Câu 05-KHQL: Phân tích cơ sở
khoa học hình thành cơ cấu tổ chức
quản lý. Trình bày nội dung các loại
hình cơ cấu tổ chức. Liên hệ thực tiễn
cơ cấu tổ chức bộ máy ở đơn vị đồng
chí.
BÀI LÀM
Từ khi xuất hiện nền sản xuất xã
hội, nhu cầu liên kết con người, phối
hợp các hoạt động riêng lẽ càng tăng lên
và quản lý theo quan điểm của C.Mác
như người chỉ huy dàn nhạc :”Tất cả
mọi lao động xh trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương
đối lớn thì ít nhiều cũng cần tới sự lãnh
đạo” Và như vậy, quản lý đã trở thành
một hoạt động phổ biến mọi nơi, mọi
lúc, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên
quan đến mọi người. Đó là hoạt động
xh bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa
trên sự phân công và cộng tác lao động
sản xuất. Và chính sự phân công lao
động XH là tiền đề khách quan của sự
hình thành và phát triển cơ cấu tổ chức
quản lý.
Cơ cấu tổ chức quản lý là 1 chỉnh
thể gồm các bộ phận có chức năng,
quyền hạn, trách nhiệm khác nhau, có
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được
bố trí thành từng cấp, từng khâu, thực
hiện các chức năng quản lý nhằm đạt
mục tiêu đã xác định.
Mỗi cơ cấu tổ chức quản lý có 2
MQH cơ bản :
Theo QH ngang, cơ cấu tổ chức
quản lý chia thành các khâu quản lý
khác nhau. Giữa các khâu là QH hợp
tác trong sự phân công lao động quản
lý.
Theo QH dọc, cơ cấu tổ chức quản
lý được phân chia thành các cấp quản
lý. Cấp quản lý là 1 thểä thống nhất các
khâu quản lý ở cùng 1 bậc trong hệ thống
cấp bậc quản lý: như cấp TW, cấp địa
phương, cấp cơ sở…
Cấp quản lý chỉ rõ MQH phục tùng
bởi quyền uy của cấp trên và bởi tính chất
nhiệm vụ to lớn, bao quát của cấp cao.
Với những nội dung nêu trên thì để
xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức
quản lý phải đảm bảo những yêu cầu :
Tính tối ưu, tính linh hoạt, đảm bảo độ tin
cậy trong hoạt động và đảm bảo tính kinh
tế trong quản lý.
Trong thực tiễn quản lý, trên thế giới
đã xuất hiện nhiều kiểu cơ cấu tổ chức
quản lý khác nhau. Trong đó có 1 số mô
hình tiêu biểu sau:
1.Cơ cấu tổ chức kiểu trực tuyến
Mô hình này ra đời vào khoảng TK 10,
đây là mô hình cổ xưa nhất. Nó tồn tại từ
thế kỷ thứ 10 cho đến nay, mô hình này
đặc biệt phù hợp với sản xuất nhỏ, sản
phẩm đơn giản.
Mô hình cơ cấu tổ chức kiểu trực
tuyến là mô hình tổ chức quản lý, trong đó
mỗi người cấp dưới chỉ nhận sự điều hành
và chịu trách nhiệm trước 1 người lảnh
đạo trực tiếp cấp trên.
Đặc điểm của loại hình cơ cấu này là
MQH giữa các nhân viên trong tổ chức bộ
máy được thực hiện theo trực tuyến, tức là
quy định QH dọc trực tiếp từ người lảnh
đạo cao nhất đến người thấp nhất; người
thừa hành chỉ nhận mệnh lệnh từ 1 người
phụ trách trực tiếp.
-Ưu điểm : mô hình này tạo ĐK thuận
lợi cho việc thực hiện chế độ 1 thủ trưởng,
đề cao vai trò thủ trưởng, bảo đảm nguyên
tắc 1 thủ trưởng. Do quản lý trực tuyến
nên thông tin chỉ đạo trực tiếp, nhanh
chóng, chính xác, tạo ra sự thống tập trung
cao độ, chế độ trách nhiệm rõ ràng.
-Nhược điểm : Mô hình này chỉ áp dụng
cho tổ chức có quy mô nhỏ. Yêu cầu người
lảnh đạo phải có kiến thức toàn diện,
chuyên môn sâu nhiều lĩnh vực để chỉ đạo
tất cả các bộ phận quản lý chuyên môn.
Hạn chế việc sử dụng các chuyên gia có
trình độ nghiệp vụ cao về từng mặt quản lý.
Và đặc biệt khi cần hợp tác, phối hợp công
việc giữa 2 đơn vị, hoặc 2 cá nhân ngang
quyền thuộc các tuyến khác nhau thì phải
đi theo đường vòng qua các kênh đã định.
2.Cơ cấu tổ chức quản lý theo chức
năng: ( sơ đồ SGK trang 90 )
Khi nền kinh tế thế giới phát triển, đòi
hỏi có mô hình cơ cấu tổ chức quản lý phù
hợp hơn nên cơ cấu tổ chức quản lý kiểu
chức năng ra đời vào đầu TK 20
-Cơ cấu tổ chức quản lý theo chức năng
là loại hình cơ cấu tổ chức quản lý trong đó
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới thông
qua các bộ phận chức năng.
-Ưu điểm : Phù hợp với quy mô lớn,
thu hút được lao động có chuyên môn giỏi
do vậy người lảnh đạo được sự giúp sức
của các chuyên gia giỏi chuyên môn nên
giải quyết các vấn đề chuyên môn tốt hơn,
quyết định chính xác hơn nên không đòi
hỏi có kiến thức toàn diện chuyên sâu
nhiều lĩnh vực mà chỉ cần có năng lực giỏi.
-Nhược điểm : Cấp dưới phải phục tùng
nhiều đầu mối chỉ đạo khác nhau của 1 cơ
quan quản lý cấp trên nên sẽ gây khó khăn
cho việc thi hành, các quyết định chồng
chéo nhau nếu các bộ phận không hợp tác
nhau, vi phạm chế độ 1 thủ trưởng. Trong
thực tế cơ cấu này ít được sử dụng, hầu như
nó chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết.
3.Các cơ cấu tổ chức quản lý kết hợp:
Loại cơ cấu kết hợp được dùng phổ biến là:
a.Cơ cấu trực tuyến- tham mưu: sơ đồ
SGK 91
-Dựa trên nguyên tắc quản lý trực
tuyến, nhưng bên cạnh người lảnh đạo các
cấp có bộ phận tham mưu (phòng, ban tổ
hoặc cá nhân) để giúp người lảnh đạo ra
quyết định.
-Trong cơ cấu trực tuyến- tham mưu,
người lảnh đạo ra quyết định và chịu trách
nhiệm đối với việc thực hiện quyết định
của người thừa hành trực tiếp của mình.
Bộ phận tham mưu có nhiệm vụ chuẩn bị
các dự án, các quyết định, đảm bảo luận
cứ và chất lượng của quyết định quản lý
và theo dõi việc thực hiện. Bộ phận tham
mưu không có quyền ra quyết định.
-Ưu điểm : Đảm bảo nguyên tắc 1 thủ
trưởng và đề cao vai trò lảnh đạo của thủ
trưởng. Đồng thời vẫn sử dụng được các
chuyên gia có trình độ chuyên môn cao về
tổ chức; có chế độ trách nhiệm rõ ràng
đồng thời bảo đảm sự thống nhất trong
toàn tổ chức (mang tính tập trung cao,
chính xác).
-Nhược điểm : Do bộ phận tham mưu
phân tán nên không phát huy sức mạnh
tổng hợp của nhóm chuyên gia. Trong
trường hợp do mâu thuẩn, bất đồng về
quan điểm hoặc lợi ích trong mối quan hệ
giữa những người lảnh đạo các tuyến và
những người tham mưu có thể trở nên
căng thẳng đến mức gây bất lợi cho tổ
chức (phối hợp không tốt sẽ gây bất lợi
cho tham mưu và lảnh đạo).
b.Cơ cấu tổ chức kiểu trực tuyến- chức
năng: sơ đồ SGK 92
-Ra đời năm 1930, là kiểu cơ cấu phối
hợp hữu cơ 2 loại cơ cơ cấu: trực tuyến và
chức năng. Người lảnh đạo tổ chức được
sự giúp sức của các phòng ban chức năng
để chuẩn bị và ra quyết định, hướng dẫn
và kiểm tra việc thực hiện quyết định.
Những người lảnh đạo các tuyến chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động và
được toàn quyền quyết định trong đơn
vị mình phụ trách. Những người lảnh
đạo chức năng không có quyền ra quyết
định trực tiếp cho những người ở các
tuyến.
-Ưu diểm: Do kết hợp hai kiểu cơ
cấu trực tuyến và chức năng nên mô
hình này có ưu điểm của cả hai mô hình
trực tuyến và chức năng. Đó là : bảo
đảm nguyên tắc 1 thủ trưởng, hút được
nhân viên có tài về nhiều lĩnh vực vào
tổ chức. Lảnh đạo có thể chia sẽ công
việc với các bộ phận chức năng--> quản
lý tốt hơn.
-Nhược điểm : Do có nhiều bộ phận
chức năng nên dễ làm bộ máy cồng
kềnh.; các bộ phận chức năng có quyền
ra những quyết định chức năng nên dễ
dẫn đến việc ra quyết định chồng chéo
nhau (cần có quyết định rõ ràng chức
năng, nhiệm vụ của từng bộ phận);
Người lảnh đạo chung phải luôn điều
hòa, phối hợp hoạt động của các bộ
phận để khắc phục hiện tượng không ăn
khớp (ra các quyết định chồng chéo),
cục bộ…của các cơ quan chức năng.
III.Liên hệ với cơ cấu tổ chức đơn vị
đ/c đang công tác :
Trong hoạt động quản lý, xuất phát từ
nhu cầu tăng cường vốn đầu tư, nên
công tác quản lý, sử dụng nguồn vốn có
hiệu qủa cần được chú trọng, vì vậy cần
có bộ máy tổ chức phù hợp để thực hiện
quản lý các dự án đầu tư. Hiện nay, dư
luận, báo chí, Quốc hội đang đề cập
nhiều đến sự lãng phí, thất thoát trong
đầu tư xây dựng cơ bản.
Tùy thuộc vào tính chất và năng lực thực
có các nhà đầu tư có thể lựa chọn những
hình thức quản lý khác nhau như : Chủ
đầu tư trực tiếp quản lý dự án, Chủ nhiệm
điều hành dự án, Chìa khoá trao tay, Tự
thực hiện dự án.
Trên địa bàn tỉnh bình thuận, tất cả các
chủ đầu tư được giao quản lý dự án thuộc
vốn ngân sách đều đươc UBND Tỉnh giao
thực hiện dưới hình thức chủ đầu tư trực
tiếp quản lý dự án.
Vai trò của chủ đầu tư, xác định chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn của các ban
Quản lý dự án trong quản lý chất lượng,
sử dung vốn đầu tư để mang lại hiệu qủa
cao là vấn đế rất quan trọng. Đã có nhiều
Nghị Định của Chính Phủ, thông tư của
các Bộ quy định và hướng dẫn việc thực
hiện công tác này. Tuy nhiên, hoạt động
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản cũng còn
nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết.
Thứ nhất, Việc phân công, phân cấp trong
hoạt động quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
còn chồng chéo, chưa rõ ràng :
Do khối lượng quản lý đột biến tăng trong
vài năm gần đây và không có sự chuẩn bị
trước về con người và chủ động tính toán,
sắp xếp bộ máy nên phát sinh dự án ở đâu,
tổ chức bộ máy tới đó. Việc phân, giao
các chủ đầu tư và thành lập các Ban quản
lý dự án còn mang tính hành chánh, máy
móc. Ngành nào, địa phương nào cũng
thành lập Ban Quản lý dự án riêng, trong
khi trình độ quản lý đa số không theo kịp
yêu cầu. Nhiều dự án hổn hợp không
thuộc riêng ngành nào, thì UBND Tỉnh,
lúc giao cho chủ đầu tư này, lúc giao chủ
đầu tư khác nên việc triển khai thực hiện
gặp rất nhiều khó khăn, không tích luỹ
kinh nghiệm, hiệu qủa kém.
Thứ hai, Sự bất cập của đội ngũ lãnh
đạo và viên chức của các Ban Quản lý dự
án :
Qua tổng kết phần lớn các ban QLDA đều
thiếu cán bộ hay có nhưng rất mỏng, Hơn
nữa, xuất hiện một số cán bộ cửa quyền,
nhũng nhiểu .. mà phần lớn lại ở những cán
bộ thiếu trình độ. Vừa qua, với chủ trương
kiểm tra, thanh tra các công trình XDCB do
các Ban quản lý dự án tổ chức quản lý
trong Tỉnh, đã phát hiện nhiều sai sót, gây
lãng phí, thất thoát vốn đầu tư công trình.
Nguyên nhân cơ bản chủ yếu không phải là
tham nhũng, hối lộ, cố tình làm sai mà do
trình độ, năng lực của nhiều cán bộ làm
công tác XDCB, làm sai nhưng không nhận
thức được, không hiểu được căn kẽ công
việc mình làm.
Việc thành lập quá nhiều các Ban quản lý
dự án trong khi trình độ cán bộ còn bất cập
là sự khiêng cưỡng lớn, nó không những
gây tác hại cho công việc chung mà trách
nhiệm của cán bộ khi mắc phải sai sót là
không lường trước được.
Sắp xếp các Ban Quản lý dự án :
- Tổ chức các Ban Quản lý dự án theo
hướng chuyên ngành.
- Mổi Sở xây dựng chuyên ngành nên
thành lập 2 Ban quản lý dự án, mỗi
ban quản lý quản lý nhóm dự án có
tính chất khác nhau như sau :
+ Một Ban Quản Lý dư án chuyên
quản lý các công trình chuyên ngành thuộc
vốn ngân sách Tỉnh, theo phân cấp do cấp
Tỉnh quản lý đầu tư.
+ Một Ban Quản Lý Dự Án chuyên
quản lý các công trình thuộc vốn do các
Bộ, ngành Trung Ương cấp trên ủy thác,
vốn thuộc các dự án nước ngoài giao cho
Tỉnh quản lý, và làm dịch vụ quản lý dự án
các công trình do thành phố, huyện làm chủ
đầu tư nhưng do quy mô, kỹ thuật phức
tạp nên hợp đồng lại.
- Mỗi Huyện, Thành Phố thành lập
Ban quản lý dự án để triển khai dự án do
địa phương quản lý.
- Cấp xã không thành lập Ban Quản
lý Dự án, có thể chọn lựa, hợp đồng với
các Ban Qủan lý dự án cấp huyện hay
Tỉnh để quản lý.
* Ưu điểm của phương án này là
- Sử dụng có hiệu qủa năng lực hiện có
của số cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ,
nâng cao tính chuyên nghiệp, đơn vị quản
lý có khả năng tài chính tạo điều kiện làm
việc cho cán bộ, viên chức, hiện đại hoá
trang thiết bị phục vụ công tác.
- Nâng cao mức sống cho cán bộ
viên chức từ đó giảm quan liêu, vòi vĩnh
- Cán bộ công chức có điều kiện
làm việc nâng cao trình độ, đáp ứng yêu
cầu công việc.
* Khuyết điểm :
- Sẽ có một bộ phận cán bộ công
chức do được giao nhiều quyền để giải
quyết công việc nên không bằng lòng với
thu nhập chính đáng, sinh ra quan liêu,
cửa quyền, vòi vĩnh.