Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

xu hướng sống độc thân ở tp. hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.93 KB, 16 trang )

I – Thực trạng sống độc thân của giới trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
1 – Giới thiệu chung về quận Bình Thạnh và đặc điểm mẫu nghiên cứu.
1.1 Giới thiệu chung về quận Bình Thạnh.
Diện tích : 2076 ha
Dân số : 464397 người
Dân tộc : 21 dân tộc, đa số là người Kinh
Quận Bình Thạnh nằm về phía Đông Bắc thành phố Hồ Chí Minh, ở vị trí cửa ngõ
thành phố, là vùng đất có một vị trí chiến lược quan trọng.
Phía Đông Bắc giáp với quận 2 và Thủ Đức; ở phía Nam, Bình Thạnh và quận 1
cách nhau bởi con rạch Thị Nghè; về phía Tây - Tây Bắc giáp với quận Gò Vấp và
Phú Nhuận.
Quận Bình Thạnh có sông Sài Gòn bao quanh mạn Đông Bắc.
Cùng với sông Sài Gòn các kinh rạch: Thị Nghè, Cầu Bông, Văn Thánh, Thanh Đa,
Hố Tàu, Thủ Tắc đã tạo thành một hệ thống đường thủy đáp ứng lưu thông cho
xuồng, ghe nhỏ đi sâu vào các khu vực trên khắp địa bàn Bình Thạnh, thông
thương với các địa phương khác.
Kinh Thanh Đa được khởi đào vào năm 1897 đã biến bán đảo Thanh Đa- Bình
Quới trở thành “vùng sâu” có 3 mặt giáp với sông. Chính địa thế này đã tạo nhiều
thuận lợi cho phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Bình Hòa-Thạnh Mỹ
Tây trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hiện nay,
bán đảo Thanh Đa - Bình Quới xinh đẹp với khí hậu tươi mát là một khu du lịch
nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh.
Quận Bình Thạnh được xem là một nút giao thông quan trọng của thành phố Hồ
Chí Minh bởi vì Bình Thạnh là điểm đầu mối gặp gỡ các quốc lộ: Quốc lộ 1, Quốc
lộ 13; là cửa ngõ đón con tàu thống nhất Bắc Nam qua cầu Bình Lợi vào ga Hòa
Hưng và lại có Bến xe khách Miền Đông.
Kinh tế
1
Từ thuở khai hoang lập ấp cho đến khi nhà Nguyễn trực tiếp cai quản, nông nghiệp
lúa nước là ngành kinh tế chủ yếu của cư dân Bình Hoà - Thạnh Mỹ Tây, bên cạnh
chăn nuôi và đánh cá.


Dưới thời Pháp thuộc, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo. Nhưng do ở vị trí
địa lý thuận lợi có nhiều đường giao thông thủy bộ quan trọng lại ở trung tâm tỉnh
lỵ . Gia Định, thủ công nghiệp, thương nghiệp lại có điều kiện phát triển và mở
rộng, đã xuất hiện một số cơ sở công nghiệp nhỏ.
Trong thập niên 60, kinh tế Bình Hoà - Thạnh Mỹ Tây chưa có sự thay đổi .Nhưng
vào thập niên 70, các nhà tư bản trong và ngoài nước đã có đầu tư, nhất là lĩnh vực
công nghiệp. Vì thế, trong 5 năm trước giải phóng , sản xuất công nghiệp tăng lên
đáng kể. Nông nghiệp tụt hậu do đất đai bị thu hẹp để xây dựng nhà cửa và thương
nghiệp phát triển tăng vọt nhằm phục vụ cho một số lượng đông dân cư do quá
trình đô thị hoá và quân sự hoá cưỡng chế.
Sau năm 1975 , trong quá trình khôi phục, cải tạo và xây dựng kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa , cơ cấu kinh tế Bình Thạnh có sự chuyển dịch . Kinh tế
nông nghiệp đã lùi về vị trí thứ yếu và hiện nay chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp - dịch vụ - du lịch trở thành ngành
kinh tế chủ yếu, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nhanh chóng, làm thay đổi diện mạo
kinh tế - văn hóa xã hội của quận huyện trong hiện tại và tương lai.
Văn hóa —xã hội
Bình Thạnh là một trong những khu vực có người cư trú khá cổ xưa của thành phố,
nơi qui tụ của nhiều lớp cư dân qua các thời kỳ lịch sử hình thành Thành phố Hồ
Chí Minh ngày nay. Ở Bình Thạnh, cho đến nay, hầu như có mặt nhiều người từ
Bắc, Trung, Nam đến sinh sống lập nghiệp .Chính vì vậy mà các hoạt động văn hóa
vừa phong phú vừa đa dạng. Những lớp dân cư xưa của Bình Thạnh đã đến đây
khai phá, sinh nhai, trong hành trang của mình, văn hóa như một nhu cầu quan
trọng để sống và tồn tại. Mặt khác, trong buổi đầu chinh phục vùng đất Bình Thạnh
2
hơm nay, những người Bình Thạnh xưa đã phải chống chọi với bao nổi gian nguy,
khắc nghiệt của thiên nhiên, sinh hoạt văn hóa đã trở nên chỗ dựa cần thiết. Bên
cạnh nền văn hóa vốn có, những lớp dân cư xưa ấy đã có thêm những nét văn hóa
mới nảy sinh trong cơng cuộc khai phá, chinh phục thiên nhiên và rồi để truyền lại
cho con cháu hơm nay như một truyền thống văn hóa.

1.2 Đặc điểm mẫu nghiên cứu.
Tổng thể của mẫu là 152 người. Trong đó:
• Về giới tính: nam là 91 người chiếm 59,9%, nữ là 61 người chiếm 40,1%.
Bảng 1.1 giới tính
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid nam 91 59.9 59.9 59.9
nữ 61 40.1 40.1 100.0
Total 152 100.0 100.0
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
• Về độ tuổi: độ tuổi từ 25 đến 29 có 125 người chiếm 82,2%, độ tuổi từ 30
đến 34 có 27 người chiếm 17,8%.
Bảng 1.2 nhóm tuổi
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Valid từ 25-29 125 82.2 82.2 82.2
từ 30-34 27 17.8 17.8 100.0
Total 152 100.0 100.0
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
• Về thành phần tơn giáo: phật giáo có 41 người trong tổng số 152 người
chiếm 27%, Thiên Chúa giáo có 22 người chiếm 14,5%, tin lành có 3 người
chiếm 2%, Hồ Hảo có 2 người chiếm 1,3%, còn lại là thành phần khơng
3
theo tơn giáo nào và theo tơn giáo khác có 84 người, chiếm 55,3%. Theo
như trên có thể kết luận rằng: số người khơng theo tơn giáo nào và tơn giáo
khác chiếm đa số (55,3%), trong 4 loại tơn giáo như trên, số người theo Phật
giáo có tỷ lệ người theo lớn hơn (27%), các tơn giáo còn lại có số người
theo ít hơn nên chiếm tỷ lệ ít hơn.
Bảng 1.3 tôn giáo
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent

Valid công giáo 22 14.5 14.5 14.5
tin lành 3 2.0 2.0 16.4
phật giáo 41 27.0 27.0 43.4
hòa hảo 2 1.3 1.3 44.7
khác 84 55.3 55.3 100.0
Total 152 100.0 100.0
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
• Về trình độ học vấn: số người được hỏi có trình độ học vấn cấp I chỉ có 3
người chiếm 2%, trình độ học vấn cấp II có 6 người chiếm 3,9%. Còn lại là
trình độ học vấn cấp III có 143 người, chiếm 94,1%. Như vậy, mặt bằng
chung về trình độ học vấn của những người được hỏi tương đối cao (trình
độ học vấn cấp III chiếm đa số: 94,1%).
Bảng 1.4 trình độ học vấn
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid cấp 1 3 2.0 2.0 2.0
cấp 2 6 3.9 3.9 5.9
cấp 3 143 94.1 94.1 100.0
Total 152 100.0 100.0
4
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
• Về trình độ chuyên môn:
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
Biểu đồ thể hiện trình độ học vấn của mẫu nghiên cứu
Căn cứ vào biểu đồ như trên chúng ta có thể kết luận:
Số người có trình độ cao đẳng (phần màu tím) chiếm tỷ lệ lớn nhất (42,8%),
sau đó là màu xanh da trời chiếm 22,37% , đây là tỷ lệ số người có trình độ đại
học. Sau đó, số người được đào tạo trung cấp thể hiện bằng phần có màu xanh
lá chiếm tỷ lệ 13,2%. Trong 152 người được hỏi, số người có trình độ chưa qua

đào tạo về chuyên môn là ít nhất (chiếm 5,3%), sau đó là trình độ chuyên môn
được đào tạo sau bậc đại học chiếm 6,6% trong tổng thể. Như vậy có thể kết
luận rằng: về trình độ học vấn, những người được hỏi không những có trình độ
học vấn tương đối cao mà trình độ chuyên môn cũng tương đối cao (trong đó
trình độ cao đẳng và đại học chiếm đa số).
• Cuối cùng là nghề nghiệp của tổng thể những người được hỏi:
Về nghề nghiệp, chúng tôi chia nghề nghiệp của 152 người được hỏi ra
thành 5 nhóm nghề, bao gồm:
• Nhóm nhân viên văn phòng, bao gồm các nghề thuộc khối văn
phòng như: nhân viên kinh doanh, kế toán, nhân viên hành chính
nhân sự, thư ký… và có 46 người, chiếm 30,3% trong tổng thể thuộc
nhóm nghề này.
• Nhóm kỹ thuật thuộc khối kỹ thuật, bao gồm các nghề như: công
nghệ thông tin, kỹ sư, giám sát công trình…, trong tổng thể mẫu
nghiên cứu nhóm nghề này có 35 người chiếm 23%.
• Nhóm giáo dục là các ngành nghề thuộc khối giáo dục, bao gồm các
nghề như: giáo viên, giảng viên, trợ lý khoa, giáo vụ khoa… và trong
5
tổng thể mẫu nghiên cứu, nhóm nghề này có 11 người đang làm việc,
chiếm 7.2%.
• Nhóm y tế, bao gồm các ngành nghề như: dược sỹ (Trung y , Tây y),
bác sỹ, thú y… và trong tổng thể, nhóm nghề này có13 người chiếm
8.6%.
• Nhóm nghề khác bao gồm các nghề như: bán hàng, bảo vệ, nhà hàng,
thợ cắt tóc… trong tổng thể, nhóm nghề này có 47 người và chiếm
30,9% tổng số người được hỏi.
Bảng 1.5 Bảng tỷ lệ nghề nghiệp
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
2. Thực trạng sống độc thân tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Trước khi nói về thực trạng sống độc thân, hãy thử nhìn lại xã hội của nước ta khi

còn là nền kinh tế nông nghiệp là chính. Khi đó, câu thành ngữ: “trai lớn lên lấy
vợ, gái lớn lên lấy chồng” là một lẽ tất yếu trong xã hội nước ta mà mọi người có
nghĩa vụ là phải làm theo, nam nữ lấy nhau khi đã đủ tuổi kết hôn (nam 20 và nữ
18) hoặc thậm chí là nhỏ hơn tuổi luật định (lấy chồng từ thuở mười ba đến năm
mười tám thiếp đà năm con). Một trong những vai trò chính của việc kết hôn đó là
duy trì nòi giống, tạo ra lực lượng sản xuất cho gia đình. Vì vậy, việc nam nữ lập
6
gia đình khi đã đến tuổi hoặc chưa đến tuổi kết hơn được xem như là một quy luật
của xã hội, mọi người đều có ý thức chấp hành đúng những quy luật đó. Mặt khác,
nếu nam hoặc nữ đã đến tuổi nhưng chưa lập gia đình là điều rất hiếm khi xảy ra,
và nếu có thì xã hội cũng khơng dễ dàng chấp nhận những cá nhân này, người ta
gán ghép cho những người đến tuổi mà khơng lập gia đình bằng những cái tên như:
ế, giá… đây được xem là một điều đáng xấu hổ cho bản thân và gia đình. Vì vậy,
cứ đến tuổi là nam và nữ lại lập gia đình như cha, mẹ, anh, chị của họ.
Tuy nhiên, quay lại với thời điểm hiện tại, có một thực tế đang diễn ra – đó là tình
trạng hơn nhân của những người được hỏi. Chúng ta cùng nhìn vào bảng tình trạng
hơn nhân bên dưới để thấy rõ hơn về thực trạng này.
Bảng 1.6 Tình trạng hôn nhân của anh/chò
Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid đang có gia đình 24 15.8 16.3 16.3
chưa có gia đình 118 77.6 80.3 96.6
ly hôn 2 1.3 1.4 98.0
Góa 3 2.0 2.0 100.0
Total 147 96.7 100.0
Missing System 5 3.3
Total 152 100.0

(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
Theo như bảng trên ta có thể kết luận: Trong 152 người được hỏi, có 5 người
khơng trả lời, còn lại 147 người. Trong 147 người còn lại, có 118 người chưa có
vợ/ chồng (chưa lập gia đình), chiếm 77,6%. Số người đang có vợ/ chồng chiếm
15.8%. Thành phần còn lại, ly hơn chiếm 1,3% và gố chiếm 2%. Thực trạng cho
thấy, có 77,6% người được hỏi chưa lập gia đình, đây cũng là một con số đáng kể.
Tuy nhiên, như thế cũng chưa đủ kết luận về tình trạng hơn nhân của giới trẻ hiện
nay, chúng ta cùng nhìn vào bảng tiếp theo để biết được 118 người đó - họ là ai và
đang ở độ tuổi nào.
7
Bảng 1.7.1 Tình trạng hôn nhân của anh/chò * nhóm tuổi Crosstabulation

nhóm tuổi
Totaltừ 25-29 từ 30-34
tình
trạng
hôn
nhân
của
anh/chò
đang có gia
đình
Count 17 7 24
% within nhóm tuổi 14.0% 28.0% 16.4%
chưa có gia đình Count 102 15 117
% within nhóm tuổi 84.3% 60.0% 80.1%
ly hôn Count 0 2 2
% within nhóm tuổi .0% 8.0% 1.4%
Góa Count 2 1 3
% within nhóm tuổi 1.7% 4.0% 2.1%

Total Count 121 25 146
% within nhóm tuổi 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.6.2:
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig.
(2-sided)
Pearson Chi-Square 14.215(a) 3 .003
Continuity Correction
Likelihood Ratio 11.282 3 .010
Linear-by-Linear
Association
.013 1 .909
N of Valid Cases 146
8
a 5 cells (62.5%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .34.
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
Đây là kết quả kiểm định Chi – Square cho 2 biến định tính là tình trạng hôn nhân
với độ tuổi. Trong kiểm định này, chúng tôi chấp nhận độ sai số là 0.005 tức là độ
tin cậy của số liệu là 95%. Gía trị missing (nhỡ, không trả lời) ở đây là 5 người
chiếm 3,3%. Dựa vào kết quả Sig. (ở bảng 1.7.2) = 0.003 nhỏ hơn 0.005 .Như vậy,
chúng ta có thể bác bỏ Hₒ (Hₒ là không có mối liên hệ giữa tình trạng hôn nhân và
nhóm tuổi) để khẳng định H¹ chứng tỏ là có mối liên hệ giữa tình trạng hôn nhân
và nhóm tuổi. Cụ thể như sau: l
Nhìn vào bảng 1.7.1, xét theo dòng colum (cột dọc) thì nhóm tuổi từ 25 đến 29 có
tình trạng hôn nhân là đang có vợ chồng chiếm 14%, trong khi đó, những người
chưa có vợ chồng chiếm đến 84,3%, goá là 1,7% và không có trường hợp ly hôn.
Tóm lại, trong độ tuổi từ 25 đến 29 tỷ lệ chưa lập gia đình là khá cao (84,3%). Còn
với nhóm tuổi từ 30 đến 34, tỷ lệ những người đang có vợ chồng là 7 trong tổng số
25 người được hỏi, tỷ lệ này chiếm 28%, tỷ lệ người chưa có vợ/ chồng là 60%,

còn lại ly hôn là 8% và goá là 4%. Tóm lại, nhóm tuổi từ 30 đến 39 có tỷ lệ chưa
lập gia đình khá cao (60%), tỷ lệ đang có gia đình cũng không phải là thấp (28%).
Như vậy, có thể kết luận rằng: độ tuổi từ 25 đến 34 tuổi, đây là nhóm tuổi đang
tham gia tích cực nhất vào quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội,
đóng góp tích cực nhất vào nền kinh tế quốc dân, đồng thời, họ cũng có tình trạng
hôn nhân là chưa lập gia đình khá cao. Trước đây những người trong độ tuổi này
(25 đến 34) đa phần đã có một gia đình ổn định với đầy đủ vợ/ chồng và con cái,
ruộng vườn ổn định và tích cực lao động sản xuất để lo cho gia đình, con cái của
họ. Giờ đây, sau nhiều thế hệ, những thanh niên nam nữ trong độ tuổi như trên, đa
phần vẫn chưa lập gia đình. Mặc khác, không có sự khác biệt giữa độ tuổi và tình
trạng hôn nhân, điều đó có nghĩa là, nhìn vào hàng ngang thứ 2 (chưa có
vợ/chồng), ở 2 độ tuổi đều có tỷ lệ này tương đối lớn. Từ đó có thể kết luận rằng,
9
dù là bao nhiêu tuổi đi nữa thì tỷ lệ chưa lập gia đình vẫn cao hơn cả những người
đã có gia đình, điều đó có thể nói, ở bất cứ tuổi nào trong khoảng 25 đến 34 tuổi,
giới trẻ vẫn khơng quan trọng về tình trạng hơn nhân của mình, tức là đã lập gia
đình hay chưa. Với thực trạng hiện tại giới trẻ chưa có vợ/chồng, từ đây có hai giả
thuyết được đặt ra, một là giới trẻ ngày nay họ sẽ tạm thời khơng kết hơn trong thời
điểm hiện tại, và sẽ kết hơn trong tương lai, ít nhất là năm năm nữa. Hai là họ sẽ
khơng kết hơn trong vòng năm năm nữa hoặc hơn, tức là họ sẽ sống độc thân.
Để làm rõ điều này, chúng ta sẽ đến với kết quả nghiên cứu tiếp theo được thể hiện
trong bảng sau:
Bảng 1.8 dự đònh lập gia đình trong năm năm tới
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid có 74 49.0 58.3 58.3
không 22 14.6 17.3 75.6
không biết 31 20.5 24.4 100.0
Total 127 84.1 100.0

Missing System 24 15.9
Total 151 100.0
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
Đây là kết quả xử lý mơ tả biến dự định lập gia đình trong năm năm tới của 152
người được hỏi, tuy nhiên chỉ có 127 người trả lời và kết quả như sau:
Số người trả lời trong vòng năm năm tới sẽ lập gia đình là 74 người chiếm 49%,
khơng lập gia đình có 22 người chiếm 14,6% và khơng biết là 31 người chiếm
20,5%, khơng biết cũng sẽ có hai giả thuyết hoặc là có lập gia đình, hai là khơng
lập gia đình trong cùng khoảng thời gian như trên. Với tỷ lệ người sẽ khơng lập gia
đình trong năm năm tới hoặc lâu hơn nữa (tức là họ sẽ có nguy cơ sống độc thân)
là 14,6% đây là con số khơng phải là lớn, nhưng thử đặt lại vấn đề, 100% người
được hỏi có 14,6% số người cho rằng họ sẽ khơng kết hơn (hay họ sẽ sống độc
10
thân), thử ví dụ, cũng tỷ lệ này nhưng khơng phải là 127 người mà rộng hơn là
1000 người hoặc 10.000 người hoặc nhiều hơn nữa, rõ ràng đây lại là một con số
buộc chúng ta phải đáng quan tâm. Trong kết quả kiểm định Chi – Square tiếp
theo, chúng ta sẽ xem xét mối tương quan giữa hai biến định tính, dự định lập gia
đình và giới tính, để xem xét có sự khác biệt về dự dịnh này ở nam và nữ hay
khơng?
Bảng 1.9.1 dự đònh lập gia đình trong năm năm tới * giới tính Crosstabulation

giới tính
Totalnam nữ
dự đònh
lập gia
đình trong
năm năm
tới
có Count 41 33 74
% within giới

tính
51.9% 68.8% 58.3%
không Count 20 2 22
% within giới
tính
25.3% 4.2% 17.3%
không biết Count 18 13 31
% within giới
tính
22.8% 27.1% 24.4%
Total Count 79 48 127
% within giới
tính
100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.9.2 Chi-Square Tests
Value df Asymp. Sig. (2-sided)
Pearson Chi-Square 9.391(a) 2 .009
Continuity Correction
Likelihood Ratio 11.127 2 .004
Linear-by-Linear
Association
.655 1 .418
N of Valid Cases 127
11
a 0 cells (.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 8.31.
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
Đây là kết quả kết quả kiểm định Chi – square giữa hai biến dự định lập gia đình
trong vòng năm năm và giới tính, vẫn chấp nhận độ sai số là 0.05 tức là độ tin cậy
của số liệu là 95%. Nhìn vào bảng số 2, kết quả Sig. là 0.009 lớn hơn 0.005 chúng
ta có thể chấp nhận Hₒ, tức là không có sự khác biệt giữa nam và nữ trong dự định

sẽ kết hôn trong năm năm tới. Thật vậy, nhìn vào bảng số 1.9.1, cả nam và nữ đều
cho rằng sẽ lập gia đình trong vòng năm năm tới, và với dự định là không thì đứng
hàng thứ hai về tỷ lệ người chọn ở cả nam và nữ. Tuy nhiên, ở cột thứ 2 này chúng
ta có thể thấy, tỷ lệ nam chọn phương án “không” nhiều hơn nữ, chứng tỏ một điều
rằng nam có nguy cơ sống độc thân cao hơn nữ.
Quay lại phép so sánh với điều kiện kinh tế xã hội cách đây nhiều năm về trước,
khi đất nước ta còn là nền kinh tế nông nghiệp là chính. Khi đó, người con trai
đóng vai trò rất quan trọng và được xem như là một trụ cột trong gia đình. Nhiệm
vụ của người con trai rất quan trọng, tục ngữ ngày xưa có câu: “tậu trâu, cưới vợ,
làm nhà; trong ba việc đó thật là khó thay”, đây là trách nhiệm của người đàn ông
được xã hội lúc bấy giờ quy định. Đọc câu tục ngữ chúng ta thấy rất rõ, nhiệm vụ
“tậu trâu” và “làm nhà”, đối với xã hội nông nghiệp”con trâu đi trước cái cày đi
sau”, con trâu là một con vật rất quan trọng trong nền nông nghiệp lúa nước, tậu
trâu, tức là mua trâu để làm nền tảng xây dựng cơ nghiệp, vấn đề nhà cửa cũng là
một việc quan trọng ở mọi thời đại, ông bà ta có câu: “an cư lạc nghiệp”, phải có
một chổ ở ổn định thì mới có thể xây dựng gia đình và cơ nghiệp ổn định, phát
triển. Khi nói đến gia đình thì phải nói đến người vợ - người phụ nữ, ông bà ta lại
có câu: “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” nhấn mạnh đến vai trò của người nam
giới và phụ nữ trong gia đình, người nam giới lo những việc to lớn trong gia đình
và các mối quan hệ ngoài xã hội, còn nữ giới lo các việc nhỏ trong gia đình, chăm
sóc con cái… thế nên, người nam giới khi đến tuổi (trên dưới 20 tuổi) là phải cưới
12
vợ, vì vậy việc cưới vợ cũng được xếp ngang hàng với những việc hệ trọng là tậu
trâu và làm nhà, cưới vợ để xây dựng sự nghiệp, để đến khi họ khoảng 25 tuổi trở
đi, đa phần họ đều đã có vợ, con đầy đủ và một cơ nghiệp tương đối vững vàng.
Đây chính là những trách nhiệm, vai trò và nghĩa vụ của người đàn ơng nhằm ổn
định cuộc sống, phát triển cơ nghiệp, thực hiện tốt những chức năng của họ đối với
gia đình và xã hội đương thời. đáp lại sự mong đợi mà xã hội đã gán ghép cho họ.
Tuy nhiên, quay trở lại với kết quả xử lý trong bảng 1.9.1, đây là kết quả dựa trên
những câu trả lời của thanh niên nam nữ khi họ đã ở tuổi từ 25 trở đi nhưng khơng

phải là những năm trước mà là ở thời điểm hiện tại – năm 2011, khi đất nước
chúng ta đã gia nhập vào tổ chức WTO (tổ chức kinh tế Thế Giới) được 5 năm, đất
nước ta hiện tại đã chuyển sang cơng nghiệp hố và hiện đại hố, có đến 25,3%
nam cho biết họ sẽ khơng lấy vợ ít nhất là trong năm năm tới và 4,2% nữ cho biết
họ sẽ khơng lấy chồng trong thời điểm tương tự. Rõ ràng, ở đây có sự khác biệt về
độ tuổi lập gia đình, khác biệt trong suy nghĩ, quan điểm, thái độ của giới trẻ trong
việc lập gia đình và ổn định cơ nghiệp, và một phần nữa đó là quan niệm về các hệ
giá trị mà xã hội theo đuổi đã có sự khác biệt qua thời gian. Hay nói cách khác
hơn, chính những điều kinh tế xã hội khác nhau đã ảnh hưởng đến suy nghĩ, quan
điểm và hành vi của con người. Chúng ta sẽ tìm hiểu phần này rõ hơn trong
chương hai – những yếu tố tác động đến xu hướng sống độc thân của giới trẻ.
Tiếp theo, khi được hỏi: “anh chị có biết về xu hướng sống độc thân của giới trẻ
hiện nay khơng?” có đến 84,1% người được hỏi trả lời là có biết và chỉ 12,6% trả
lời là khơng biết.
Bảng 1.10 anh/chò có biết về xu hướng sống độc thân của giới trẻ hiện nay
Frequency Percent
Valid
Percent
Cumulative
Percent
Valid có 127 84.1 87.0 87.0
13
không 19 12.6 13.0 100.0
Total 146 96.7 100.0
Missing System 5 3.3
Total 151 100.0
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
Có sự khác biệt giữa việc biết đến xu hướng sống độc thân và nghề nghiệp, bảng
1.11 thể hiện rõ điều này.
Bảng 1.11.1 anh/chò có biết về xu hướng sống độc thân của giới trẻ hiện nay *

nghề nghiệp Crosstabulation

nghề nghiệp Total
nhân
viên
văn
phòng
kỹ
thuật
giáo
dục y tế
nghề
khác
anh/chò
có biết
về xu
hướng
sống độc
thân của
giới trẻ
hiện nay
có Count 39 27 11 9 41 127
% within
nghề
nghiệp
88.6% 79.4% 100.0% 75.0% 91.1% 87.0%
không Count 5 7 0 3 4 19
% within
nghề
nghiệp

11.4% 20.6% .0% 25.0% 8.9% 13.0%
Total Count 44 34 11 12 45 146
% within
nghề
nghiệp
100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Bảng 1.11.2 Chi-Square Tests
14
Value df Asymp. Sig. (2-sided)
Pearson Chi-Square 5.674(a) 4 .225
Continuity Correction
Likelihood Ratio 6.677 4 .154
Linear-by-Linear
Association
.254 1 .615
N of Valid Cases 146
a 3 cells (30.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count
is 1.43.
(nguồn:số liệu nghiên cứu của đề tài)
Dựa vào giá trị Sig. = 0.225, tuy không có sự khác biệt giữa các nhóm nghề về việc
có biết về xu hướng này hay không, tuy nhiên nhìn vào bảng 1.11.1 chúng ta có thể
thấy, với nhóm nghề giáo dục là nhóm nghề có nhiều người biết về xu hướng sống
độc thân nhất, sau đó là nhóm nghề khác và kế tiếp là nhóm nhân viên văn phòng,
và sau nữa là nhóm kỹ thuật.
Trên đây là những kết quả trả lời khi người được hỏi trả lời về chính bản thân họ,
nhưng khi chúng tôi hỏi về sự đánh giá của họ về xu hướng sống độc thân của giới
trẻ ngày nay thì kết quả như sau:
Bảng 1.13 Thực trạng về xu hướng sống độc thân của giới trẻ hiện nay tại
TP.HCM.


( nguồn: số liệu nghiên cứu của đề tài).
Có đến 39,5 % người được hỏi trả lời là xu hướng sống độc thân hiện nay rất phổ
biến, số người cho rằng xu hướng này bình thường chiếm tỷ lệ 35,7% và không
phổ biến chỉ chiếm 11,6%. Như vậy, đa phần những người được hỏi theo quan sát
và sự hiểu biết của họ, họ cho rằng xu hướng này hiện nay rất phổ biến trong giới
15
trẻ. “ xu hướng này ngày càng tăng, đó là xu hướng tất yếu của xã hội đang ngày
càng phát triển. chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố, tâm lý con người cũng thay đổi.
trước kia thì cha ông mình chỉ có việc làm ruộng rồi xây dựng gia đình hầu như
mục đích của mọi người là như vậy. Bây giờ xã hội phát triển, kinh tế, văn hóa,
chính trị mở cửa làm cho mục đích của con người nhiều hơn, rõ ràng hơn, lớn lao
hơn. Khi mà vấn đề đó bị chi phối nhiều giá trị nên thời gian giành cho tình cảm
của con người của cá nhân cũng bớt nên theo mình xu hướng này là tất yếu và
ngày càng tăng”.( mẫu 1, nam, 26 tuổi, giáo viên).
Tóm lại, xu hướng sống độc thân của giới trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
rất phổ biến, độ tuổi kết hôn của giới trẻ hiên nay cao hơn những năm trước đây rất
nhiều. Theo kết quả điều tra quốc gia lần đầu tiên về gia đình của Tổng cục Thống
kê, Ủy ban Dân số – gia đình và trẻ em, Viện Gia đình và giới, Unicef công bố
sáng ngày 27 tháng 06 năm 2010 trên báo Tuổi trẻ: so với năm 1975, tuổi kết hôn
trung bình giai đoạn 2000 – 2006, đã tăng 2,9 tuổi lên gần 26 tuổi ở nam, và tăng
2,2 tuổi lên gần 23 tuổi ở nữ. Và chỉ tính riêng cho quận Bình Thạnh, số người
trong độ tuổi từ 25 đến 29 chưa lập gia đình là rất cao (77,6%), trong đó đang có
gia đình chỉ có 15,8% (số liệu từ bảng 1.6). Như vậy, từ những số liệu trên đủ để
kết luận rằng tuổi kết hôn của giới trẻ hiện nay ngày càng tăng, những người dự
định không lập gia đình trong vòng năm năm tới chiếm 14,6%. Điều này cho thấy
có một bộ phận giới trẻ đang do dự trước việc lập gia đình của chính họ, mà điều
này rất hiếm xảy ra trong xã hội truyền thống. Vậy những nguyên nhân nào thực sự
tác động đến khác biệt này.
II. Những yếu tố tác động đến xu hướng sống độc thân của giới trẻ.
16

×