Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

báo cáo tóm tắt đề tài nghiên cứu cơ sở khoa học phân loại gỗ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.13 KB, 30 trang )

1. Đặt vấn đề
“Bảng phân loại tạm thời các loại gỗ sử dụng thống
nhất trong cả nước” (gọi tắt là Bảng 8 nhóm) do Bộ
Lâm nghiệp ban hành theo quyết định số 1298-CNR
ngày 26 tháng 11 năm 1977 đã có những đóng góp to
lớn cho ngành Lâm nghiệp nói riêng và cho nhiều
ngành kinh tế khác nói chung. Đây được coi là một tài
liệu rất quan trọng cho sản xuất, kinh doanh gỗ, là
cơng cụ cho hoạch định nhiều chính sách trong quản
lý, khai thác, sử dụng, thương mại gỗ ở nước ta.
Từ khi ra đời, Bảng 8 nhóm cũng đã có những tồn tại
nhất định. Ngày nay, tài nguyên rừng, hồn cảnh kinh
tế nước ta đã có rất nhiều thay đổi, nên cần phải có
bàng phân nhóm mới vừa có tính chất hài hịa với khu
vực và quốc tế lại vừa phù hợp với thực tế.


2. Mục tiêu, nội dung và phương pháp
Mục tiêu: Xây dựng được cơ sở khoa học làm căn cứ
để phân nhóm gỗ Việt Nam và đề xuất được tiêu
chuẩn phân nhóm mới.
Nội dung:
-

Tìm hiểu các tiêu chuẩn phân nhóm gỗ của nước

ngoài.


-


Phân tích tiếp thu các văn bản phân nhóm gỗ

trong nước.
-

Đề xuất cơ sở khoa học phân nhóm gỗ ở Việt

Nam.
Phương pháp:
-

Nghiên cứu và kế thừa tài liệu.

-

Lấy ý kiến tại các cơ quan quản lý nhà nước, cơ

sở sản xuất, kinh doanh gỗ và sử dụng.
-

Sử dụng phương pháp chuyên gia, hội thảo khoa

học.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Tìm hiểu về tiêu chuẩn phân nhóm gỗ ở
nước ngồi
Ở các nước tiên tiến, cơng tác phân nhóm gỗ đã phát
triển ở mức độ cao với hệ thống tiêu chuẩn hóa khá



đầy đủ và hoàn chỉnh. Mọi tiêu chuẩn về gỗ đều lấy
đặc tính gỗ làm cơ sở, trong đó tính chất cơ lý gỗ đóng
một vai trị quan trọng, quyết định. Trước hết, khối
lượng thể tích (KLTT) được sử dụng thường xuyên
nhất. Hội nghị quốc tế về gỗ nhiệt đới tại Geneve năm
1949 đã thống nhất: lấy KLTT của gỗ ở độ ẩm 12% để
phân chia gỗ thành 5 nhóm (Nguyễn Đình Hưng,
1977). Trong khu vực, Malaysia, Indonesia,… sử dụng
KLTT để phân gỗ thành 4 nhóm (Phạm Đình Sơn,
1991), Philippin phân thành 5 nhóm (L.J. Harmann,
1988).
Ngồi ra, một số tính chất gỗ khác cũng được sử
dụng. Christian Scheiber (1965) lấy độ bền nén dọc để
phân thành 5 nhóm cho gỗ nhiệt đới, Malaysia phân


gỗ thành 4 “Nhóm cường độ” (Strength groups)
(Phạm Đình Sơn, 1991).
Căn cứ vào độ bền uốn tĩnh, Anh và Đức phân gỗ
thành 4 nhóm, Pháp và FAO chỉ 3 nhóm (L.J.
Harzmann, 1988), Christian Scheiber (1965) phân gỗ
nhiệt đới thành 5 nhóm.
Mơđun đàn hồi khi uốn tĩnh, cơng riêng khi uốn va
đập,… cũng được lấy làm tiêu chuẩn áp dụng cho một
mục đích sử dụng nhất định.
Hình thức sử dụng nhiều tính chất cơ vật lý gỗ để
phân nhóm được áp dụng để xây dựng tiêu chuẩn gỗ
xây dựng. Trong “Handbook of hardwood” (L.J.
Harzmann, 1988) sử dụng cường độ uốn tĩnh, môđun
đàn hồi khi uốn tĩnh, cường độ nén dọc và cường độ

uốn va đập để phân gỗ thành 5 nhóm. Sudan sử dụng


cường độ uốn tĩnh, môđun đàn hồi khi uốn tĩnh,
cường độ nén dọc và cường độ cắt dọc để phân 4
nhóm. Úc sử dụng 3 cường độ cơ bản: uốn tĩnh,
môđun đàn hồi khi uốn tĩnh và cường độ nén dọc để
phân gỗ tươi thành 7 hạng (S1 đến S7) và gỗ khô
thành 8 hạng (SD1-SD8). FAO đã sử dụng KLTT, cường
độ uốn tĩnh và cường độ nén dọc phân gỗ thành 5
nhóm, áp dụng cho gỗ Inđơnêxia.
Độ bền tự nhiên cũng là một đặc tính rất quan trọng.
Malaysia phân gỗ thành 4 nhóm (Phạm Đình
Sơn,1991, YAP Fui It, 2004). New Sealand phân thành
5 cấp và theo 5 điều kiện môi trường sử dụng gỗ khác
nhau, được FAO áp dụng cho gỗ Indonesia.


3.2. Phân tích tiếp thu các văn bản phân nhóm gỗ
ở trong nước
Trước đây, ở nước ta đã hình thành phân hạng gỗ căn
cứ vào độ bền tự nhiên kết hợp với đặc tính khác theo
kinh nghiệm (nặng hay nhẹ, cứng hay mềm, màu sắc),
chia thành 4 hạng: Hạng gỗ quý, hạng thiết mộc, hạng
hồng sắc và hạng tạp mộc (Lê Văn Chung, 1963).
Năm 1921, Pháp ra Nghị định số 2657 quy định việc
phân hạng gỗ ở Việt Nam thành 5 hạng: Hạng gỗ quý,
hạng nhất, hạng nhì, hạng ba và hạng tư dựa vào kinh
nghiệm và thị hiếu.
Năm 1957, Bộ Nơng Lâm – Tài chính ra Nghị định số 4

ND/LB quy định về phân hạng căn cứ vào mục đích sử
dụng, trữ lượng rừng, khả năng cung cấp của ngành
khai thác cùng với các yếu tố: cấu tạo gỗ, tính chất cơ


vật lý, độ bền tự nhiên và khả năng gia cơng.
Theo đó gỗ được phân chia thành 8 hạng.
Năm 1960, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 10-CP
quy định chế độ tiết kiệm gỗ. Căn cứ theo đó, Tổng cục
Lâm nghiệp đã ra Quyết định số 42-QĐ ban hành
“Bảng phân loại 8 nhóm gỗ” căn cứ vào cường độ và
khả năng sử dụng, trong đó KLTT đóng một vai trò
quan trọng (L.J. Harzmann, 1988).
Ngày 26-11-1977, Bộ Lâm nghiệp ra Quyết định số
2198- CNR ra ban hành “Bảng phân loại tạm thời các
loại gỗ sử dụng thống nhất trong cả nước” trên cơ sở
gộp các loại gỗ sử dụng ở phía Nam vào Bảng 8 nhóm
gỗ với mục đích: Để tạm thời thống nhất việc phân
loại gỗ sử dụng trong cả nước. Bảng 8 nhóm được
Năm 1988, có điều chỉnh việc xếp hạng gỗ cho 4 loại


gỗ và năm 1997 bổ sung thêm 8 loại gỗ, nâng tổng số
loại gỗ lên 362.
Năm 1977, Nguyễn Đình Hưng (1977) đề xuất “Phân
loại gỗ rừng Việt Nam” chuyển 8 nhóm thành 6 nhóm,
lấy KLTT là tiêu thức chủ đạo; và năm 1995 đề xuất
“Phân loại gỗ Việt Nam” gồm 5 nhóm căn cứ theo
phẩm chất gỗ, kết hợp với những tiêu chuẩn phân loại
theo mục đích sử dụng và giá gỗ trên thị trường.

Bảng 8 nhóm gỗ đã được phân tích gồm những tồn tại
như sau:
-

Cơ sở khoa học để phân chia thành 8 nhóm chưa

được rõ ràng, đặc biệt là ranh giới phân biệt giữa các
nhóm V đến VIII.
-

Tên nhiều loại gỗ chưa chính xác, cịn nhầm lẫn.

-

Nhiều loại gỗ sắp xếp chưa hợp lý.


-

Số lượng loại gỗ cịn q ít so với tài nguyên gỗ

nước ta.
-

Việc phân chia gỗ thành 8 nhóm là quá nhiều.

3.3. Đề xuất cơ sở khoa học phân nhóm gỗ ở Việt
Nam
3.3.1. Cơ sở khoa học:
- Cấu tạo gỗ: Cấu tạo gỗ là nhân tố chủ yếu nhất ảnh

hưởng đến tính chất gỗ. Cấu tạo gỗ có thể xem là biểu
hiện bên ngồi của tính chất (Lê Văn Tình, 1998).
Trong hầu hết các bảng phân nhóm gỗ từ trước đến
nay đều sử dụng một số đặc điểm cấu tạo để làm cơ sở
phân nhóm gỗ, đó là: Màu sắc, mùi vị, thớ gỗ và mặt
gỗ.
- Tính chất vật lý: Khối lượng thể tích: KLTT là một
chỉ số được quan tâm nhất vì nó có liên quan đến hầu


hết các tính chất của gỗ, là trị số có tính thuyết phục
nhất để dự đốn được nhiều tính chất của gỗ, là một
chỉ số then chốt để dự đoán và đánh giá giá trị gỗ.
- Ứng suất nén dọc: Khả năng chịu nén dọc thớ của gỗ
là tính chất rất ít biến động, dễ xác định và là một chỉ
tiêu cơ học rất quan trọng để đánh giá ứng suất của
gỗ.
- Ứng suất uốn tĩnh: ứng suất uốn tĩnh của gỗ là một
ứng lực phức tạp, là chỉ tiêu quan trọng thứ hai sau
ứng suất nén dọc.
- Độ bền tự nhiên: Phản ánh thời gian sử dụng gỗ
qua đó đánh giá được giá trị.
Ngoài ra, các chỉ tiêu cơ lý như độ co rút, ứng suất
khác, khuyết tật tự nhiên, khả năng gia công, hong
sấy, bảo quản và khả năng sử dụng thông thường, ý


nghĩa kinh tế, khoa học: Những số liệu, thông tin về
giá trị kinh tế, ý nghĩa khoa học cũng cần được tham
khảo để quyết định xếp nhóm.


3.3.2. Tiêu chuẩn phân nhóm gỗ ở Viêt Nam
a) Tiêu chuẩn chung: Tiêu chuẩn cơ là đặc tính tự
nhiên của gỗ: cấu tạo, khuyết tật, tính chất vật lý, tính
chất cơ học và độ bền tự nhiên của gỗ, trong đó KLTT
là yếu tố chủ đạo.
Ngoài ra, khả năng sử dụng, khả năng gia công, hong
sấy, bảo quản, đặc điểm cây gỗ. Ý nghĩa kinh tế cũng
như giá cả gỗ, ý nghĩa khoa học,… được tham khảo để
xử lý xếp nhóm.
b) Tiêu chuẩn từng nhóm:


Nhóm gỗ quý, hiếm, đặc biệt: Các loại gỗ quý, màu
đẹp, vân nhiều và đẹp, hương thơm đặc biệt, được ưa
chuộng hoặc có khả năng sử dụng cho trong cơng
nghệ đồ mộc cao cấp đắt tiền, đồ mỹ nghệ, hàng mộc
chạm khảm, hoặc những sản phẩm gỗ khác có giá trị
rất cao, hoặc có giá trị về lịch sử, văn hố, khoa học và
nghệ thuật.
Nhóm I đến V:

Nhó Tiêu chuẩn chính
Khả
Ứng suấtỨng
suất
m gỗ
Độ bền tự
năn
nén

uốn
KLTT (g/cm3)
nhiên(nă
sử
2
2
dọc(kG/cm tĩnh(kG/cm
m)
dụn
)
)
Cây láCây láCây Cây lá
kim

rộng



rộng


I

kim
> 0,70 > 0,95 ³ 450 ³650 ³1500

Trên 10

Các


cơn

trìn
xây

dựn
lâu

dài,

làm

khu
tầu

thuy
,

c

nhữ
bộ


phậ

cần

chịu
lực

II

>0,60- >0,80 –

³ 500-³

≤0,70 ≤0,95

<650 <1500

1200-5-10

lớn.
Thíc

hợp
với

cơn

ngh

đón
tầu

thuy
,

dụn



tron
các

cơn

trìn
xây

dựn


năn

chịu
lực

bền
III

> 0,50> 0,65³

³ 350-³ 800-<1200 3-5

– ≤0,60 – ≤0,80 350- <500
<450

chắ
Thíc


hợp

cho


cơn

trìn
xây

dựn

khơ
địi

chấ

lượn

cao,

cơn

ngh
bóc

lạng

đồ m


thơn


IV

> 0,40> 0,50<350 ³ 250-³ 600-<800 1-3

dụn
Thíc

- ≤0,50 – ≤0,65

hợp

<350

cho

cơn

trìn
xây

dựn

khơ

kiên
cố,


nhữ
u

cầu

làm


ván

khu

làm
vẹt,

chố


như

phả
xử

bảo

quả

Một

loại


dùn

làm


văn

phị

phẩ

hoặ

ván

của

thuy

loại

nhỏ
V

≤0,40 ≤0,50

<250 <600

Dưới 1


sơng
Thíc

hợp

cho

cơn

trìn


xây

dựn

khô
yêu

cầu

chịu

lực,

làm

bao


hoặ

ván

khu

Các trường hợp ngoại lệ:


Nhóm I: Gỗ có KLTT nhỏ hơn nếu đáp ứng được u
cầu về đặc tính tự nhiên khác của nhóm, có giá trị
kinh tế cao, hoặc có đủ đặc tính cần thiết thoả mãn tốt
cho cơng nghiệp đóng tàu thuyền đi biển.
Nhóm II: Nếu gỗ nhẹ hơn tiêu chuẩn trên thì phải
thích hợp nhất cho đóng vỏ tàu thuyền, đồ mộc hạng
tốt, hoặc thoả mãn cho yêu cầu đặc biệt của các
ngành công nghiệp khác như làm thùng đựng dung
dịch lỏng, tiện, gọt, chạm trổ,…Nếu gỗ nặng hơn tiêu
chuẩn trên thì là những loại gỗ khơng thoả mãn được
u cầu của nhóm trên trước hết vì tính chất kỹ thuật
khác và giá trị kinh tế của gỗ.
Nhóm III: Nếu gỗ nhẹ hơn tiêu chuẩn trên thì phải
thoả mãn một số yêu cầu sử dụng tương tự trong
nhóm gỗ này. Nếu gỗ nặng hơn tiêu chuẩn trên thì là


những loại gỗ khơng thoả mãn được u cầu của
nhóm trên trước hết vì các tính chất kỹ thuật, độ bền
tự nhiên hoặc đường kính tối đa của lồi cây gỗ
không lớn (gỗ nhỡ), hoặc gỗ không phổ biến và giá trị

kinh tế khơng cao.
Nhóm IV: Nếu gỗ nhẹ hơn tiêu chuẩn trên thì phải
thích hợp đặc biệt với u cầu cơng nghiệp bóc, gỗ
diêm, gỗ văn phịng phẩm hoặc thỏa mãn cho công
nghiệp giấy sợi,… Nếu gỗ nặng hơn tiêu chuẩn trên thì
là những loại gỗ khơng thoả mãn được u cầu của
các nhóm trên trước hết vì tính chất kỹ thuật của gỗ,
độ bền tự nhiên kém hoặc là cây gỗ nhỡ, giá trị kinh tế
khơng cao.
Nhóm V: Nếu gỗ nặng hơn tiêu chuẩn của nhóm thì là
gỗ của những loại cây gỗ nhỏ, giá trị kinh tế thấp,


hoặc rất khó gia cơng, khó hong, sấy, khó bảo quản,
phẩm chất kém.

4. Kết luận và khuyến nghị
Kết luận:
-

Phân nhóm gỗ ở nước ngồi được căn cứ vào

các đặc tính tự nhiên của gỗ: tính chất cơ vật lý, độ
bền tự nhiên và được tiêu chuẩn hóa theo từng mục
đích sử dụng nhất định. Đặc tính tự nhiên của gỗ là cơ
sở khoa học cho cơng tác phân nhóm gỗ.
-

Phân nhóm gỗ ở nước ta đã có từ lâu. Bảng 8


nhóm là tài liệu có ý nghĩa to lớn trong công tác quản
lý và sử dụng tài nguyên gỗ ở nước ta. Qua phân tích
đã cho thấy một số tồn tại: Tiêu chuẩn phân nhóm


chưa rõ ràng, cịn nhiều sai sót về tên, thiếu dẫn liệu
khoa học,…
-

Qua nghiên cứu tài liệu, chuyên gia, hội thảo, đề

tài đề xuất cơ sở khoa học cho phân nhóm gỗ Việt
Nam: lấy đặc tính tự nhiên của gỗ làm cơ sở: KLTT,
ứng suất nén dọc, uốn tĩnh, độ bền tự nhiên, trong đó
KLTT làm tiêu chí chủ đạo. Ngoài ra cần tham khảo ý
nghĩa kinh tế, giá cả gỗ, ý nghĩa khoa học,… để xử lý
xếp nhóm. Qua đó, đề tài đề xuất: phân nhóm gỗ thành
6 nhóm, trong đó có 1 nhóm gỗ quý hiếm, đặc biệt.
Khuyến nghị:
Sắp xếp các loại gỗ đã được nghiên cứu theo tiêu
chuẩn mới và ban hành để hài hòa với khu vực, phù
hợp với điều kiện nước ta, góp phần sử dụng, quản lý


×