Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

quản lý các hoạt động của ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.8 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của cuộc đấu
tranh giai cấp. Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ về nhiều mặt như quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng
chấn áp và các nhiệm vụ xã hội.
Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình Nhà nước cần phải có nguồn lực tài
chính – ngân sách Nhà nước, đó là cơ sở vật chất cho Nhà nước tồn tại và hoạt động.
Ngày nay kinh tế thị trường càng phát triển thì vị trí và vai trò của tài chính nhà nước ngày
càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, xây dựng nền tài chính tự chủ vững
mạnh là yêu cầu cơ bản cấp bách trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, trong đó
ngân sách Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc gia.
Ngân sách nhà nước là nơi tập trung quỹ tiền tệ lớn nhất trong nền kinh tế, có mối quan hệ
chặt chẽ với tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân cùng mối quan hệ khăng khít với tất cả
các khâu của hệ thống tài chính. Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm
bảo cho các chi tiêu của Nhà nước, và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho sự ổn
định phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế, và đảm bảo thu nhập cho người dân.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của Ngân sách nhà nước, nhóm chúng em đã
thảo luận và cùng phân tích về Ngân sách nhà nước và tình hình hoạt động của hệ thống Ngân
sách nhà nước Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước (ngân sách chính phủ) là một thành phần trong hệ thống tài chính.
Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc
gia. Tuy sự ra đời của ngân sách Nhà nước đã khá lâu, song quan niệm về ngân sách nhà nước lại
chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường
phái và các lĩnh vực nghiên cứu.
• Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (1971) cho rằng: “Ngân sách nhà nước là
bảng kê các khoản thu và chi bằng tiền của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định; là
mọi kế hoạch thu chi bằng tiền của bất kỳ xí nghiệp, cơ quan hoặc cá nhân nào trong
một giai đoạn nhất định”.


• Từ điển Bách khoa toàn thư về kinh tế Pháp định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là văn
kiện được nghị viện hoặc hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó các nghiệp vụ
tài chính của một tổ chức công (nhà nước, chính quyền, địa phương, đơn vị công,…)
hoặc tư (doanh nghiệp, hiệp hội,…) được dự kiến và cho phép”.
• Từ điển kinh tế thị trường của Trung Quốc định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là kế
hoạch thu, chi tài chính hàng năm của nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp
định”.
• Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002
định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm
bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách
trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan
khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
1.2. Bản chất Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là mối quan hệ kinh tế-xã hội giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế
khác trong nền kinh tế, thông qua việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà
nước. Từ khái niệm bản chất trên, ta có thể rút ra các đặc điểm sau:

Thứ nhất: Hoạt động thu-chi ngân sách nhà nước và gắn liền với việc thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế-xã hội của Nhà nước.
Thứ hai: Mọi hoạt động thu-chi của Ngân sách nhà nước đều phải dựa trên cơ sở pháp luật
của Nhà nước. Ví dụ như: pháp lệnh, chế độ, quy định về huy động vào ngân sách và chi tiêu
Ngân sách nhà nước.
Thứ ba: Quỹ Ngân sách nhà nước được hình thành thông qua quá trình phân phối lại dưới
nhiều hình thức, trong đó thuế là hình thức chủ yếu và phổ biến nhất.
Thứ tư: Đằng sau các hoạt động thu-chi Ngân sách nhà nước là các quan hệ kinh tế mà
trước hết là quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế - xã hội.
1.3. Vai trò của Ngân sách nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội

của các quốc gia
Trong hệ thống tài chính thống nhất, Ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập trung giữ vị
trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn
tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát triển của hàng
hoá, tiền tệ.
Trong cơ chế thị trường, những quan hệ kinh tế thuộc nội dung Ngân sách nhà nước chỉ có
thể phát sinh, phát triển trên cơ sở vận động không ngừng của các cơ quan tiền tệ trong quá trình
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tính chất, quy mô, mức độ và hiệu quả của quá trình hoạt động
này là tiền đề vật chất quan trọng nhất của Ngân sách nhà nước. Sẽ không có một Ngân sách lành
mạnh nếu như sự vận động của các quan hệ tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá
bị ách tắc hoặc bị biến dạng theo xu thế không có lợi, làm tổn thương đến sự vận động của hàng
hoá. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng: trong mối quan hệ giữa Ngân sách nhà nước với sự
vận động của các đơn vị tiền tệ nảy sinh trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hoá, các quan hệ
tiền tệ thuộc nội dung Ngân sách nhà nước hoàn toàn không mang tính thụ động mà có ảnh hưởng
tích cực trở lại. Sự ảnh hưởng trở lại đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhà nước sử dụng Ngân
sách làm công cụ quản lý kinh tế - xã hội như thế nào. Trong cơ chế thị trường, Ngân sách nhà
nước được nhà nước sử dụng làm công cụ quan trọng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Do
vậy có thể nói cùng với việc đảm bảo chỉ tiêu của nhà nước bằng việc huy động các nguồn tài
chính trên phạm vi rộng lớn trong và ngoài nước.
Vai trò tất yếu của Ngân sách nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế là
công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường,
bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
1.3.1. Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát
triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo
mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết
cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường

và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
(có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh
doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước
là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình
trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân
sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn
định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động
thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện
vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
1.3.2. Giải quyết các vấn đề xã hội
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như
chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các
khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng
bào bão lụt.
1.3.3. Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường hàng
hoá
Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến
lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc
gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm
chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích hợp Ngân sách nhà
nước góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
1.4. Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước
1.4.1. Khái niệm hệ thống Ngân sách nhà nước
Hệ thống Ngân sách nhà nước là tổng thể các cấp Ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp Ngân sách và được tổ chức theo một cơ
cấu nhất định.
Ở nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ chức theo hai
cấp: ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, trong đó ngân sách
địa phương bao gồm các cấp ngân sách: ngân sách thành phố (hay tỉnh) , ngân sách quận (huyện),
ngân sách xã (phường).

1.4.2. Căn cứ tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước
Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước dựa vào những căn cứ sau đây:
+Hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước.
+ Chế độ phân cấp quản lý kinh tế tài chính.
1.4.3. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước
 Nguyên tắc thống nhất
- Phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể; hệ thống thu, chi của các cấp Ngân sách ban hành
theo một chế độ thống nhất.
- Các cấp Ngân sách đều áp dụng chung một chế độ về kế hoạch hóa và quản lý Ngân sách
Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Ngân sách huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
Ngân sách xã, phường,
thị trấn
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
NGÂN SÁCH
TRUNG ƯƠNG
NGÂN SÁCH
ĐỊA PHƯƠNG
nhà nước, đồng thời nhiệm vụ chi trong kỳ kế hoạch phải đảm bảo (lập dự toán, chấp hành
dự toán và quyết toán Ngân sách nhà nước).
- Thực hiện cơ chế bổ sung từ Ngân sách cấp trên cho Ngân sách cấp dưới để đảm bảo tính
công bằng và yêu cầu phát triể cân đối giữa các vùng.
- Ngân sách các cấp không được dùng Ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp
khác.
 Nguyên tắc tập trung dân chủ
- Để quản lý và điều hành Ngân sách ở tầm vĩ mô, Nhà nước tập trung một số nguồn thu lớp,
quan trọng vào Ngân sách cấp chính quyền Trung ương nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu, cân
đối Ngân sách trên phạm vi toàn quốc.
- Để các cấp chính quyền chủ động khai thác tốt nguồn thu và nhu cầu chi tiêu kịp thời, Luật
Ngân sách quy định mỗi cấp chính quyền có một cấp Ngân sách riêng và được sử dụng vào

nhu cầu chi tiêu cho bộ máy dầu tư phát triển kinh tế địa phương đó.
Việc xây dựng dự toán, xét duyệt dự toán và quyết toán Ngân sách mỗi cấp đều tập trung
vào chính quyền cấp tương đương, được công khai dân chủ ở mỗi cấp Ngân sách cho nhân dân
biết để nhân dân tham gia xây dựng Ngân sách, biểu hiện rõ nhất là các nguồn thu huy động từ
nhân dân đóng góp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
1.4.4. Sơ đồ hệ thống Ngân sách nhà nước
CHƯƠNG 2.CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. Thu và chi Ngân sách nhà nước
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia
tăng) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Một trong các đại lượng
biểu thị sự tăng trưởng kinh tế đó là tổng sản phẩm trong nước hay tổng sản phẩm quốc nội
(GDP). Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ như nước ta. Nhà nước đóng
vai trò quan trọng trong việc kích thích sự tăng trưởng kinh tế, thông qua việc sử dụng công cụ
ngân sách của mình. Công cụ ngân sách nhà nước chủ yếu là thu và chi tiêu của nhà nước.
2.1.1. Thu Ngân sách nhà nước
a. Khái niệm
Đứng về phương diện pháp lý, thu Ngân sách nhà nước bao gồm những khoản tiền Nhà
nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất, thu
Ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong
quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình
b. Đặc điểm
Thu ngân sách nhà nước được đặc trưng một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, trong bất kỳ một xã nào, cơ cấu các khoản thu ngân sách nhà nước đều gắn liền
với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của nhà nước. Trên cơ sở quyền lực của mình nhà
nước định ra các chính sách thu ngân sách nhà nước. Ngược lại các khoản thu ngân sách nhà
nước là tiền đề để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Thứ hai, thu ngân sách nhà nước luôn luôn gắn liền với các quá trình kinh tế và các phạm
trù chính trị. Kết quả của quá trình hoạt động kinh tế và hình thức, phạm vi, mức độ vận động của
các phạm trù giá trị là tiền đề quan trọng xuất hiện hệ thống thu ngân sách.

c. Nguồn thu ngân sách nhà nước
Thu Ngân sách nhà nước chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách
mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp.
 Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, nội dung các khoản thu Ngân sách nhà nước
bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Lợi tức từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế;
- Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế;
- Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi);
- Thu từ hoạt động sự nghiệp;
- Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước;
- Tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích;
- Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình
kết cấu hạ tầng cơ sở;
- Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước;
- Các khoản di sản Nhà nước được hưởng;
- Thu kết dư ngân sách năm trước;
- Tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại các đơn vị hành chính, sự
nghiệp;
- Các khoản tiền phạt, tịch thu;
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật;
- Các khoản viện trợ không hoàn lại bằng tiền, bằng hiện vật của Chính phủ các nước, các tổ
chức, cá nhân ở nước ngoài;
- Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để bù đắp bội chi và khoản huy
động vốn đầu tư trong nước của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh)
quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách Nhà nước được đưa vào cân đối ngân
sách.
Cần lưu ý là không tính vào thu Ngân sách nhà nước các khoản thu mang tính chất hoàn
trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật Ngân sách nhà nước

(Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư 59/2003/TT-BTC ngày
23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu Ngân sách nhà nước các khoản viện trợ không hoàn
lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các khoản vay ưu đãi không được tính vào thu
Ngân sách nhà nước .
 Căn cứ vào tính chất sử dụng của các khoản thu, thu ngân sách nhà nước chia làm 2 loại :
thu trong cân đối ngân sách và thu để bù đắp thâm hụt ngân sách.
 Thu trong cân đối ngân sách
- Thuế: đây là hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước đến nay để tạo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Tỉ lệ đóng góp của thuế vào ngân sách nhà nước luôn ở mức
cao. Chẳng hạn như các nước ASEAN có tỉ lệ thuế trong thu thường xuyên của ngân
sách rất cao.
Ở Việt Nam, nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là nguồn thu từ thuế. Mặt khác nếu so
sánh tỉ lệ thuế động viên vào ngân sách Nhà nước từ GDP của Việt Nam so với những nước thành
viên ASEAN. Tỉ lệ này ở nước ta cũng cao nhất.
Điều đó cho thấy, Việt Nam khó huy động được nguồn thu ở một mức cao hơn nữa từ
GDP so với hiện nay. Do đó, một trong những nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế bước 2
là tiến hành điều chỉnh hợp lý cơ cấu các sắc thuế trong kết cấu thu nhằm bảo đảm nguồn thu
ngân sách nhà nước theo hướng giảm thuế suất, tăng thu theo diện rộng. Đồng thời, việc cải cách
thuế phải thực hiện được nhiệm vụ khuyến khích. thúc đẩy sản xuất phát triển. Với hệ thống thuế
tối ưu, nguồn thu thuế sẽ tăng lên mà không cần đòi hỏi phải tăng thuế suất. Nhờ thế, Nhà nước sẽ
có được nguồn thu ổn định ở mức cao, dễ dàng chủ động thực hiện các chức năng quản lý và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Phí và lệ phí: tuy chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng thu ngân sách nhà nước, song vẫn được
huy động và khai thác nguồn thu đưa vào ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu
chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước.
- Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước: khoản thu này phản ánh hoạt động kinh tế đa
dạng của Nhà nước. Trong giai đoạn trước mắt, Nhà nước có thể sử dụng các khoản
thu này để xây dựng các công trình công cộng y tế, giáo dục, đường sá, nhà ở. Với
chủ trương bán nhà thuộc sở hữu nhà nước cho các đối tượng đã thuê. Số thu về hàng
năm khá lớn. Cùng với tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, số vốn thu hồi

vào ngân sách sẽ tăng. Đồng thời, khi các công ty cổ phần đi vào hoạt động và làm ăn
có hiệu quả, Nhà nước còn thu được lãi tức cổ phần được chia. Như vậy, tiền thu từ
hoạt động kinh tế của Nhà nước sẽ là phần đóng góp quan trọng trong giai đoạn trước
mắt để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình.
- Viện trợ không hoàn lại: bao gồm môt phần vốn ODA (chiếm khoản 25%) và toàn bộ
khoản viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGO ) để phục vụ cho đầu tư cộng
cộng ; giáo dục, y tế, giao thông. Trong tương lai, khoản viện trợ không hoàn lại này
có xu hướng giảm dần. Do đó, Nhà nước cần tranh thủ tối đa nguồn vốn này bằng
việc cải tiến các khâu điều tra và quản lý để giải ngân nhanh hơn các chương trình
ODA và cần quan tâm nhiều hơn đến việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này có hiệu
quả.
Như vậy toàn bộ khoản thu trên sẽ là khoản ổn định và thường xuyên của ngân sách nhà
nước. Nhà nước sử dụng nguồn thu này để chi cho những hoạt động quản lý thường xuyên và chi
trả nợ của Nhà nước. Khoản chi này tuy không trực tiếp làm tăng thêm giá trị tổng sản phẩm,
nhưng rất cần thiết cho sự phát triển xã hội. Theo Luật Ngân Sách Nhà nước qui định là toàn bộ
khoản thu trong cân đối này sẽ tài trợ cho các loại chi nói trên, phần còn lại sẽ được dùng cho chi
đầu tư phát triển kinh tế. Đây chính là mức tiết kiệm của ngân sách nhà nước. Nếu số thu này
không đủ cho chi thường xuyên thì cương quyết cắt giảm chi. Do đó, có thể nói thông qua nguồn
thu này, Nhà nước đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển tốt nhất.
 Thu để bù đắp thâm hụt ngân sách
- Các khoản vay nợ của Chính phủ gồm có vay trong nước và vay ngoài nước. Theo Luật
Ngân Sách của nước ta, qui định là Nhà nước sẽ dùng khoản tiết kiệm của ngân sách để chi
cho đầu tư phát triển kinh tế. Nếu không đủ, Nhà nước sẽ đi vay để bù đắp thâm hụt ngân
sách, không sử dụng khoản vay nợ cho chi thường xuyên. Vay của Nhà nước bao gồm vay
trong nước và vay nước ngoài.
+ Vay trong nước được thực hiện bởi việc phát hành công trái dưới các hình thức: tín
phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình.
+ Vay nợ nước ngoài được thực hiện dưới các hình thức như: hiệp ước hay hiệp định
vay mượn giữa hai Chính phủ, hiệp định vay mượn giữa Chính phủ với các tổ chức
tài chính tiền tệ thế giới hoặc phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Vay nợ nước

ngoài có 2 loại: vay ưu đãi với lãi suất rất thấp, thời gian hoàn vốn khá dài; vay
thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian hoàn vốn cũng dài.
Đối với khoản vay nợ nước ngoài thì nước vay nợ dễ gặp rủi ro do tỉ giá hối đoái tăng làm
cho đồng tiền trong nước mất giá, gánh nặng nợ nần chồng chất. Vì vậy, cần phải tính đến hiệu
quả kinh tế và hết sức thận trọng trong việc sử dụng nguồn vốn vay này. Đối với khoản vay trong
nước, nếu Nhà nước vay quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến mức tiết kiệm và tích luỹ của các thành
phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, đầu tư của các thành phần này cũng có thể
giảm. Hơn nữa, nếu Chính phủ vay trong nước nhiều, lãi suất có xu hướng gia tăng, giá cả hàng
hoá tăng, lạm phát có nguy cơ xảy ra.
- Phát hành tiền: Trước năm 1992, để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước còn sử dụng
hình thức này. Tuy nhiên, đối với tình trạng sản xuất yếu kém như nước ta trước đây, việc
chọn giải pháp này thường làm cho nền kinh tế không ổn định do lạm phát có xu hướng
gia tăng. Vì thế đối với nước ta từ năm 1993 đến nay không phát hành tiền để bù đắp thâm
hụt ngân sách. Như vậy để đầu tư phát triển kinh tế, trong khi nguồn thu ngân sách trong
cân đối không đáp ứng đủ, Nhà nước sử dụng biện pháp vay nợ hoặc phát hành tiền để bù
đắp. Trong điều kiện hiện nay việc phát hành tiền bị hạn chế nhiều. Do đó. nếu nguồn vay
được sử dụng có hiệu quả thì tổng sản phẩm quốc nội tăng đáng kể.Tuy nhiên để có thể
thực hiện tốt chức năng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng
tham gia phát triển kinh tế, đồng thời để có thể kiểm soát được các mặt hoạt động của nền
kinh tế. Nhà nước cần khống chế tỷ lệ vay nợ bù đắp thâm hụt ngân sách ở một mức nhất
định nào đó, chẳng hạn mức khống chế hiện nay là dưới 3,5% GDP.
Toàn bộ khoản thu ngân sách nói trên đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của tổng sản
phẩm quốc nội hay sự tăng trưởng kinh tế một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Tuy nhiên, việc huy
động vốn vào ngân sách nhà nước chỉ nên huy động ở mức vừa phải, hợp lý để Nhà nước vẫn
thực hiện được chức năng quản lý kinh tế xã hội. Đồng thời còn thực hiện vai trò động viên các
thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển sản xuất, đưa đất nước phát triển một cách vững
chắc nhất.
d. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu Ngân sách nhà nước
Thứ nhất, mức độ phát triển của nền kinh tế: đánh giá bằng tốc độ tăng trưởng và giá trị
tổng sản phẩm quốc nội giữa các thời kỳ. Một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc,

ổn định có số thu tương đối ổn định.
Thứ hai, hiệu quả kinh tế của từng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế: hiệu quả hoạt động
đầu tư cao thúc đẩy việc tiết kiệm tiêu dùn của khu vực tư nhân tạo điều kiện cho nhà nước tăng
được số thu từ việc vay trong nước.
Thứ ba, quan hệ đối ngoại của nhà nước: liên quan đến việc vay nợ và nhận viện trợ từ
nước ngoài.
Thứ tư, mức độ các khoản chi tiêu của nhà nước.
Thứ năm, bộ máy tổ chức các cán bộ thu Ngân sách nhà nước.
2.1.2. Chi Ngân sách nhà nước
a. Khái niệm
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo
những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Chi Ngân sách nhà nước thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối
và sử dụng quỹ Ngân sách nhà nước nhằm trang trải cho các chi phí bộ máy nhà nước và thực
hiện các chức năng kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận theo những nguyên tắc nhất định.
Chi Ngân sách nhà nước chủ yếu dựa trên những nguồn thu nhập lấy từ hoạt động sản
xuất. Sự vận động của nó gắn liền với việc thực hiện các kế hoạch kinh tế - xã hội và quy mô của
chi Ngân sách dựa vào mức tăng thu nhập quốc dân cũng như kết quả của việc phân chia nó thành
quỹ tiêu dùng và quỹ tích lũy xã hội.
Quá trình phân phối quỹ Ngân sách nhà nước là quá trình cấp phát kinh phí từ Ngân sách
nhà nước để hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Chẳng hạn như việc cấp phát vốn
từ Ngân sách nhà nước cho các đơn vị dự toán, cho các cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách
hoặc cho các quỹ tài chính khác.
Quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp sử dụng khoản tiền cấp phát từ Ngân sách nhà
nước cho những công việc của nhà nước đã định sẵn không trải qua việc hình thành các loại quỹ
trước khi đưa vào sử dụng.
b. Đặc điểm
Thực hiện chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tại chính cho
các nhiệm vụ của nhà nước. Song việc cung cấp này có những đặc thù riêng, đó là:
Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà

Chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm vi chi tiêu ngân sách nhà nước phụ
thuộc vào tính chất, nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang
tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt chính trị và xã hội, ngoại giao.
Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính, một yêu cầu đặt ra là cần sử dụng tổng hợp các chỉ
tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh giá tác
dụng, ảnh hưởng của các khoản chi phí ở tầm vĩ mô.
Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp
phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà quản lý tài chính cần có
sự phân tích, tính toán trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh được
những lãng phí không cần và nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước.
c. Phân loại chi ngân sách nhà nước
Tuỳ theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lý ngân sách trong từng thời kỳ
người ta có thể phân chia các khoản chi ngân sách theo nhiều tiêu thức khác nhau.
 Theo chức năng nhiệm vụ của nhà nước, nội dung chi ngân sách nhà nước gồm:
• Chi kiến thiết kinh tế.
• Chi văn hoá – xã hội.
• Chi quản lý hành chính.
• Chi an ninh - quốc phòng.
• Các khoản chi khác.
 Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia các nội dung sau đây:
 Chi thường xuyên
o Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục
thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường và các sự nghiệp khác;
o Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;
o Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội;
o Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
o Hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam;
o Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp

phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam;
o Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
o Các chương trình quốc gia;
o Hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ;
o Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
o Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định của pháp luật;
o Trả lãi tiền do Nhà nước vay;
o Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài;
o Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
 Chi đầu tư phát triển
o Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng
thu hồi vốn;
o Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh
vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo
quy định của pháp luật;
o Chi cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương
trình, Dự án phát triển kinh tế;
o Dự trữ nhà nước;
o Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển.
o Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay.
o Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
Ngoài ra, còn có thể phân loại chi ngân sách nhà nước theo các ngành kinh tế, theo tính
chất của quá trình tái sản xuất xã hội.
d. Các nhân tố ảnh hưởng tới chi ngân sách nhà nước
Nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nước là sự phản ánh những nhiệm vụ chính trị, kinh tế
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nước của mỗi quốc gia
thường sự chi phối của nhiều nhân tố:
 Chế độ xã hội
Đây là nhân tố cơ bản quyết định đến nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nước, nó quyết
định đến bản chất và nhiệm vụ kinh tế xã hội của Nhà nước. Nhà nước là chủ thể của chi ngân

sách nhà nước, vì thế lẽ đương nhiên nội dung, cơ cấu của chi ngân sách nhà nước chịu sự ràng
buộc của chế độ xã hội. Nhìn vào nội dung, cơ cấu chi của ngân sách nhà nước trên một lĩnh vực
nào đó có thể cho thấy về bản chất của xã hội đó.
 Sự phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất quyết định đến nội dung, cơ cấu của chi
ngân sách nhà nước. Sự phát triển của lực lượng sản xuất vừa tạo khả năng và điều kiện cho việc
hình thành nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước một cách hợp lý, vừa đặt ra yêu cầu thay đổi
nội dung, cơ cấu chi trong từng thời kỳ nhất định.
 Khả năng tích lũy của nền kinh tế
Khả năng tích lũy của nền kinh tế ảnh hưởng đến nội dung, cơ cấu chi của ngân sách nhà
nước. Khả năng tích lũy càng lớn thì khả năng chi đầu tư phát triển càng cao.
 Tổ chức bộ máy và những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước
Tổ chức bộ máy và những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước ảnh hưởng đến nội dung,
cơ cấu chi của NSNN mà Nhà nước đảm nhận trong từng giai đoạn lịch sử.
Ngoài ra, những nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến nội dung, cơ cấu chi của NSNN như:
biến động kinh tế, chính trị, xã hội và của các nhân tố cụ thể như: giá cả, lãi suất, tỉ giá hối đoái.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nội dung, cơ cấu chi NSNN có ý nghĩa quan trọng
trong việc bố trí nội dung, cơ cấu các khoản chi của NSNN một cách khách quan, phù hợp với
yêu cầu về tình hình kinh tế, chính trị trong từng giai đoạn lịch sử.
2.2. Cân đối ngân sách nhà nước
2.2.1. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối NSNN là quan hệ cân bằng giữa thu và chi của NSNN trong một thời kỳ (thường
là một năm ngân sách). Khái niệm cân đối NSNN xuất phát từ yêu cầu khách quan đối với phân
bổ và điều hòa thu, chi NSNN trong sự vận động của nguồn lực tài chính, cũng là quá trình kinh
tế do Nhà nước vận dụng các biện pháp điều tiết tài chính để tiến hành kiểm soát và điều hòa sự
phân phối nguồn lực tài chính xã hội.
Về bản chất, cân đối NSNN là cân đối giữa nguồn lực tài chính mà nhà nước huy động
và tập trung được vào quỹ NSNN trong một năm, với nguồn lực được phân phối, sử dụng để thỏa
mãn nhu cầu của nhà nước cũng trong năm đó. Theo đó, xét trên góc độ tổng thể, cân đối NSNN
phản ánh mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một năm tài khóa và cả tính hài hòa, hợp

lý trong cơ cấu giữa các khoản thu và các khoản chi NSNN, để qua đó thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô cũng như trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Xét
trên phương diện phân cấp quản lý NSNN, cân đối NSNN là cân đối về phân bổ và chuyển giao
nguồn lực giữa các cấp ngân sách, để qua đó các cấp chính quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao.
2.2.2. Các trạng thái của ngân sách nhà nước
Mối tương quan giữa thu và chi NSNN trong một năm tài khóa được biểu hiện qua 3 trạng
thái sau:
• NSNN cân bằng: nhà nước huy động nguồn thu vừa đủ để trang trải chi tiêu.
• NSNN thặng dư: thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách. Nhà nước đã huy động nguồn lực
quá mức cần thiết hoặc không xây dựng được chương trình chi tiêu hợp lý tương ứng với số thu
hoặc kinh tế phát triển thịnh vượng làm tăng thu ngân sách ngoài dự toán và nhà nước có thể chủ
động sắp xếp phân bổ thặng dư cho những năm tiếp theo.
• NSNN bội chi (thâm hụt): nghĩa là chi NSNN lớn hơn thu NSNN. Trong trường hợp này,
thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi. Nguyên nhân có thể là do nhà nước không sắp xếp
được nhu cầu chi cho phù hợp với khả năng; cơ cấu chi tiêu dùng và đầu tư không hợp lý gây
lãng phí; do tình trạng thất thu ngân sách; nhưng cũng có thể là do nền kinh tế suy thoái theo chu
kỳ hoặc ảnh hưởng bởi thiên tai hay chiến tranh, thu NSNN giảm sút tương đối so với nhu cầu chi
để phục hồi nền kinh tế.
2.2.3. Đặc điểm của cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối NSNN phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi NSNN nhằm đạt được các
mục tiêu của chính sách tài khóa. NSNN vừa là công cụ thực hiện chính sách phát triển kinh tế -
xã hội của Nhà nước. Việc thay đổi trạng thái cân đối thu chi ngân sách tác động nhất định đến
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự tính toán thu - chi cân đối NSNN không phản
ảnh một cách thụ động các chỉ tiêu kinh tế – xã hội, mà ngược lại về phần mình, cân đối NSNN
có tác động làm thay đổi hoặc điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế xã hội bằng khả
năng quản lý các nguồn lực và phân bổ các nguồn lực có hiệu quả. Như vậy, vấn đề cốt lõi của
cân đối NSNN là đánh giá và khai thác nguồn thu một cách hợp lý; phân bổ và sử dụng nguồn lực
hiệu quả; phần thiếu hụt sẽ bù đắp bằng vay nợ được đặt trong một chiến lược quản lý nợ công
tối ưu.

Về nội dung, cân đối NSNN bao gồm cân đối giữa tổng thu và tổng chi, cân đối giữa các
khoản thu và các khoản chi NSNN, cân đối về phân bổ chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong
hệ thống NSNN, đồng thời phải kiểm soát được tình trạng NSNN để qua đó thực hiện được các
mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô và trong từng lĩnh vực, địa bàn. Cân đối NSNN
mang tính định lượng và tính tiên liệu. Cân đối ngân sách phải được định lượng cụ thể tổng thu,
tổng chi, quy mô so với GPD; chi tiết các khoản mục thu, chi và phân bổ ngân sách trung ương
với ngân sách các cấp địa phương. Cân đối NSNN phải tiên liệu được khả năng thu, chi NSNN
trong ngắn hạn và dài hạn để đảm bảo tính ổn định của chính sách tài khóa và việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội.
2.3. Bội chi ngân sách nhà nước
2.3.1. Khái niệm
Bội chi ngân sách nhà nước, hay còn gọi là thâm hụt ngân sách nhà nước, là tình trạng khi
tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn trả" của
ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so
với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một
nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách
nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực.
2.3.2. Đo lường bội chi ngân sách nhà nước
Về mặt kỹ thuật, NSNN có bội chi hay không, bội chi nhiều hay ít, còn tùy thuộc vào cách
đo lường bội chi NSNN. Ở mỗi nước có thể tồn tại một cách hiểu về bội chi NSNN khác nhau.
Có ba yếu tố ảnh hưởng đến kết quả đo lường bội chi NSNN: (1) phạm vi tính bội chi NSNN; (2)
việc xác định các khoản thu, chi trong cân đối NSNN; (3) thời gian ghi nhận thu – chi NSNN.
 Phạm vi tính bội chi ngân sách nhà nước
- Bội chi ngân sách toàn diện
Bội chi ngân sách toàn diện tính trên phạm vi toàn bộ khu vực công. Theo
World Bank, khu vực công bao gồm:
+ Chính phủ
+ Các cấp chính quyền địa phương

+ Ngân hàng trung ương
+ Các các tổ chức thuộc sở hữu Nhà nước (trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước),
nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách nhà nước quyết định và trong trường
hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay cho các tổ chức đó.
Như vậy, khi các thể chế trong khu vực công vỡ nợ, hoặc không vỡ nợ nhưng khi cần
thanh toán trong trường hợp muốn tái cấu trúc lại các thể chế này, thì trách nhiệm thanh toán cuối
cùng thuộc về chính phủ. Và khi đó, khoản thanh toán nợ này nếu thực tế phát sinh trong năm thì
được tính vào chi NSNN của năm thanh toán. Từ đó, bội chi ngân sách toàn diện bao gồm mức
bội chi được xác định cho toàn bộ khu vực công. Đây là thước đo rộng nhất để xác định mức bội
chi.
- Bội chi ngân sách chính phủ
Khác với WB, IMF lại cho rằng để phân biệt chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ,
đồng thời làm cơ sở đối chiếu giữa thống kê tài chính tiền tệ với thống kê tài chính chính phủ thì
phạm vi xác định bội chi chỉ nên giới hạn trong khu vực chính phủ. Theo sổ tay Thống kê Tài
chính Chính phủ của IMF, khái niệm chính phủ gồm tất cả các cấp chính quyền mà không bao
gồm hoạt động ngân hàng trung ương, cho dù nó có trực thuộc chính phủ hay không. Tại mỗi cấp
chính quyền, bên cạnh quỹ NSNN còn có các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và quỹ hoạt
động bảo hiểm xã hội. Các quỹ này được trợ cấp một phần lớn từ NSNN.
Do vậy, bội chi ngân sách chính phủ theo nghĩa rộng là số bội chi của các cấp chính quyền
với các hoạt động với sự hỗ trợ hoặc bao cấp của NSNN CHO tất cả các quỹ nói trên. Nhưng nếu
hiểu theo nghĩa hẹp, bội chi ngân sách chính phủ chỉ bao gồm bội chi của các cấp chính quyền
liên quan đến hoạt động của quỹ ngân sách nhà nước mà thôi.
- Bội chi ngân sách trung ương
Một số quốc gia khi tính bội chi NSNN chỉ tính bội chi liên quan đến hoạt động NSNN do
chính quyền trung ương trực tiếp thực hiện. Đi đôi với quan điểm này là việc không cho phép
ngân sách địa phương bội chi. Cách xác định phạm vi tính bội chi ngân sách hẹp như vậy là nhằm
thiết lập kỷ luật tài chính tổng thể trong điều kiện năng lực quản lý có nhiều hạn chế. Luật Ngân
sách nhà nước Việt Nam năm 2002 hiểu theo nghĩa này (xem khoản 3 điều 8 Luật NSNN 2002).
 Xác định các khoản thu, chi trong cân đối ngân sách nhà nước
Trên thực tế, tùy thuộc vào mục đích chính trị, mục tiêu của chính sách tài khóa…

mỗi nền kinh tế sẽ có những quan điểm khác nhau về vấn đề này. Chẳng hạn, khoản vay nợ qua
phát hành trái phiếu và viện trợ (nếu có) có nên ghi vào cân đối NSNN hay không thì câu trả lời
đôi khi là khác nhau giữa các quốc gia. Nhật Bản ghi các khoản này vào số thu NSNN hàng
năm, trong khi Mỹ thì đưa các khoản này để xử lý bội chi NSNN. Ở Việt Nam, Luật Ngân
sách nhà nước năm 2002 quy định tính các khoản viện trợ không hoàn lại vào thu ngân nhưng
không tính các khoản vay nợ kể cả trong và ngoài nước.
Việc ghi các khoản này vào số thu NSNN hàng năm để cân đối NSNN nổi lên hai vấn đề
cần xem xét: (i) nếu đưa các khoản này vào cân đối NSNN, thì sẽ làm cho mức bội chi NSNN trở
nên nhỏ hơn. Ở mức độ nào đó, đây cũng là cách để các nhà chính trị vẽ lại bức tranh cân đối
NSNN tốt hơn, qua đó không làm mất đi tín nhiệmđối với cử tri về năng lực quản lý chính phủ;
(ii) tuy vậy, việc đưa khoản này vào cân đối NSNN sẽ làm gia tăng rủi ro tiềm ẩn đối với cân đối
NSNN, tính ổn định của NSNN không cao. Và gánh nặng nợ là mối đe dọa lớn đến tính ổn định
của nền tài chính quốc gia trong dài hạn.
Ngoài ra, mục đích sử dụng của các báo cáo về bội chi NSNN cũng ảnh hưởng đến việc
quyết định các khoản thu, chi trong cân đối NSNN.
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá sự tích lũy của chính phủ cho nhu cầu
đầu tư phát triển thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách vãng lai. Là chênh lệch của số thu, chi
thường xuyên.
Bội chi ngân sách vãng lai = Chi thường xuyên – Thu thường xuyên
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tình hình ngân sách tổng thể của nhà
nước và tác động của nó đến môi trường kinh tế vĩ mô (tình hình lưu thông tiền tệ, cầu trong
nước và cán cân thanh toán quốc tế) thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách qui ước (bội chi ngân
sách thông thường).
Bội chi ngân sách qui ước = Thu thường xuyên và viện trợ không hoàn lại – tổng
chi (bao gồm cả cho vay thuần)
Trong đó: Cho vay thuần = Số cho vay ra – Số thu hồi nợ gốc
Tuy nhiên, cách tính này chưa cho phép phân tích sự tác động của bội chi NSNN đến
tổng cầu cũng như sự phân bổ nguồn lực và tái phân phối thu nhập trong nền kinh tế. Cùng một
mức bội chi như nhau nhưng nếu cơ cấu thu, chi và nguồn bù đắp bội chi khác nhau thì tác động
hoàn toàn khác nhau.

IMF khuyến cáo rằng khi phân tích ngân sách để lập dự toán thì chỉ nên coi cácnguồn viện
trợ, kể cả viện trợ không hoàn lại, là nguồn bù đắp thâm hụt như các khoản vay nợ. Vì các khoản
viện trợ thường không có kế hoạch chắc chắn, không ổn định, nếu lập dự toán chi ngân sách có
tính đến các khoản viện trợ có thể sẽ phải điều chỉnh chi NSNN trong quá trình thực hiện, gây
những tác động tiêu cực đến hoạt động ngân sách.
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tính bền vững tài khóa thì bội chi ngân
sách căn bản sẽ thích hợp.
Bội chi ngân sách căn bản = Bội chi ngân sách qui ước – Chi trả lãi
Với các tính này, nếu chính phủ có các quyết định thu – chi làm giảm bội chi ngân sách
căn bản, thì số chi cho hoạt động của chính phủ trong cung cấp hàng hóa, dịch vụ công sẽ ít đi.
Nếu chính phủ mở rộng các nhu cầu tài chính của mình và làm tăng chi trả lãi thì có nghĩa là
chính phủ phải giảm các cơ hội chi thường xuyên không bắt buộc cũng như chi đầu tư để có thể
cải thiện hệ thống giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng
Trong trường hợp muốn so sánh với quốc gia khác trong bối cảnh mức độ lạm phát của hai
quốc gia là khác nhau, hoặc khắc phục tình trạng bội chi bị đánh giá quá cao do lạm phát (đặc biệt
là đối với những nước có mức lạm phát và nợ công cao) thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách
nghiệp vụ. Bởi vì, lạm phát sẽ làm giảm giá trị thực số dư nợ danh nghĩa của khu vực công,
khi chính phủ trả lãi tiền vay thì một phần trong đó mang tính chất hoàn lại tiền gốc đã bị
trượt giá theo năm tháng cho chủ thể cho vay. Khi tính bội chi NSNN nếu phần này không được
loại ra thì mức bội chi thực chất đã bị đánh giá cao hơn mức bội chi thực sự.
Bội chi ngân sách nghiệp vụ = Bội chi ngân sách qui ước – trả lãi do lạm phát = Bội
chi ngân sách căn bản + trả lãi thực
(trả lãi danh nghĩa = trả lãi do lạm phát+ trả lãi thực)
Theo thông lệ quốc tế, thu trong cân đối NSNN bao gồm các khoản thu vào quỹ NSNN mà
khoản thu đó không kèm theo, không làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả trực tiếp. Chi trong cân đối
NSNN là các khoản chi ra từ NSNN được đảm bảo bằng các nguồn thu NSNN trong cân đối.
Điều này cũng có nghĩa là những khoản chi của nhà nước nhưng do các nguồn khác đảm nhiệm
thì không tính vào chi trong cân đối NSNN. Như vậy, theo thông lệ quốc tế, thu trong cân đối
NSNN bao gồm: các khoản thu thuế, phí và các khoản thu khác (kể cả viện trợ không hoàn
lại) mà không bao gồm các khoản vay trong và ngoài nước. Chi trong cân đối NSNN bao gồm

chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, các khoản chi khác, chi trả lãi vay mà không bao gồm chi
trả nợ gốc tiền vay. Chi trả lãi tiền vay cần được xếp vào chi NSNN vì nó là hệ quả củaviệc điều
hành chính sách NSNN có bội chi và được chính nguồn thu trong cân đối NSNN đảm bảo.
Ở Việt Nam hiện nay, cách tính bội chi khác với thông lệ quốc tế này ở điểm là Việt Nam
tính vào chi NSNN tất cả các khoản chi trả nợ cả gốc và lãi. Cách tính này cho kết quả định
lượng bội chi cao hơn so với cách tính không bao gồm trả nợ gốc nhưng thuận tiện khi nhận
thấy được số bội chi của một năm chính bằng các khoản vay bù đắp bội chi trong năm đó.
 Xác định thời gian ghi nhận thu, chi ngân sách nhà nước
Việc phân định thời gian ghi nhận thu, chi NSNN trong cân đối hợp lý sẽ giúp cho chính
phủ tổng kết và đánh giá tình hình tài chính của quốc gia, qua đó có biệnpháp điều chỉnh kịp
thời, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính công. Trên thực tế, xác định thời
gian ghi nhận thu – chi NSNN tùy thuộc vào quy tắc kế toán chính phủ được áp dụng là kế toán
thực thu - thực chi hay kế toán dồn tích. Và chính qui tắc kế toán được áp dụng sẽ ảnh hưởng đến
kết quả đo lường bội chi NSNN trong từng tài khóa. Với kế toán thực thu – thực chi, nghiệp
vụ kinh tế phát sinh chỉ được ghi chép vào sổ sách kế toán khi thực sự có phát sinh thu chi tiền
tệ. Trong khi đó, với kế toán dồn tích thì bất kỳ nghiệp vụ kinh tế nào phát sinh cũng phải được
ghi nhận đúng với bản chất của vấn đề.
Tóm lại xác định phạm vi, xác định các khoản thu, chi trong cân đối khi đo lường mức bội
chi NSNN và qui tắc kế toán chính phủ nào được sử dụng sẽ phụ thuộc vào:
• Việc xác định vai trò của nhà nước;
• Mục đích chính trị và mục đích sử dụng báo cáo;
• Mục tiêu của chính sách tài khóa;
• Năng lực quản lý của các cấp chính quyền;
• Bối cảnh kinh tế – xã hội.
2.3.3. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước
a. Các nguyên nhân khách quan
Do kinh tế suy thoái mang tính chu kỳ. Kinh tế suy thoái thì sẽ làm cho nguồn thu NSNN
sút giảm, nhu cầu chi tiêu gia tăng (trợ cấp xã hội, những khoản chi để phục hồi nền kinh tế), kết
quả NSNN có thể bị bội chi.
Thiên tai, tình hình bất ổn của an ninh thế giới. Tình hình bất ổn của an ninh thế giới và

diễn biến phức tạp của thiên tai sẽ làm gia tăng nhu cầu chi cho quốc phòng và an ninh trật tự xã
hội, gia tăng nhu cầu chi NSNN để khắc phục hậu quả của thiên tai.
b. Các nguyên nhân chủ quan
Do quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý. Quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý được
thể hiện qua việc đánh giá và khai thác nguồn thu chưa tốt; phân bổ và sử dụng NSNN còn nhiều
bất cập, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực tài chính nhà nước; phân cấp quản lý NSNN chưa
khuyến khích địa phương nỗ lực trong khai thác nguồn thu và phân bổ chi tiêu hiệu quả. Kết quả
là thu NSNN không đủ để trang trải nhu cầu chi tiêu.
Do nhà nước chủ động sử dụng bội chi như một công cụ của chính sách tài khóa để kích
cầu, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế. Do cách đo lường bội chi.
2.3.4. Tác động của bội chi ngân sách đến nền kinh tế vĩ mô
a. Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế
Xuất phát từ đẳng thức kinh tế xác định tổng sản phẩm quốc nội
GDP = C + I + G + NX
Trong đó GDP là tổng sản phẩm quốc nội, C là tiêu dùng tư nhân, I là tổng đầu tư, G là chi
tiêu chính phủ, NX là xuất khẩu ròng
Đưa thêm biến số thuế T vào đằng thức ta có:
(GDP – C – T) + (T – G) = I
S = (GDP – C – T)
S + (T – G) = I
Với S là tiết kiệm tư nhân, (T – G) là tiết kiệm chính phủ, cũng chính là chênh lệch giữa
thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T – G) = 0 tức NSNN cân bằng, trường hợp (T – G)
> 0 NSNN có thặng dư, trường hợp (T – G) < 0 NSNN bội chi.
Trong bối cảnh NSNN bội chi, chính phủ phải tìm cách bù đắp bội chi bằng cách vay trong
nước hoặc nước ngoài. Vay trong nước làm cho tiết kiệm tư nhân giảm, tổng đầu tư giảm; để duy
tri được mức tổng đầu tư chính phủ phải lựa chọn phương án đi vay nước ngoài. Mỗi khi chính
phủ chi tiêu quá một đồng vượt số thu ngân sách, buộc phải tài trợ bằng cách tăng nợ công một
đồng.
b. Ảnh hưởng lạm phát
Về cơ bản, hầu hết chính phủ các nước đều dùng các biện pháp sau để khắc phục bội chi

NSNN: vay trong nước, vay nước ngoài hoặc phát hành tiền. Tùy từng điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể mà các nguồn bù đắp bội chi được sử dụng riêng rẽ hay kết hợp. Từ đó cũng gây ra tác
động lên nền kinh tế khác nhau.
Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng cách phát hành trái phiếu (kể
cả phát hành trong nước và phát hành ra nước ngoài), thi tất yếu chính phủ phải trả tiền nợ gốc
và lãi trái phiếu trong tương lai đồng thời gây áp lực lên xã hội bằng việc tăng thuế. Tuy
nhiên bằng cách này, bội chi NSNN sẽ không gây lạm phát và đặc biệt trong trường hợp bội chi
được tài trợ cho các dự án đầu tư sinh lợi thì nó lại là động lực cho sự phát triển của nên kinh tế
trong dài hạn.
Khi chính phủ sử dụng giải pháp bù đắp bội chi NSNN bằng việc phát hành tiền, hành
động này ngay lập tức làm cho lương tiền cung ứng trong lưu thông tăng. Cung tiền tăng là một
yếu tố quan trọng làm tăng tổng cầu. Trong bối cảnh suy thoái kinh tếtăng cung tiền có tác dụng
kích thích nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư tăng tổng sản phẩm tiến tới mức tiềm năng, ảnh hưởng lạm
phát là tối thiếu. Tuy nhiên duy trì bội chi kéo dài trong thời kỳ kinh tế tăng trường phát hành
tiền sẽ gây ra lạm phát cao, rất nguy hại.
c. Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế
Quy mô nợ công của Chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho tiêu dùng hay
đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ chấp nhận bội chi để tài trọ cho các
dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời trong dài hạn, thì chính lợi tức từ dự án lại tạo ra và làm
tăng nguồn thu trong dài hạn cho ngân sách nhà nước, giúp NSNN trả được gốc và lãi cho

×