về GDP/người 16
1.2.2. Chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn trong mỗi
vùng 18
2. Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn 19
2.1 Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn trên phạm vi
cả nước 19
2.1.1 Chênh lệch về GDP và GDP/người 19
2.1.2 Chênh lệch giữa các vùng về thu nhập và chi tiêu 22
2.1.3 Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ nghèo 23
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


2.1.4 Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ thất nghiệp thành thị và tỷ lệ
sử dụng thời gian lao động ở nông thôn 25
2.2 Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn trên phạm vi
sáu vùng 26
2.2.1 Chênh lệch giữa vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và khu vực
ngoài vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 26
2.2.2 Chênh lệch giữa vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ và khu vực
ngoài vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ 28
2.2.3 Chênh lệch giữa vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ và khu vực
ngoài vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 30
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 33
1. Định hướng và chính sách phát triển vùng 33
2. Phát triển bền vững các vùng và địa phương 34
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình vận động và phát triển của các vùng lãnh thổ, có những vùng
phát triển nhanh hơn và có những vùng phát triển mạnh hơn, nảy sinh một vấn đề
mang tính xã hội sâu sắc và gay cấn, đó là chênh lệch phát triển giữa các vùng, hay
gọi tắt là chênh lệch vùng. Chênh lệch vùng là hiện tượng khách quan và là một
trong nhiều vấn đề( trên phương diện tổ chức và quản lý kinh tế- xã hội lãnh thổ)
mà nhiều quốc gia trên thế giới luôn phải đối mặt và tốn nhiều công sức để khắc
phục mặt tiêu cực của chênh lệch vùng.
Cũng như nhiều quốc gia trong khu vực ASEAN và các nước khác, Việt Nam
cũng đang phải đối mặt với việc giải quyết chênh lệch vùng. Chênh lệch này thấy rõ
giữa các vùng phát triển và vùng chậm phát triển, giữa khu vực đô thị và khu vực
nông thôn, giữa các tỉnh và ngay trong nội bộ từng tỉnh. Chẳng hạn như khu vực đô
thị chỉ chiếm 25,8% dân số song lại đóng góp tới 53,6% GDP cả nước, ngược lại
khu vực nông thôn với 74,2% dân số, nhưng chỉ làm ra 46,4% GDP. Các vùng phát
triển của nước ta chỉ chiếm có 22,8% diện tích, 40% dân số song đóng góp tới

59,4% GDP cả nước. Chênh lệch thu nhập giữa khu vực thành thị và khu vực nông
thôn tới 9,6 lần, giữa vùng phát triển và vùng chậm phát triển( vùng khó khăn) tới
1,8-2 lần.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trưong chính
sách nhằm giảm thiểu sự chênh lệch giữa các vùng, nhất là giữa vùng phát triển và
vùng khó khăn, giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn nhằm phát triển nền kinh
tế theo hướng hài hòa, hợp lý và bền vững.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và kinh nghiệm giải quyết chênh lệch vùng
của một số quốc gia trên thế giới, phân tích đánh giá thực trạng chênh lệch vùng, từ
đó chúng tôi đề xuất các giải pháp nhằm từng bước giảm thiểu chênh lệch về kinh tế
giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, giữa vùng phát triển và vùng khó
khăn ở nước ta.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan niệm và bản chất của chênh lệch vùng.
1.1 Khái niệm và phân loại.
a. Quan niệm .
Chênh lệch vùng là sự chênh lệch về trình độ phát triển, mức sống dân cư,
giữa các vùng được so sánh với nhau tại một thời điểm nhất định. Sự chênh lệch
này được phản ánh cả về mặt lượng và chất của sự hơn kém. Đơn vị đo bằng lần
hoặc %.
b. Phân loại.
Xét về khía cạnh kinh tế có hai loại hình mất cân bằng( chênh lệch vùng):
- Sự chênh lệch về thu nhập và mức sống.
- Sự mất cân bằng về phân bố dân cư và phân bố các hoạt động kinh tế.
1.2. Bản chất và nguyên nhân.
a. Bản chất
Bản chất của chênh lệch vùng là chênh lệch về trình độ phát triển và chênh
lệch về mức sống. Sự chênh lệch này có thể diễn ra ngay trong nội bộ từng tỉnh,

chênh lệch giữa các tỉnh và giữa các vùng. Chênh lệch giữa các vùng xảy ra giữa
vùng phát triển và vùng chậm phát triển, giữa vùng duyên hải và vùng nội địa, giữa
đô thị và nông thôn…
Sự chênh lệch về trình độ phát triển được thể hiện qua chênh lệch về tốc độ
phát triển, trình độ công nghệ. Những vùng có mật độ dân cư đông đúc và trình độ
công nghiệp hóa càng cao thì quy mô hoạt động kinh tế của chúng càng lớn, và
ngược lại, những vùng có mật độ dân cư thưa thớt và trình độ công nghiệp hóa thấp
thì quy mô hoạt động kinh tế của chúng càng nhỏ.
Chênh lệch về trình độ phát triển được thể hiện thông qua cơ cấu kinh tế lãnh
thổ vùng. Cơ cấu kinh tế vùng phản ánh việc khai thác và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực sẵn có cũng như mức thu nhập của người dân vùng đó. Những vùng có
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dân cư thưa thớt và thu nhập thấp thường chỉ có các ngành sản xuất chủ yếu dựa
vào kahi thác tài nguyên thiên nhiên, với phát triển nông nghiệp là chủ yếu,sản xuất
theo kiểu tự cung tự cấp, sản phẩm hàng hóa không nhiều. Những vùng có thu nhập
cao, nguồn nhân lực dồi dàovới kỹ năng chuyên môn cao, có lợi thế về vị trí địa lý
và phát triển kết cấu hạ tầng( sân bay, cảng biển,đường giao thông) tương xứng với
nguồn tài nguyên,… thường mạnh về công nghiệp chế tác.
b. Nguyên nhân
Theo quan điểm hệ thống, vùng là một hệ thống, mà trong đó do có sự khác
biệt về các yếu tố phát triển sẽ không có sự phát triển đồng đều ở tất cả các lãnh thổ
trong cùng thời gian. Trong một vùng có thể xảy ra xu hướng phát triển kinh tế- xã
hội mạnh ở nơi này nhưng lại phát triển chậm hơn ở nơi kia, thậm chí có nơi lâm
vào tinh trạng kém phát triển hoặc trì trệ. Chính vì xu thế này đã đưa đến sự phát
triển không cân đối về mặt kinh tế- xã hội giữa các vùng hợac giữa các lãnh thổ
trong một vùng lớn, nghĩa là trình độ phát triển kinh tế- xã hội của các vùng đạt
được sẽ khác nhau. Vì thế, sự chênh lệch giữa các vùng tồn tại như môt tất yếu.
Chênh lệch vùng về mức sống được thể hiện qua chênh lệch về thu nhập, về
chi tiêu và mức thụ hưởng văn hóa, tinh thần và các chỉ tiêu xã hội khác.

Do điều kiện về tự nhiên, đất đai, khí hậu, nguồn nước và lịch sử phát triển
kinh tế mà sự phân vố dân cư trên các vùng khác nhau; khác nhau về mật độ dân số,
cơ cấu dân số, trình độ lao động, về đặc điểm văn hóa , phong tục tập quán sinh
họat và sản xuất, xã hội. Tỷ lệ lao động nam và nữ, cơ cấu lao động theo lứa tuổi
khác nhau cũng ảnh hưởng nhiều tới chi phí lao động. Thêm vào đó là những chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế. Tất cả những điều đó đều là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến sự chênh lệch năng suất lao động và mức sống giữa các vùng. Đối với
những vùng đồ thị hoặc đồng bằng có lịch sử phát triển kinh tế lâu đời, nơi tập trung
nhiều lao động có tay nghề cao là điều kiện để phân bố những ngành đòi hỏi lao
động có kỹ năng, kỹ xảo và ở đó tạo ranhững sản phẩm đóng góp nhiều cho quốc
gia và thu nhập cao hơn. Ngược lại, ở những vùng trung du miền núi là nơi khó
khăn, tập trung ít lực lượng lao động có kỹ thuật nên năng suất lao động, thu nhập,
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiệu quả kinh tế trong nhiều trừơng hợp thương thấp hơn so với các vùng phát triển
và đô thị.
Tóm lại có thể khái quát lại những nguyên nhân chính dẫn đến sự chênh lệch
phát triển vùng ở những nội dung sau:
- Thứ nhất, sự phân bố các nguồn lực tự nhiên và nguồn lực nhân đạo: những
tài nguyên thiên nhiên như dầu lửa, than đá, đất đai, nguồn nước,… là những nhân
tố thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. Sự phân bố các tài nguyên này không đồng
đều. Ở những khu vực được thiên nhiên ưu đãi thì kinh tế và đời sống của người
dân tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên, cần nhận thức một vấn đề là nguồn lực tài nguyên
sẽ cạn dần và không tái tạo được. Sự phân bố nguồn lực nhân tạo có vai trò hơn
trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế vùng.
- Thứ hai, những khó khăn trong việc điều chỉnh lao động: sự phát triển kinh
tế không thể tách rời nhân tố lao động. Có thể nói lao động là yếu tố quan trọng
nhất của quá trình hoạt động kinh tế. Muốn có sự phát triển đồng đều giữa các vùng
lãnh thổ thì phải có sự phân bố đồng đều lực lượng lao động. trong nền kinh tế thị
trường thị nền kinh tế lao động cũng được điều tiết theo cơ chế thị trường. Xét về

mặt lý thuyết, để lấy lại sự cân bằng về lao động, thu nhập sự phát triển kinh tế giữa
các vùng thì có thể điều chỉnh lực lượng lao động bằng cách di dân. Nhưng trong
thực tế, vấn đề di dân lại vấp phải các rào cản về: yếu tố khoảng cách, yếu tố tâm lý,
yếu tố quan hệ, các yếu tố khác. Xu hướng di dân có đặc điểm là pgụ thuộc vào lứa
tuổi. Mặc dù việc việc di cư và di chuyển lao động giúp cho việc lấy lại sự cân bằng
về phát triển nhưng thực ra nó lại rất dễ gây ra một sự mất cân bằng khác. Vì lực
lượng di cư chủ yếu ở lứa tuổi lao động sung sức, khỏe mạnh lại có trình độ học vấn
cao hơn nên có thể nói rằng di cư đã làm mất đi lực lượng nòng cốt của địa phương
này sang địa phương khác và như vậy lại tạo ra một sự mất cân bằng mới.
- Thứ ba, về vấn đề vốn đầu tư: sự mất cân băng giữa các khu vực đô thị với
khu vực nông thôn còn chịu ảnh hưởng mạnh của yếu tố vốn đầu tư. Muốn phát
triển kinh tế cho một vùng lãnh thổ thì không thể không thu hút và huy động vốn.
Các trung tâm tài chính thường đặt ở các khu vực đô thị. Với khoảng cách càng xa
thì chi phí cho việc sử dụng vốn càng lớn và tính an toàn cho vốn càng kém hơn.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây chính là những rào cản cho việc huy động và cung cấp vốn đầu tư cho phát
triển các vùng xa.
- Thứ tư, về thành tựu của sự đổi mới: những phát minh mới, kỹ thuật mới,
công nghệ mới luôn là đông lực quan trọng nhất của sự phát triển. Nhưng những
thành tựu mới này lại không xuất hiện và được đưa vào khai thác đồng đều giữa các
vùng lãnh thổ mà nó thường xuất hiện trước ở các điểm trung tâm rồi dần dần mới
lan truyền ra các vùng xung quanh theo dạng thẩm thấu. Do đó càng làm mất cân
bằng cho sự phát triển.
- Thứ năm, về quá trình phát triển lũy tích và mang tính chu kỳ: sự phát triển
kinh tế luôn diễn ra theo cơ chế số nhân và có tính chu kỳ.
- Thứ sáu, quan hệ giữa mất cân bằng với giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội.
Mức độ cân bằng ở các nước là khác nhau và phụ thuộc rõ nét vào giai đoạn phát
triển kinh tế- xã hội. Ở các nứơc kém phát triển, mức độ mất cân bằng chưa lớn, ở
các nước đang phát triển thi mức độ mất cân bằng rất cao, còn với các nước công

nghiệp thì mức độ mất cân bằng giảm đi và đạt đến xu hướng đồng đều.
2. Hệ thống chỉ tiêu sử dụng để phân tích chênh lệch vùng
2.1 Nhóm chỉ tiêu về kinh tế- xã hội
Nhóm chỉ tiêu về kinh tế:
- Chênh lệch về tốc độ tăng trưởng GDP.
- Chênh lệch về GDP/người.
- Chênh lệch về thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người.
Nhóm chỉ tiêu về xã hội:
- Chênh lệch về giáo dục, chăm sóc sức khỏe.
- Chênh lệch về cơ hội việc làm(thông qua chỉ tiêu về tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị và tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn).
2.2 Các công cụ đánh giá sự chênh lệch
a. Dùng bảng biểu và bản đồ
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Qua công tác thống kê sẽ nắm được các số liệu về thu nhập, việc làm, mức
sống…ở từng khu vực. Các số liệu này được trình bày trong các bảng biểu hoặc
chuyển tải vào các bản đồ và sẽ là công cụ tốt để phân tích mức độ mất cân bằng
giữa các vùng.
b. Sử dụng đường cong Lorenzt.
Đường cong Lorenzt được dùng phổ biến để đánh giá tình trạng mất cân bằng.
Ví dụ để đánh giá mức độ mất cân bằng trong thu nhập của một quốc gia người ta
vẽ đường cong lũy tích của thu nhập với dân số. Nếu không có sự mất cân bằng thì
đồ thị thu nhập lũy tích sẽ là đường thẳng chéo 45*. Tuy nhiên, đường đồ thị này
thường cong lõm xuống, và độ cong càng lớn thì chứng tỏ mức độ mất cân bằng
càng cao.
c. Sử dụng phương pháp chỉ số
- Chỉ số Gini:
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Việc sử dụng đường cong Lorenzt cho phép quan sát được độ mất cân bằng
chỉ số Gini bằng cách chia diện tích của vùng lõm so với đường chéo cho diện tích
tam giác. Ở nước nào chỉ số này càng lớn thì mức độ mất cân bằng càng cao.
- Chỉ số mức tập trung của ngành: chỉ số này đánh giá mức độ tập trung của
một loại hình hoạt động kinh tế nào đó tại một vùng hay khu vực.
Trong đó:
ICij: chỉ số mức tập trung của ngành j trong khu vực i.
Pij: số lao động của ngành j trong khu vực i.
Pi: tổng số lao động của ngành trong khu vực.
Pj: tổng số lao động của ngành j trong toàn quốc hoặc toàn vùng.
P: tổng số lao động của các ngành trong toàn quốc hoặc vùng.
- Chỉ số địa phương hóa( location quotient)
Trong đó:
Pij và Pj giải thích như trên.
Mi: dân số của khu vực i.
M: tổng số dân của cả nước hoặc vùng.
3. Sự cần thiết của việc nghiên cứu vấn đề chênh lệch vùng
Nhịp độ tăng trưởng GDP ở các vùng khó khăn có xu hướng thấp hơn mức
trung bình của cả nước, trong khi đó nhịp độ tăng trưởng dân số lạicao hơn mức
trung bình của cả nước. Do đó, GDP/ người của các vùng này trong thời gian qua và
chắc chắn trong thời gian tới sẽ tiếp tục có chiều hướng ngày càng dãn xa. Đây là
điều rất đáng báo động, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những chính sách điều
chỉnh thích hợp mới giảm bớt được phần nào sự chênh lệch giữa các vùng.
Chênh lệch vùng chứa đựng hai mặt của một vấn đề: mặt tiêu cực và mặt tích
cực.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về mặt tiêu cực: ta biết rằng vùng nghèo thường là vùng hẻo lánh xa xôi, có
khi giàu tiềm năng về tài nguyên nhưng lại kém phát triển về kinh tế, thu nhập của
dân cư thấp do không được đầu tư. Ngược lại, những vùng có vị trí địa lý thuận lợi

tuy tiềm năng tự nhiên không lớn nhưng giao thông thuận lợi và dân cư đông đúc lại
là vùng phát triển. Sự chênh lệch đó tạo ra các dong di chuyển tài nguyên và lao
động từ các vùng nghèo( vùng kém phát triển) ra các vùng giàu( vùng phát triển).
Sự di chuyển đó hình thành nên hai không gian: không gian tích cực( được tập trung
và có cả sức hút lẫn sức đẩy lớn) và không gian thụ động( không gian bị hút là chủ
yếu). Điều đó dẫn đến sực chênh lệch về kinh tế, đời sống xã hội giữa các cộng
đồng, tầng lớp dân cư giữa các vùng và có thể tạo ra sự xung đột gây hậu quả xã hội
khó có thể đo lường được.
Về mặt tích cực: xét theo khía cạnh khác, các quốc gia căn cứ vào thựuc trạng
chênh lệch vùng để tìm cách khắc phục cũng như kích thích phát triển kinh tế của
các chậm phát triển và từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn cho toàn bộ
lãnh thổ quốc gia. Các vùng phát triển kích thích quá trình đô thị hóa nhanh hơn và
lan tỏa kinh tế đến các vùng chậm phát triển. Đồng thời tạo cơ hội cho người dântự
điều tiết việc làm và thu nhập.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
HIỆN TRẠNG CHÊNH LỆCH VÙNG Ở VIỆT NAM
1. Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn.
1.1 Chênh lệch vùng giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi cả nước
Xét trên phạm vi cả nước, giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn có sự
chênh lệch đáng kể về GDP và GDP/ người, về thu nhập và chi tiêu cũng như một
số chỉ tiêu xã hội khác.
1.1.1. Chênh lệch về GDP và GDP/ người
Do có sự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng biểu hiện
qua các thông số về mức độ tập trung các sơ sở sản xuất, mức tăng trưởng kinh tế
cũng như về mức độ tập trung kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội giữa đô thị và nông
thôn. Ở đô thị, tập trung nhiều đầu mối giao thông, có sẵn các điều kiện phát triển
sản xuất, do đó các hoạt động kinh tế sôi động hơn, các hoạt động văn hóa- nghệ
thuật cũng ở trình độ cao hơn so với khu vực nông thôn , đặc biệt là nông thôn miền
núi, khó khăn, nơi có trình độ phát triển thấp hơn nên đãtạo ra những chênh lệch

nhất đinh về kinh tế.
Sự phát triển của khu vực nông thôn nói chung vẫn dựa vào cơ cấu sản xuất
truyền thống, chưa tạo được tiềm lực cho phát triển lâu dài. Cơ cấu ngành nghề ở
nông thôn mang nặng tính thuần nông nên không sử dụng hết lực lượng lao động
sẵn có. Hai vùng sản xuất nông sản hàng hóa lớn là Đồng bằng sông Cửu Long và
Tây Nguyên có xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao
động làm việc trong nông nghiệp: Đồng bằng sông Cửu Long từ 72,4% năm 1994
lên 78,8% năm 2003 và Tây Nguyên tương ứng từ 77% lên 91%. Khu vực dịch vụ
và nông thôn cả nứơc chưa tạo được chỗ làm để thu hút lao động dư thừa từ nông
nghiệp. Đó là sự bất cập lớn nhất, hạn chế tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lao động nông thôn nứơc ta hiên nay.
GDP
2005
= 21 tỉ USD, mức tăng = 8,4%/năm
Tỷ trọng nông thôn / GDP = 20,9% (2005)
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Năm
Tốc độ tăng
GDP
Tốc độ tăng
của NN
Tốc độ tăng
của CN
Tốc độ tăng
của DV
2004 7,7 3,5 10,3 7,5

Cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta hiện nay chuyển dịch chậm và không đều

ngay trong các vùng lớn và các địa phương.Trong khi vùng Đông Nam Bộ có cơ
cấu ngành nghề của các hộ nông thôn khá tiến bộ: 64% nông nghiệp và 36% phi
nông nghiệp, thì các vùng còn lại cơ cấu ngành nghề của các hộ vẫn mang tính
thuần nông và chuyển dịch rất chậm, nhất là miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Hai
tỷ lệ tương ứng của vùng Tây Bắc là 93% và 7%; vùng Đông Bắc là 88,4% và
11,6%; vùng Tây Nguyên là 91% và 91% và 9%; vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng
sông Cửu Long là 78,8% và 21,2%
Tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam đã tăng từ 20,7% năm 1995 lên 24,2% năm
2000 và 25,8% năm 2003. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đô thị ( theo GDP ) khoảng
8,2% giai đoạn 1996-2003, gấp khoảng 1,4 lần mức tăng trưởng của khu vực nông
thôn. Năm 2003, khu vực đô thị hóa với 25,8% dân số làm ra 77,2% GDP cả nước.
GDP bình quân đầu người đạt khoảng 22,4 triệu đồng, trong khi đó, khu vực nông
thôn tập trung tới 74,2% dân số, chỉ làm ra 22,8% GDP và GDP bình quân đầu
người mới đạt khoảng 2,3 triệu đồng, bằng 31% mức bình quân cả nước và bằng
khoảng hơn 10% mức bình quân của khu vực đô thị. Mức tăng trưởng kinh tế khu
vực nông thôn tính theo GDP giai đoạn 1996-2003 chỉ đạt khoảng 5,8%.
Như vậy, đến năm 2003, chênh lệch giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn
về dân số là 0,35 lần, chênh lệch về mật độ dân số là 3,2 lần. Từ năm1995 đến năm
2003, mức chênh lệch về GDP giữa hai khu vực này ngày càng dãn ra nhưng
GDP/người đã có sự thu hẹp. Năm 1995, mức chênh lệch về GDP (giá thực tế) là
2,7 lần, GDP/người là 10,32 lần thì đến năm 2003 hai chỉ tiêu trên là 3,39 lần và
9,74 lần. Mức chênh lệch trên cho thấy trong vòng gần 10 năm chỉ tăng thêm 0,25%
đối với GDP và về GDP/người đã giảm được 0,06%.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 2. Một số chỉ tiêu về dân số, GDP và GDP/người
của khu vực đô thị và nông thôn
Chỉ tiêu
Dân số
(1.000 người)

GDP
(tỷ đồng,
giá thực tế)
GDP/người
(triệu đồng, giá
thực tế)
1995 2003 1995 2003 1995 2003
Cả nước 71.995,
5
80.902,
4
232.394 605.59
6
3,23 7,5
1. khu vực đô thị 14.938,
1
20.869,5 169.529,
3
467.512 11,35 22,4
%so cả nước 20,7 25,8 71,4 77,2 351,4 298,7
2. khu vực nông thôn 57.057,4 60.032,
9
62.864,7 138.07
4
1,10 2,3
%so cả nước 79,3 74,2 28,6 22,8 34,06 30,67
3. chênh lệch giữa đô
thị và nông thôn
0,26 0,35 2,7 3,39 10,32 9,74
Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám Thống kê 1995, 2003, Nxb. Thống kê, Hà

Nội, 1996, 2004 và xử lý của các tác giả.
1.1.2. Chênh lệch về thu nhập và chi tiêu bình quân tháng
Hơn 10 năm qua, Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, nhờ
đó thu nhập của dân cư liên tục tăng song có sự khác biệt lớn giữa khu vực thành thị
và khu vực nông thôn, chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư của hai khu
vực này là 6,95% giai đoạn 1996-2000 và 7,5% giai đoạn 2001-2005.
Năm 2002, thu nhập bình quân đầu người một tháng tính chung cả nước theo
giá hiện hành đạt 356 nghìn đồng, tăng 20,6% so với năm 2000. Thu nhập bình
quân đầu người một tháng ở khu vực thành thị đạt 622 nghìn đồng, tăng 18,4%; ở
khu vực nông thôn đạt 275 nghìn đồng, tăng 22,3% so với năm 1999. Thu nhập
bình quân đầu người một tháng năm 1996, 1999 và 2002 ở khu vực thành thị gấp
khu vực nông thôn 2,71 lần, 2,30 lần và 2,26 lần. Như vậy, thu thập của hộ gia đình
thành thị vẫn cao hơn nhiều ở nông thôn.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng3: Thu nhập bình quân đầu người một tháng
phân theo thành thị, nông thôn
Năm 1996 Năm
1999
Năm 2002
Cả nước 226,7 295,0 365,2
1. Thành thị 509,4 516,7 622,0
2. Nông thôn 187,9 225,0 275,1
Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn (lần) 2,71 2,30 2,26
1. Thu nhập cao nhất 519,58 741,6 877,1
2. Thu nhập thấp nhất 74,33 97,0 107,7
Chênh lệch giữa hai nhóm thu nhập 6,99 7,65 8,14
Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2004.
Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, nếu chia các hộ điều tra thành 10 nhóm
thu nhập, mỗi nhóm 10% số hộ theo độ dốc đi lên của thu nhập bình quân đầu

người, thì thu nhập giữa nhóm có thu nhập cao nhất và có thu nhập thấp nhất có
khoảng cách lớn và tăng theo các năm. Năm 2000, thu nhập bình quân của nhóm hộ
giàu nhất ( nhóm 10 ) lớn gấp 12 lần nhóm hộ nghèo nhất ( nhóm 1 ). Năm 2002, tỷ
lệ này tăng lên 13,75 lần.
Tính chung trên cả nước, chênh lệch giữa nhóm thu nhập cao nhất với nhóm
thu nhập thấp nhất ngày càng dãn ra, năm 996 là 6,33 lần đến năm 2002 là 8,1 lần;
ở khu vực thành thị là 7,7 và 8 lần; ở khu vực nông thôn là 5,8 và 6 lần. Theo chỉ
tiêu này cho thấy khu vực thành thị có mức tăng trưởng kinh tế cao hơn khu vực
nông thôn và cũng là nơi có sự chênh lệch về thu nhập lớn hơn ở nông thôn.
Về chỉ tiêu này, cũng theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, tính chung
cả nước mức chi tiêu cho đời sống năm 2002 bình quân đầu người một tháng ( theo
giá hiện hành ) đạt 269 nghìn đồng, tăng 21,7% so với năm 2000, bình quân mỗi
năm tăng 8,6%, cao hơn giai đoạn 1996-2000 (6,6%). Chi tiêu cho đời sống bình
quân đầu người một tháng ở khu vực nông thôn đạt 211 nghìn đồng, khu vực thành
thị đạt 461 nghìn đồng ( gấp 2,2 lần khu vực nông thôn ).
Đáng lưu ý là chi tiêu cho giáo dục, đào tạo: bình quân giai đoạn 2000-2003
chi cho một người đi học một năm hết 627 nghìn đồng, tăng 14,6% so với giai đoạn
1997-1998. Tuy nhiên, mức chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục có khác nhau giữa
khu vực thành thị và khu vực nông thôn, giữa các vùng và các nhóm thu nhập.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ở khu vực thành thị chi tiêu cho giáo dục bình quân một người đi học một
năm là 1,255 triệu đồng, gấp ba lần so với khu vực nông thôn. Chi tiêu cho giáo dục
bình quân một người đi học trong năm của nhóm hộ nghèo nhất chỉ có 236 nghìn
đồng, trong khi nhóm hộ giàu nhất là 1,418 triệu đồng, gấp 6 lần.
Trong chi tiêu, tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống tuy có giảm nhưng còn ở mức
cao. Chi tiêu cho ăn uống giảm từ 66% năm 1993 xuống còn 63% năm 2000 và
57% năm 2002. Trong thành phần chi tiêu cũng thể hiện sự chênh lệch giữa khu vực
thành thị và khu vực nông thôn, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo.
Năm 2002, về cơ cấu chi tiêu, chi tiêu cho ăn uống ở khu vực thành thị là

52%, ở khu vực nông thôn là 61%; của nhóm hộ giàu nhất là 50%, nhóm hộ nghèo
nhất là 70%. Nhóm các hộ giàu nhất có mức chi không phải ăn uống lớn gấp 7,5 lần
so với nhóm hộ nghèo nhất, trong đó chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 10,4 lần;
chi tiết và đồ dùng gia đình gấp 7,6 lần; chi y tế sức khỏe gấp 4 lần; chi đi lại và
bưu điện gấp 15,8 lần; chi giáo dục gấp 6 lần; chi văn hóa, thể thao, giải trí gấp 95,4
lần.
1.1.3. Chênh lệch về tỷ lệ thất nghiệp thành thị
Thiếu việc làm bao gồm tất cả những người có việc làm nhưng muốn làm
thêm, sẵn sàng làm thêm và có khả năng làm thêm. Đến năm 2003, số lao động
thiếu việc làm ở khu vực thành cả nước là 0,429 triệu người, chiếm 4,29% tỷ lệ lao
động khu vực thành thị cả nước.
Năm 1996 cả nước có 662 nghìn người thất nghiệp với tỷ lệ thất nghiệp chung
là 1,97%; năm 2003 là 940 nghìn người với tỷ lệ là 2,297%; trong khi đó ở thành thị
là 5,6%, nông thôn 1,2% ( chênh lệch giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn
là 4,67 lần ).
Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2003 so với năm 2000 giảm 0,07%,
song số người thất nghiệp tăng thêm 177 nghìn người.
Với các điều kiện tự nhiên về kinh tế - xã hội khác nhau, chính sách đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội mỗi vùng khác nhau cũng dẫn đến sự chênh lệch khác
nhau giữa các vùng về tỷ lệ thất nghiệp thành thị. Các vùng có tốc độ tăng trưởng
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh tế trên 10% có tỷ lệ thất nghiệp cao như Đồng bằng sông Hồng: 6,77% Đông
Nam Bộ: 6,08%; trong khi đó vùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng từ 7-9%
thì tỷ lệ thất nghiệp lại thấp hơn như Tây Nguyên: 4,4%, Tây Bắc: 5,19% và Đồng
bằng Sông Cửu Long: 5,26%.
Tỷ lệ nghèo chung theo chuẩn của Ngân hàng Thế giới tính theo số liệu chi
tiêu cả nước và các vùng năm 2001-2002 đều giảm. Năm 2002 tỷ lệ nghèo cả nước
là 28,9%, giảm so với mức 37,4% của năm 1997-1998. Theo nguồn quốc gia, năm
2003 tỷ lệ nghèo là 10,3%.

1.1.4. Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ nghèo
Theo kết quả điều tra mức sống của Tổng cục Thống kê năm 2003, chênh lệch
về tỷ lệ nghèo kể cả theo mức nghèo về lương thực – thực phẩm và nghèo chung
giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn khá lớn: ở khu vực nông thôn chênh
lệch về nghèo lương thực thực phẩm cao gấp ba lần so với khu vực thành thị và 5,4
lần về tỷ lệ nghèo chung.
Bảng4: Tỷ lệ hộ nghèo các nghèo
Tỷ lệ lương thực-
thực phẩm
Tỷ lệ nghèo chung
1999 2002 1997-98 2001-02
Toàn quốc 13,3 9,96 37,37 28,9
1. Thành thị 4,61 3,61 9,04 6,60
2. Nông thôn 15,96 11,99 44,85 35,7
Chênh lệch giữa thành thị và
nông thôn (lần)
0,29 0,3 0,2 0,18
Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám Thống kê 2003, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2004; và
tính toán của các chuyên gia.
1.2 Chênh lệch giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi 6 vùng
1.2.1 Chênh lệch về GDP/người
Trên phạm vi 6 vùng, do mỗi vùng có những đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã
hội, xuất phát điểm và vị trí, chức năng của từng vùng trong cơ cấu lãnh thổ quốc
gia khác nhau mà sự chênh lệch giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn có những
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mức độ khác nhau; những vùng có kinh tế tăng trưởng nhanh, tỷ lệ đô thị hóa cao,
tốc độ đô thị hóa nhanh thì ở đó sự chênh lệch về GDP/người giữa khu vực đô thị
và nông thôn cao hơn; những vùng có kinh tế tăng trưởng thấp hơn, tỷ lệ đô thị hóa
thấp hơn và tốc độ đô thị hóa chậm hơn, chênh lệch giữa khu vực đô thị và nông

thôn ít hơn. Những số liệu sau đây chứng minh cho điều đó.
- Vùng có tỷ lệ đô thị hóa cao thì chênh lệch về GDP/người cũng cao.
Qua so sánh giữa các tỉnh, thành phố có tỷ lệ đô thị hóa cao và tỉnh có tỷ lệ đô
thị hóa thấp trong mỗi vùng thấy rằng giữa tỉnh/thành phố có tỷ lệ đô thị hóa cao và
tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa thấp thì có sự chêch lệch lớn giữa các tỉnh đó với nhau. Sự
chêch lệch về GDP/người giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn ngay trong
một tỉnh cũng lớn.
Bảng5: Một số chỉ tiêu về chênh lệch
giữa khu vực đô thị - khu vực nông thôn phân theo vùng
Các vùng
Tăng
trưởng
kinh tế
2001-2005
(%)
Tỷ lệ
đô thị
hóa
năm 2003
(%)
Tốc độ
Đô thị
hóa
2001-2005
(%)
Chênh lệch
GDP/người giữa
khu vực đô thị và
nông thôn năm
2003 (%)

Cả nước 7,5 25,8 3,7 9,74
1. Trung du và miền núi phía Bắc 9,0 13,3 2,5 14,53
2. Đồng bằng sông Hồng 10,92 21,8 3,8 12,28
3. Duyên hải miền Trung 9,2 20,7 3,1 10,10
4. Tây Nguyên 7,26 27,3 3,5 3,64
5. Đông Nam Bộ 10,75 50,2 3,5 4,66
6. Đồng bằng sông Cửu Long 9,21 19,8 5,1 9,62
Nguồn: - Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kê 2003, Nxb. Thống kê,Hà Nội, 2004
- Sở Kế hoạch và đầu tư các tỉnh: Báo cáo thực hiện 2005 và kế hoạch 2006
- Xử lý và tính toán của chuyên gia
- Vùng có tỷ lệ đô thị hóa thấp thì chênh lệch về GDP/người cũng thấp
Năm 2003, vùng Trung du miền núi phía Bắc có tỷ lệ đô thị hóa là 14,6%; Bắc
Cạn có tỷ lệ đô thị hóa là 15,7%, GDP/người là 2,5 triệu đồng; Lạnh Sơn có tỷ lệ đô
thị hóa là 19,2%, GDP/người là 4,2 triệu đồng. Mức chệnh lệch giữa Bắc Cạn và
Lạng Sơn về tỷ lệ đô thị hóa là 1,3 lần; GDP/người là 1,68 lần.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tây Nguyên có tỷ lệ đô thị hóa là 27,3% và GDP/người là 3,6 triệu đồng. Kon
Tum có tỷ lệ đô thị hóa là 31,4% và GDP/người là 3,4 triệu đồng. Lâm Đồng có tỷ
lệ đô thị hóa là 39,7% và GDP/người là 3,8 triệu đồng. Mức chênh lệch giữa Lâm
Đồng và Kon Tum về tỷ lệ đô thị hóa là 1,45 lần và GDP/người là 1,11 lần.
1.2.2. Chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn trong mỗi vùng
Mức chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm thu
nhập cao nhất và thu nhập thấp nhất ngày càng dãn ra. Đối với cả nước, năm 1996
mức chênh lệch là 6,99 lần, đến năm 1999 là 7,4 lần và năm 2002 đã tăng lên 8,1
lần.
Đối với từng vung như sau: năm 1996, vùng Đồng bằng sông Hồng mức
chênh lệch giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất là 6,13
lần; vùng Trung du miền Núi Bắc Bộ là 5,68 lần; vùng Bắc Trung Bộ là 5,73 lần;
vùng duyên hải Nam Trung Bộ là 5,47 lần; vùng Tây Nguyên là 12,71 lần, vùng

Đông Nam Bộ là 7,57 lần và vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 6,36 lần.
Năm 1999, vùng Đồng bằng sông Hồng là 7,0 lần; vùng Trung du miền búi
Bắc Bộ là 6,78 lần; vùng Bắc Trung Bộ là 6,95 lần; vùng Duyên hải Nam Trung Bộ
là 6,31 lần; vùng Tây Nguyên là 12,9 lần; vùng Đông Nam Bộ là 10,32 lần và Đồng
bằng sông Cửu Long là 7,86 lần.
Năm 2002, vùng Đồng bằng sông Hồng là 6,9 lần; vùng Trung du miền núi
Bắc Bộ là 5,68 lần; vùng Bắc Trung Bộ và vùng duyên hải Nam Trung Bộ là 5,8
lần; vùng Tây Nguyên là 6,4 lần; vùng Đông Nam Bộ là 9,0 lần và vùng Đồng bằng
sông Cửu Long là 6,6 lần. Trong giai đoạn 1999-2002, mức chênh lệch về thu nhập
bình quân đầu người một tháng của các vùng đều giảm, nhưng giảm mạnh nhất là
vùng Tây Nguyên từ 12,9 lần xuống 6,4 lần và giảm ít nhất là vùng Đông bằng sông
Hồng từ 7,0 lần xuống 6,9 lần.
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn
2.1 Chênh lệch giữa vùng phát triển và vùng khó khăn trên phạm vi cả
nước
2.1.1 Chênh lệch về GDP và GDP/người
Trong thời gian vừa qua, các vùng phát triển và vùng khó khăn đều có sự tăng
trưởng, nhưng tốc độ tăng của các vùng khác nhau. Giai đoạn 1996-2003, tốc độ
phát triển kinh tế của vùng phát triển bằng 1,37 lần mức trung bình của cả nước và
gấp 1,6 lần mức tăng trưởng của vùng khó khăn. Vùng khó khăn có tốc độ tăng
trưởng đã thấp hơn mức trung bình của cả nước song do tốc độ tăng dân số của các
vùng này lại cao hơn mức trung bình của cả nước nên các chỉ tiêu về phát triển và
GDP/người của vùng khó khăn ngày càng dãn xa so với vùng phát triển.
- Cơ cấu kinh tế của các vùng có sự khác biệt rõ rệt
Đối với các vùng phát triển, tỷ lệ khối công nghiệp và dịch vụ trong GDP luôn
cao hơn mức trung bình của cả nước. Tỷ lệ của khối công nghiệp và dịch vụ đạt tới
80% GDP toàn vùng và bằng 1,06 lần của cả nước. Ngược lai, vùng khó khăn có tỷ
lệ khối công nghiệp và dịch vụ trong GDP thấp, chỉ chiếm 12% GDP của vùng và

hệ số so với cả nước chỉ bằng 0.16 lần.
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng6: chênh lệch về cơ cấu kinh tế giữa vùng khó khăn,
năm 2003 (tổng GDP = 100%)
Tổng công nghiệp và
dịch vụ
Riêng công nghiệp Riêng dịch vụ
Tỷ trọng
so với
GDP (%)
So với cả
nước (%)
Tỷ trọng
so với
GDP (%)
So với cả
nước (%)
Tỷ trọng
so với
GDP (%)
So với cả
nước
(lần)
Cả nước 75,4 1 39,2 1 36,2 1
1. Vùng phát triển 80 1,06 42 1,07 38 1,05
2. Vùng khó khăn 12 0,16 4 0,1 8 0,22
Chênh lệch giữa
phát triển và vùng
khó khăn (lần)

6,67 10,5 4,75
Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2003, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2004
Đối với các vùng khó khăn, chậm phát triển, quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chưa rõ nét. Hoạt động kinh tế của các vùng này thời gian qua chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp. Song trình độ phát triển vẫn còn thấp kém, chưa tạo ra sản phẩm
hàng hoá lớn. Hiệu quả sử dụng đất chưa cao. Thu nhập trên 1 hécta gieo trồng còn
thấp xa so với mức trung bình của cả nước. Kết cấu hạ tầng nghèo, không đồng bộ
và kém phát triển.
- Tăng trưởng kinh tế và chênh lệch vùng.
Trình độ phát triển của các vùng được thể hiện bằng hai chỉ tiêu tổng hợp là
GDP bình quân đầu người và chỉ số phát triển con người (HDI).
Chênh lệch giữa các vùng về GDP bình quân đầu người khá lớn (vùng cao
nhất là Nam Bộ cao gấp 6,6 lần, vùng thấp nhất là Tây Bắc). Tuy nhiên, chênh lệch
giữa các vùng về chỉ số HDI thấp hơn (chư yếu là do tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ đi học và
tuổi thọ của dân số ở các vùng tương đối đồng đều nhau).
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng7: Chênh lệch và thứ hạng các vùng
về trình độ phát triển kinh tế - xã hội
Vùng
GDP bình
quân đầu
Chỉ số
HDI
Xếp hạng các vùng kinh tế
Thu nhập
bình
quân/người
GDP bình
quân/người

Về HDI
Cả nước 6.269 0,696 = - -
Đồng bằng sông
hồng
6.140 0,723 3 2 2
Đông Bắc 3.053 0,641 5 6 6
Tây Bắc 2.520 0,564 8 8 8
Bắc Trung Bộ 3.418 0,662 7 5 5
Duyên hải Nam
Trung Bộ
4.5530 0,676 4 4 4
Tây Nguyên 2.818 0,604 6 7 7
Đông Nam Bộ 16.596 0,751 1 1 1
Đồng bằng sông Cửu
Long
5.228 0,669 2 3 4
Số liệu thống kê ở bảng trên cũng cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ, rõ ràng
giữa mức thu nhập bình quân đầu người, GDP bình quân đầu người và chỉ số HDI ở
các vùng. Nhóm các vùng có GDP bình quân đầu người và chỉ số HDI cao thì thu
nhập bình quân đầu người cao và ngược lại. Nếu so các vùng với cả nước thì chỉ có
vùng Đông Nam Bộ có cả 3 chỉ tiêu trên cao hơn. sau đó là vùng Đồng bằng sông
Hồng và các vùng còn lại đều thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Trong số các vùng thì chỉ có vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ có
tỷ lệ huy động ngân sách cao hơn mức trung bình toàn quốc, còn tất cả các vùng
khác đều thấp hơn, thậm chí chỉ bằng 1/4 như Tây Bắc và 1/3 như Đồng bằng sông
Cửu Long.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng8: Chênh lệch giữa các vùng so với mức trung bình của cả nước về tăng
trưởng GDP, GDP/người, % vốn đầu tư và % tổng thu ngân sách so với GDP

Các vùng
Tốc độ
tăng GDP
GDP/người
% tổng
vốn đầu
tư trên
GDP
% vốn
đầu tư
trong
nước trên
GDP
% thu
ngân sách
trên GDP
Toàn quốc 1,00 1,00 1,00 1,00 1,00
Đồng bằng sông Hồng 0,88 0,99 1,33 1,12 1,3
Đông Bắc 0,88 0,75 0,73 0,89 0,62
Tây Bắc 0,88 0,55 0,88 1,26 0,26
Bắc Trung Bộ 0,62 0,66 0,96 0,96 0,46
Duyên hải Nam Trung
Bộ
0,88 0,86 0,91 1,02 0,69
Tây Nguyên 1,50 0,40 1,28 1,83 0,40
Đông Nam Bộ 1,25 1,75 1,11 1,0 1.65
Đồng bằng sông Cửu
Long
0,62 1,04 0,61 0,79 0,37
Nguồn: UBDP - Viện Khoa học x ã hội Việt Nam: Báo cáo phát triển con người Việt Nam

năm 2002.
GDP/người của cả nước năm 2003 đạt mức 7,5 triệu đồng/người. Ở vùng phát
triển, GDP/người là 11,1 triệu đồng, bằng 1,52 lần trung bình cả nước và bằng 1,6
lần vùng khó khăn.Chỉ số này thấy rõ ở những vùng lớn là những vùng phát triển
như Đông Nam Bộ đạt tới 17,8 triệu đồng, bằng 2,7 lần mức trung bình của cả
nước. Đặc biệt, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đạt 20.3 triệu đồng/người, bằng 3
lần mức trung bình của cả nước; các con số tương ứng đối với vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ là 9,4 triệu đồng/người và 1,4 lần. Ngược lại, ở các vùng đang còn
nhiều khó khăn, GDP/người chỉ khoảng 4-5 triệu đồng, bằng 0,53 lần mức trung
bình của cả nước.
2.1.2 Chênh lệch giữa các vùng về thu nhập và chi tiêu
Giữa vùng phát triển và vùng khó khăn có sự chênh lệch về mức sống dân cư.
Mức chênh lệch giữa các nhóm có thu nhập cao nhất và thấp nhất diễn ra
không có sự khác biệt quá lớn: vùng Đồng bằng sông Hồng 6,73 lần; Đông Bắc
6,01 lần; Tây Bắc 5,86 lần; Bắc Trung Bộ 5,82 lần; Duyên hải Nam Trung Bộ 5,83
lần; Tây Nguyên 6,75 lần; Đông Nam Bộ 8,73 lần và Đồng bằng sông Cửu Long
7,14 lần.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng ở 7 khu vực (Đồng bằng ssong Hồng,
Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và
Đồng bằng sông Cửu Long) đều tăng so với năm 1999, trừ Tây Nguyên giảm 30,4%
do giá cà phê và 1 số hàng nông sản giảm mạnh, đồng thời do bị ảnh hưởng lớn về
hạn hán, lũ lụt. Số liệu thống kê từ năm 1994 đến năm 2002 cho thấy vùng có thu
nhập bình quân đầu người cao nhát là Đông Nam Bộ, gấp 2,5 lần so với vùng có thu
nhập bình quân đầu người thấp nhất là Tây Bắc.
Chi tiêu bình quân đầu người 1 năm cho giáo dục cao nhất ở miền Đông Nam
Bộ (1,139 triệu đồng) và thấp nhất là vùng Tây Bắc (278 nghìn đồng).
Trong xu thế chung là thu nhập của dân cư tất cả các vùng đều tăng, đã hình
thành khá rõ những nhóm vùng với các mức thu nhập khác nhau. Có thể phân các

vùng thanh 3 nhóm chính về thu nhập của dân cư sau:
- Vùng có mức thu nhập cao hơn so với mức trung bìn của cả nước là Đông
Nam Bộ.
- Vùng có mức thu nhập tương đương mức trung bình của cả nước là vùng
Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.
- Vùng có mức thu nhập thấ hơn mức trung bình của cả nước là Đông Bắc,
Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Có sự chênh lệch đáng kể giữa GDP bình quân đầu người và thu nhập bình
quân đầu người trong moõi vùng. Theo đó, ở các vùng có GDP bình quân đầu người
và thu nhập bình quân đầu người thấp thì thu nhập lớn hơn GDP bình quân đầu
người và ngược lại.
2.1.3 Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ nghèo
Theo kết quả điều tra mức sống của Tổng cục Thống kê năm 2004, chênh lệch
về tỷ lệ nghèo kể cả theo mức nghèo về lương thực - thực phẩm và nghèo chung
giữa các vùng còn khá lớn: vùng có tỷ lệ nghèo cao nhất (TâyBắc) so với vùng có tỷ
lệ nghèo thấp nhất (Đông Nam Bộ) cao gấp 12,1 lần về nghèo lương thực - thực
phẩm và 10,85 lần về tỷ lệ nghèo chung.
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tỷ lệ nghèo cao ở các vùng Miền núi trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên, Trung Bộ
là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng truởng kinh tế của các vùng
khác. Đó là do, nhóm người lao động nghèo có trình độ học vấn, chuyên môn -
nghiệp vụ thấp hơn, tài sản ít hơn, năng suất lao động thấp hơn (thể hiện bằng mức
chi tiêu thấp hơn).
Bảng9: Tỷ lệ nghèo các vùng
Đơn vị: %
Tỷ lệ nghèo lương thực
- thực phẩm
Tỷ lệ nghèo chung
2002 2004 2002 2004

Toàn quốc 9,9 6,9 28,9 19,5
Đồng bằng sông Hồng 6,5 4,6 22,4 12,1
Đông Bắc 14,1 9,4 38,4 29,4
Tây Bắc 28,1 21,8 68,0 58,6
Bắc Trung Bộ 17,3 12,2 43,9 31,9
Duyên hải Nam Trung Bộ 10,7 12,3 51,8 33,1
Tây Nguyên 17,0 12,3 51,8 33,1
Đông Nam Bộ 3,2 1,8 10,6 5,4
Đồng bằng sông Cửu Long 7,6 5,2 23,4 19,5
Nguồn: Tổng cục Thống kê 2004, NXB. Thống k ê, Hà Nội, 2004
- Chênh lệch về tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm tương đối nhanh, song tốc độ
giảm không đều giữa các vùng. Cho đến nay, vẫn còn chênh lệch khá lớn giữa các
vùng về tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
- Chênh lệch về tỷ lệ số hộ được dùng điện
Mức chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ số hộ được dùng điên là khá lớn và còn
lớn hơn nếu tính theo lượng điện tiêu thụ bình quân đầu người. So với mức trung
bình toàn quốc, mức tiêu thụ điện bình quân đầu người của Đông Nam Bộ lớn hơn
2,24 lần, của vùng Đồng bằng sông Hồng lớn hơn 1,25 lần, trong khi đó của vùng
Tây Bắc (nơi có Nhà máy thuỷ điện lớn nhất nứoc) chỉ bằng 0,24 lần, của Tây
Nguyên là 0,4 lần và Đồng bằng sông Cửu Long à 0,5 lần. Từ đó cho thấy trình độ
phát triển kinh tế - xã hội và mức sống thực tế của nhân dan còn chên lệch lớn về
chất lượng cuộc sống.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng10: Tỷ lệ hộ được dùng điện và chênh lệch về lượng điện tiêu thụ bình
quân đầu người giữa các vùng năm 2001
% xã có điện
% thôn có
điện

% hộ dùng
diện
Tiêu thụ
điện/người
so với cả
nước
Toàn quốc 86,2 77,3 79,3 1,00
Đồng bằng sông Hồng 70,2 64,7 72,1 0,74
Đông Bắc 53,1 42,5 50,5 0,24
Tây Bắc 99,8 99,8 98,9 1,35
Bắc Trung Bộ 89,0 87,1 87,7 0,57
Duyên hải Nam Trung Bộ 85,4 81,3 85,7 0,76
Tây Nguyên 76,2 58,4 51,8 0,40
Đông Nam Bộ 97,5 87,4 73,7 2,24
Đồng bằng sông Cửu Long 98,7 82,1 64,1 0,50
Nguồn: như trên.
2.1.4 Chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ thất nghiệp thành thị và tỷ lệ sử
dụng thời gian lao động ở nông thôn
Trong giai đoạn 2004-2006, tốc độ giảm tỷ lệ thất nghiệp rất khác nhau giữa
các vùng. NHững vùng có mức giảm tỷ lệ thất nghiệp nhanh nhát là Tây Nguyên,
Tây Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long (giảm từ 0,5% đến 2,15%).
Bảng11: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực đô thị
Đơn vị: %
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cả nước 6,44 6,28 6,01 5,78 5,60 5,31 4,82
Đồng bằng sông Hồng 7,34 7,07 6,64 6,37 6,03 5,61 6,42
Trung du miền núi phía Bắc 6,35 6,10 5,80
Đông Bắc 6,49 6,73 6,10 5,94 5,45 5,12 4,32
Tây Bắc 6,02 5,62 5,11 5,19 5,30 4,91 3,89
Duyên hải Trung Bộ 5,94 5,98 5,34

Bắc Trung Bộ 6,87 6,72 5,82 5,45 5,35 4,98 5,50
Duyên hải Nam Trung Bộ 6,31 6,16 5,49 5,46 5,70 5,52 5,36
Tây Nguyên 5,16 5,55 4,92 4,39 4,53 4,23 2,38
Đông Nam Bộ 6,20 5,92 6,31 6,08 5,92 5,62 5,47
Đồng bằng sông Cửu Long 6,15 6,08 5,52 5,26 5,03 4,87 4,52
Bảng12: Tỷ lệ thời gian lao động sử dụng ở nông thôn
Đơn vị: %
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cả nước 73,86 74,37 75,54 77,66 79,10 80,65 81,79
Đồng bằng sông Hồng 74,98 75,56 76,17 78,27 80,21 78,75 80,65
25

×