Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, dịch tễ bệnh do giun tròn trichocephalus spp gây ra trên lợn tại huyện yên sơn – tỉnh thái nguyên và biện pháp điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.9 KB, 55 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU 1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 2
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2
3.1. Ý nghĩa trong học tập 2
3.2.Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học 2
3.3.Ý nghĩa trong thực tiễn 2
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 3
2.1.1. Đặc điểm sinh học của giun T. suis lợn 3
2.1.2. Bệnh giun T. suis ở lợn 7
2.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 18
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 18
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 19
PHẦN III
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ 23
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
3.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU 23
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 23
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 23
3.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 23
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 23
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 23
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 23
3.3.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh học của giun tóc lợn ở huyện Yên Sơn,
tỉnh Tuyên Quang 23
3.3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun tóc lợn ở huyện
Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang 24
3.3.3. Nghiên cứu biện pháp phòng và trị bệnh giun tóc lợn ở huyện Yên


Sơn, tỉnh Tuyên Quang 24
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh học của giun tóc lợn ở
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang 24
3.4.2. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh giun tóc lợn ở
huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang 25
3.4.3. Phương pháp xác định hiệu lực và độ an toàn của một số thuốc tẩy
giun T. suis cho lợn 26
3.4.4. Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh giun T. suis cho lợn 27
3.5. Phương pháp xử lý số liệu 27
CHƯƠNG IV
DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 28
4.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh học của giun tóc lợn ở huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang 28
4.1.1. Kết quả mổ khám lợn để thu thập mẫu giun tròn
Trichocephalus.spp ở huyện Yên Sơn 28
4.1.2. Kết quả định danh loài giun tóc ký sinh ở lợn tại huyện Yên Sơn29
4.1.3. Hình thái và cấu tạo của giun tóc trưởng thành và trứng 31
4.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun tóc lợn 31
4.2.1. Thực trạng phòng chống bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh
giun tóc cho lợn nói riêng ở tỉnh Tuyên Quang 31
4.2.2. Tình hình nhiễm giun tóc lợn ở huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên
Quang 32
4.4. Hiêu lực của thuốc tẩy giun tóc cho lợn trên thực địa 40
4.5. Độ an toàn của thuốc tẩy giun tóc cho lợn trên thực địa 41
4.6. Đề xuất quy tình phòng trị bệnh giun T. suis cho lợn 42
Phần V
KẾT LUẬN TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 44
5.1. Kết luận 44
5.1. Tồn tại 44

5.3. Đề nghị 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Mm : milimet
Cs : cộng sự
% : phần trăm
Nxb : nhà xuất bản
T.suis : Trichocephalus suis
TT : Thể trọng
G : Gam
DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1.Kết quả mổ khám lợn để thu thập mẫu giun tròn
Trichocephalus.spp ở huyện Yên Sơn 28
Bảng 4.2. Kết quả định danh loài giun tròn giống tóc ký sinh ở lợn
tại huyện Yên Sơn 29
Bảng 4.3. Kích thước của giun tóc trưởng thành và trứng 31
Bảng 4.4. Thực trạng phòng chống bệnh ký sinh trùng nói chung và
bệnh giun tóc cho lợn nói riêng ở huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên
Quang 31
Bảng 4.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tóc lợn ở các địa phương
32
Bảng 4.7. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tóc theo phương thức chăn
nuôi 36
Bảng 4.8. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tóc theo tình trạng vệ sinh
thú y 39
Bảng 4.9. Hiêu lực của thuốc tẩy giun tóc cho lợn trên thực địa 41
Bảng 4.10. Độ an toàn của thuốc tẩy giun tóc cho lợn trên thực địa
42
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Biểu đồ 4.1: Tỷ lệ nhiễm giun tóc lợn các địa phương 34
Biểu đồ 4.2: Tỷ lệ nhiễm giun tóc theo tuổi lợn 36
Biểu đồ 4.3: Tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn theo phương thức chăn
nuôi 38
Biểu đồ 4.4: Tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn theo tình trạng vệ sinh
thú y 39
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1. Giun Trichocephalus suis 5
Hình 2.2. Sơ đồ vòng đời của giun T. suis 6
PHẦN I : MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một nước đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp, có hơn 80 %
dân số sống bằng nghề nông, vì vậy phát triển kinh tế không thể không nói
đến ngành chăn nuôi và trồng trọt.
Trong ngành chăn nuôi thì nghề chăn nuôi lợn chiếm một vị trí hết sức
quan trọng, cung cấp phần lớn số lượng thịt trên thị trường, bên cạnh đó còn
cung cấp một lượng lớn phân bón cho ngành trồng trọt.
Sở dĩ ngành chăn nuôi lợn chiếm vị trí quan trọng trong ngành chăn nuôi
là nhờ các đặc điểm sinh vật học ưu việt của lợn như: Khả năng sinh sản cao,
ăn tạp, chi phí thức ăn/1kg thức ăn tăng trọng thấp, thịt lợn có giá trị dinh
dưỡng cao đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, ngoài việc chú ý tới các
yếu tố như giống, khí hậu, điều kiện chăn nuôi thì công tác thú y cũng là
một công việc rất quan trọng, quyết định đến năng suất chăn nuôi và sự phát
triển của đàn lợn. Công tác thú y còn góp phần nâng cao số lượng và chất
lượng sản phẩm của ngành chăn nuôi.
Đặc biệt nước ta nằm trong vùng Đông Nam Á, khí hậu nhiệt đới nóng
ẩm nên thuận lợi cho nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh
cho vật nuôi. Bệnh ký sinh trùng ở gia súc, gia cầm nói chung và bệnh ký sinh
trùng đường tiêu hoá lợn nói riêng không gây ra các ổ dịch lớn như những

bệnh truyền nhiễm do virus, vi khuẩn. Song, bệnh ký sinh trùng thường diễn
ra ở thể mạn tính, làm lợn sinh trưởng, phát triển chậm, tăng tiêu tốn thức ăn
và các chi phí như thuốc điều trị, công chăm sóc nuôi dưỡng. Nguy hiểm hơn,
ký sinh trùng ký sinh còn làm giảm sức đề kháng của lợn và là yếu tố mở
đường cho nhiều loại vi khuẩn, vi rút xâm nhập gây bệnh. Trong bệnh ký sinh
trùng thì bệnh do giun tròn Trichocephalus spp. ký sinh ở đường tiêu hóa
được coi là loại bệnh phổ biến trên đàn lợn ảnh hưởng đến chất lượng và số
lượng sản phẩm.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc khống chế dịch bệnh, nâng cao
năng suất chăn nuôi lợn ở huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang chúng tôi
1
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, dịch tễ bệnh do
giun tròn Trichocephalus spp. gây ra ở lợn tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên
Quang và biện pháp phòng trị’’.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của giun tóc lợn ở huyện Yên Sơn,
tỉnh Tuyên Quang ’’.
- Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh giun tóc lợn tại huyện Yên Sơn,
tỉnh Tuyên Quang ’’.
- Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh giun tóc cho lợn
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Ý nghĩa trong học tập
- Áp dụng được lí thuyết đã học vào thực tiễn và học hỏi thêm được
nhiều kiến thức bổ ích từ bên ngoài trường học.
- Củng cố dược kiến thức cơ sở cũng như chuyên ngành, sau này có điều
kiện tốt hơn để phục vụ công tác phát triển ngành chăn nuôi nước nhà.
3.2.Ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học
- Tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp xúc, làm quen với thực tế công
tác nghiên cứu khoa học.
- Góp phần hoàn chỉnh dữ liệu về đặc điểm sinh học,dịch tễ bệnh do giun

tóc gây ra ở lợn.
- Lá cơ sở khoa học để lựa chọn các biện pháp phòng và trị bệnh giun tóc
cho lợn hiệu quả.
3.3.Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để giúp người chăn nuôi xác định
được bệnh và áp dụng biện pháp phòng, trị bệnh giun tóc cho lợn, nhằm hạn
chế tỷ lệ và cường độ nhiễm giun ở lợn, hạn chế tác hại đối với lợn, góp phần
nâng cao năng suất chăn nuôi.
2
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Đặc điểm sinh học của giun T. suis lợn
2.1.1.1. Vị trí của giun T. suis trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Skrjabin K.I. (1979) [41], Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [20] vị trí
của giun tròn Trichocephalus suis (T. suis) trong hệ thống phân loại động vật
như sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928
Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank, 1788
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của giun T. suis lợn
Theo Skrjabin K. I. (1979) [36], thì hình thái cấu tạo của giun tròn T. suis
như sau: Con đực: Dài trung bình 40,35 mm; tối thiểu 33 mm; tối đa 48 mm.
Chiều dài phần trước trung bình 25,3 mm (20 - 30 mm); phần sau 15,1mm (12 -
19 mm). Tỷ lệ chiều dài phần trước với phần sau 1,68 : 1. Thân phủ lớp cutin, trên

lớp cutin có nhiều rãnh ngang nên lớp cutin có nhiều mấp mô, hình răng nhỏ.
Thực quản kéo dài dọc theo phần mỏng trước thân và chuyển vào ruột ở chỗ ranh
giới giữa phần mỏng và dày của thân. Chiều rộng của phần trước thực quản 0,035
- 0,044 mm; của chỗ chuyển vào ruột 0,074 - 0,092 mm. Thực quản được bao
quanh bởi một hàng tế bào đơn nhân theo dạng móc xích. Ruột kết thúc bởi huyệt
trên phần đuôi. Hệ thống sinh dục gồm những ống dẫn tinh uốn khúc chiếm hầu
hết phần sau thân. Đuôi con đực vòng xoắn ốc. Giao gai hợp kết thúc bằng một
đỉnh nhọn. Gai có chiều dài nằm trong khoảng từ 1,74 - 2,84 mm. Chỗ rộng
nhất của gai gốc gai dài 0,084 - 0,110 mm. Có bao gai bọc xung quanh và
cùng với gai nhô ra khỏi lỗ huyệt. Bao gai được phủ bởi rất nhiều gai nhỏ,
3
những gai này xếp theo thứ tự quân cờ. Số lượng hàng gai nhỏ gần nơi
chuyển của bao vào thân 24 - 42; Ở đầu đối diện với nó số lượng hàng tăng
tới 44 - 46. Hình dạng bao gai tròn, căng, dài 0,044 mm. Chiều rộng của bao
gai ở chỗ lồi ra khỏi huyệt tăng lên về kích thước: Chiều rộng chỗ gần huyệt
là 0,057 - 0,092 mm; trong khi đó ở chỗ cuối gai 0,079 - 0,159 mm. Tất cả
con đực có một đầu bao gai gập hình cổ tay áo hay là hình bao tay, bao này
một phần hay toàn bộ bao phủ phần bao gai lồi ra khỏi thân. Chiều dài của
chỗ gập 0,242 - 0,330 mm; rộng 0,290 - 0,352 mm.
Con cái: Thân dài trung bình 45,55 mm; tối thiểu 38 mm và tối đa 53 mm.
Phần trước mỏng, phần sau dày. Chiều dài phần trước của thân trung bình
30,55 mm (25 - 35 mm); chiều dài phần sau 15 mm (13 - 18 mm). Trên danh
giới chỗ chuyển tiếp của phần thân trước và phần thân sau, hơi dịch về phía
sau cách đầu cuối của thực quản có âm hộ. Âm hộ nhô ra ngoài, dạng hình trụ
hơi cong về phía sau (0,037 - 0,061 mm) và hơi rộng ở chỗ cạnh tự do (0,050
- 0,075 mm). Chỗ này được phủ rất nhiều gai nhỏ hình lưới (3 - 4 µm). Tử
cung có hình ống thẳng hay hơi cong, nằm ngay trước âm hộ, dài 0,92 - 1,28
mm; trong tử cung có trứng xếp thành một hàng. Đuôi con cái tù. Trứng dài
0,056 - 0,066 mm và rộng 0,025 - 0,030 mm. Màu sắc thay đổi từ vàng nhạt
đến vàng sẫm.

Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [18] đã mô tả giun T. suis như sau:
Con đực: Dài 37,52 - 40,63 mm; rộng nhất 0,634 - 0,713 mm.
Phần trước cơ thể dài 23,48 - 25,75 mm; phần sau dài 14,00 - 15,00 mm; có
dạng xoắn lò xo. Gai sinh dục dài 1,70 - 2,55 mm; rộng 0,07 - 0,10 mm; mút
cuối gai nhọn. Bao gai phủ đầy gai nhỏ. Lỗ huyệt nằm ở mút cuối đuôi.
Con cái: Cơ thể dài 37,89 - 50,60 mm; rộng 0,734 - 1,012 mm; phần
trước cơ thể dài 23 - 33 mm. Ống sinh dục đơn. Âm đạo có thành cơ dày,
chứa đầy trứng. Kích thước trứng 0,024 - 0,027 x 0,056 - 0,061 mm.
Phan Địch Lân và cs (2005) [14] cho biết: Loài giun T. suis trông giống
như một sợi tóc, màu trắng. Cơ thể chia làm hai phần rõ rệt:
Phần đầu: Nhỏ, dài như sợi tóc, chiếm 2/3 chiều dài cơ thể, dưới lớp biểu bì
là thực quản, thực quản do các tế bào xếp nối tiếp như chuỗi hạt.
4
Phần sau: Ngắn và to hơn phần đầu, bên trong chứa các cơ quan nội tạng
của giun như: Ruột, cơ quan sinh dục….
Giun đực: Dài 20 - 52 mm, đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn tròn lại, chỉ có một
gai giao hợp dài 5 - 7 mm, được bọc trong một cái màng có nhiều gai nhỏ bao
phủ. Lỗ sinh tiết thông với ngoài ở phần cuối của giun.
Giun cái: Dài 39 - 53 mm, đuôi thẳng. Hậu môn ở đoạn cuối cùng, âm hộ
ở đoạn cuối thực quản. Trứng giun tóc hình hạt chanh, màu vàng nhạt, kích
thước 0,052 - 0,061 x 0,027 - 0,03 mm. Hai cực có hai nút trong, vỏ dày có 2 lớp
Hình 2.1. Giun Trichocephalus suis
a: Trứng giun; b: Giun cái; c: Giun đực
(Nguồn: Phan Địch Lân và cs, 2005)[14]
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [13] cho biết: Hình thể của giun T. suis
giống như một sợi tóc màu trắng. Cơ thể chia thành hai phần rõ rệt. Phần
trước nhỏ như sợi tóc, dưới lớp biểu bì là thực quản, thực quản do các tế bào
xếp nối tiếp như chuỗi hạt, phần này chiếm 2/3 chiều dài cơ thể. Phần sau
ngắn và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản. Giun đực dài 20 - 52 mm
đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn tròn lại chỉ có một gai giao hợp rất dài 5 - 7 mm,

gai giao hợp được bọc trong một cái màng có nhiều gai nhỏ bao phủ. Giun cái
dài 39 - 53 mm, đuôi thẳng, âm hộ ở đoạn cuối cùng của thực quản.
2.1.1.3. Vòng đời của giun T. suis lợn
Skrjabin K. I. (1979) [36] cho biết: Giun T. suis phát triển không cần
vật chủ trung gian. Trứng được bài tiết cùng với phân lợn ra môi trường ngoại
cảnh. Ở môi trường thuận lợi, thời gian để trứng phát triển thành dạng cảm
nhiễm từ 3 đến 4 tuần. Trong thời gian này, có thể thấy ấu trùng đã hình thành
hoàn toàn và chuyển động bên trong trứng.
5
Theo Trịnh Văn Thịnh (1985) [28], Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3] thì
tuổi thọ của giun T. suis ở lợn là từ 4 - 5 tháng.
Bonner Stewart T. và cs (2000) [34] cho biết: Khi lợn nuốt phải
những ấu trùng giun T. suis này nằm sâu trong niêm mạc 2 tuần, nhô ra khỏi
niêm mạc ở tuần thứ 3 và phát triển thành giun trưởng thành.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [14], thời gian hoàn thành vòng đời
của giun tròn T. suis là 30 ngày.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2012) [13], vòng đời phát triển của
giun T. suis diễn ra theo sơ đồ sau:
Hình 2.2. Sơ đồ vòng đời của giun T. suis
Giun T. suis trưởng thành kí sinh ở manh tràng đẻ trứng, trứng theo
phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng) qua 15 - 28
ngày trứng phát triển thành trứng cảm nhiễm. Trứng này lẫn vào thức ăn,
nước uống, nếu gia súc ăn phải, vào đường tiêu hóa trứng nở thành ấu trùng,
thọc sâu phần đầu vào niêm mạc ruột già, tiếp tục phát triển thành giun trưởng
thành. Thời gian hoàn thành vòng đời trong cơ thể tùy từng loài giun T. suis
nhưng đối với T. suis cần 30 ngày.
6
2.1.1.4. Sức đề kháng của trứng giun T. suis lợn ở ngoại cảnh
Theo Đặng Văn Ngữ và cs (1965) [21], ở ẩm độ tối đa (gần 100 %) và
nhiệt độ 22

o
C thì trứng phát triển được đến giai đoạn trứng cảm nhiễm.
Nhưng cũng điều kiện ẩm độ như trên mà ở 30
o
C thì trứng sẽ chết sau 1
tháng. Nhiệt độ phát triển thuận lợi nhất của trứng giun Trichuris trichiura
(giun tóc người) ở ngoại cảnh là 25 - 30
o
C. Thời gian là 17 - 30 ngày tỷ lệ
trứng có ấu trùng gần 90 %. Nhiệt độ lên quá 50
o
C làm hỏng phần lớn trứng
trước khi tới giai đoạn trứng cảm nhiễm. Như vậy, trứng giun T. suis và trứng
giun Trichuris trichiura có giới hạn nhiệt độ phát triển thuận lợi ở ngoại cảnh
tương tự nhau.
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [18], trứng giun T. suis bị diệt
dưới tác dụng của ủ phân nhiệt sinh học. Sau 3 - 4 tuần, nhiệt độ hố ủ tăng
lên tới 45
o
C sẽ làm hủy trứng giun T. suis. Tuy nhiên, trứng non có khả
năng chịu đựng các điều kiện nhiệt độ cao hơn trứng cảm nhiễm.
Theo Lehand S. Shapiro (2005) [42], trứng giun T. suis có thể tồn tại rất
lâu (vài năm) trong đất. Sự phát triển của trứng phụ thuộc vào nhiệt độ: Ở 30
o
C
cần 17 ngày, ở nhiệt độ thất hơn, thời gian này kéo dài hơn. Ở 10
o
C trứng ngừng
phát triển nhưng vẫn duy trì khả năng sống. Nhiệt độ từ 45
o

C trở lên diệt được
trứng giun T. suis. Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [13]: Trứng giun T. suis có
vỏ dày nên có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh.
2.1.2. Bệnh giun T. suis ở lợn
2.1.2.1. Những thiệt hại kinh tế do giun T. suis gây ra ở lợn.
Bệnh ký sinh trùng thường là những bệnh mãn tính, làm giảm mức sinh
trưởng và sinh sản của gia súc, ảnh hưởng đến sản phẩm chăn nuôi. Lợn nuôi lấy
thịt chậm lớn, sụt cân, phẩm chất thịt giảm (theo Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982) [27].
Bonner Stewart T. và cs (2000) [34] cho biết: Tại Mỹ, nội ký sinh trùng
ở lợn hàng năm gây thiệt hại ước tính khoảng 538 triệu đô la, bao gồm thiệt
hại do lợn chết, tiêu hủy, giảm thu và chi phí để tẩy giun sán.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], T. suis ký sinh là một trong
những nguyên nhân làm giảm năng suất chăn nuôi và tạo điều kiện cho
các mầm bệnh khác xâm nhập. Lợn bị bệnh giun T. suis giảm tăng trọng
từ 15 - 20 % so với lợn khỏe.
7
2.1.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun T. suis
* Động vật mắc bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [33], lợn nhà và lợn rừng đều cảm
nhiễm với giun T. suis.
Theo Nguyễn Phước Tương (2002) [32], người nhiễm bệnh sau khi
nuốt phải trứng giun T. suis lẫn trong nước hay thức ăn thực vật chưa được
nấu chín. Sau khi vào người, trứng cảm nhiễm phát triển thành giun T. suis
trưởng thành, khu trú ở ruột thừa và gây bệnh cho người. Giun đẻ trứng, trứng
này được bài xuất ra ngoài qua phân người, sau khi phát triển thành trứng cảm
nhiễm thì có khả năng gây nhiễm lại lợn (tuy nhiên tỷ lệ trứng phát triển chỉ
có 11 %, trong khi trứng giun T. suis ở lợn có tỷ lệ phát triển là 86 %).Bùi
Qúy Huy (2006) [6] cho biết : Giun T. suis ở lợn và giun Trichuris trichiura ở
người có nhiều điểm giống nhau về hình thái, hóa học và kháng nguyên, do
đó bệnh giun T. suis dễ lây sang người.

Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2006) [10] cho biết: Lợn sau khi cai sữa ở
tỉnh Thái Nguyên nhiễm giun T. suis 23,01 % - 27,01 %.
* Đường lây nhiễm
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [15], bệnh lây nhiễm qua đường
tiêu hóa do lợn nuốt phải trứng cảm nhiễm lẫn trong thức ăn, nước
uống.Lây nhiễm trực tiếp: Lợn bệnh bài xuất trứng giun T. suis qua phân,
những trứng này phát tán trên nền chuồng, máng ăn, máng uống. Vì vậy, lợn
khỏe dễ dàng bị nhiễm trứng giun T. suis.
Lây nhiễm trực tiếp chủ yếu giữa lợn bệnh và lợn khỏe trong cùng một
ô chuồng. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu khi bú sữa mẹ, nuốt phải trứng bám ở
đầu vú lợn mẹ.
Lây nhiễm gián tiếp: Dụng cụ chăn nuôi, người chăm sóc… cũng là tác
nhân mang mầm bệnh. Đây là những yếu tố trung gian góp phần lây nhiễm
giun T. suis từ lợn bệnh sang lợn khỏe, từ ô chuồng này sang ô chuồng khác.
Ngoài ra, ruồi, chuột cũng có thể phân tán trứng giun, gió cuốn trứng
giun theo bụi, mang trứng giun T. suis từ chuồng này sang chuồng khác gây
phát tán mầm bệnh.
8
* Tuổi mắc bệnh
Theo Trịnh Văn Thịnh (1963) [24], bệnh thường xảy ra nặng nề đối với
lợn con dưới 6 tháng tuổi. Lợn nái và lợn trưởng thành nhiễm giun T. suis nhẹ
hơn, ít thể hiện các triệu chứng lâm sàng.
Theo Lương Văn Huấn và cs (1990) [5] cho biết, tỷ lệ nhiễm giun T. suis theo
tuổi lợn như sau:
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 20,4 %
Từ 3 - 4 tháng tuổi nhiễm 21,2 %
Từ 5 - 6 tháng tuổi nhiễm 8,5 %
Trên 6 tháng tuổi nhiễm 6,4 %.
Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3], lợn ở giai đoạn 2 - 6 tháng tuổi nhạy cảm
nhất với giun T. suis. Kết quả điều tra tại hợp tác xã Tiền Phong (Hà Nội), lợn Ỉ lai

Yorkshire, Berkshire có tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn dưới 2 tháng tuổi là 16 %,
trong khi lợn 5 tháng tuổi nhiễm 13,5 % và lợn 7 tháng tuổi nhiễm 6,2 %. Tại hợp
tác xã Đông Mỹ (Hà Nội) tỷ lệ lợn dưới 2 tháng tuổi nhiễm giun T. suis là 20,8 %.
Ngày tuổi bình quân phát hiện trứng giun T. suis trong phân lợn nội là 74 ngày (từ
58 - 89 ngày), lợn lai Landrace 56 ngày (43 - 64 ngày), lợn Berkshire 61 ngày (56 -
75 ngày), lợn lai Yorkshire 76 ngày và lợn ngoại 62 ngày (38 - 81 ngày).
Theo Phạm Sĩ Lăng và cs (2009) [17], tỷ lệ nhiễm giun T. suis ở lợn theo
tuổi ở Hà Nội như sau: Lợn từ 2 - 6 tháng tuổi nhiễm 4,3 - 30 %, lợn trên 6
tháng tuổi nhiễm 0,56 - 7,8 %
* Vùng mắc bệnh
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], bệnh giun T. suis ở lợn phân bố trên toàn
thế giới. Tại Việt Nam, bệnh cũng đã được phát hiện ở tất cả các tỉnh miền Bắc,
miền Trung và miền Nam. Ở Hà Nội, lợn bị nhiễm T. suis từ 4,3 - 30 % (ở lứa tuổi
từ 2 - 6 tháng) và 0,56 - 7,8 % (ở lứa tuổi trên 6 tháng).
Theo Trịnh Văn Thịnh (1963) [24], kết quả điều tra ở các lò mổ các tỉnh, tỉ
lệ nhiễm giun T. suis ở lợn như sau: Nghĩa Lộ: 40,3 % ; Quảng Ninh: 33,7 % ;
Thanh Hóa: 12,5 %; Hải Hưng: 15,1 % ; Nam Hà: 33,3 %; Hà Bắc: 27,3 %.
* Phương thức chăn nuôi
Giun tròn T. suis là loài phát triển trực tiếp nên tỷ lệ nhiễm trong đàn
lợn là rất cao, lên đến 100 %. Còn những loài giun sán phải qua ký chủ trung
9
gian thì tỷ lệ nhiễm phụ thuộc vào điều kiện đất đai, thức ăn trồng ở nước hay
ở cạn, sự tồn tại của ký chủ trung gian và điều kiện vệ sinh chăn nuôi (dẫn
theo Trịnh Văn Thịnh và cs, 1978) [26].
Mổ khám 57 lợn và xét nghiệm 1000 mẫu phân lợn tại xã Yên Nguyên
(Tuyên Quang) cho biết: Tỷ lệ nhiễm các loài giun tròn ở lợn thả rông là 47 %
(dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs, 1978) [26]. Bornay F. J. và cs (2003) [47] cho
biết: Kiểm tra 5 trại lợn chăn nuôi theo phương thức công nghiệp tại tỉnh Alicante
(Tây Ban Nha) thấy tỷ lệ nhiễm T. suis là 11 %.
2.1.2.3. Cơ chế sinh bệnh

* Đường xâm nhập
Bệnh lây nhiễm qua đường tiêu hóa do lợn nuốt phải trứng cảm nhiễm lẫn
trong thức ăn, nước uống (Phạm Sỹ Lăng và cs, 2009 [17]). Nguyễn Thị Kim Lan
và cs (2012) [13] cho biết: Bệnh giun T. suis lây nhiễm trực tiếp không qua vật chủ
trung gian. Trứng cảm nhiễm xâm nhập vào cơ thể vật chủ qua đường tiêu hóa do
lợn ăn phải thức ăn, nước uống có lẫn trứng giun T. suis.
* Đường bài xuất mầm bệnh
Lợn mắc bệnh sau một thời gian bài xuất trứng theo phân ra ngoài ngoại
cảnh. Vì vậy, trứng được phát triển rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá trình phát triển
bắt đầu để tạo thành trứng cảm nhiễm (trứng có ấu trùng bên trong).
* Vị trí gây bệnh
Giun T. suis ký sinh và gây bệnh ở ruột già lợn, đặc biệt ở manh tràng
và kết tràng.
* Quá trình sinh bệnh
Phần đầu của giun T. suis nhỏ, dài, cắm sâu vào niêm mạc ruột gây tổn
thương, mở đường cho vi khuẩn gây bệnh vào cơ thể vật chủ. Ngoài ra, trong quá
trình sinh sống, giun T. suis thải ra cặn bã và độc tố làm con vật trúng độc.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9]: Giun T. suis lấy dịch tổ
chức niêm mạc ruột để sống gây ra hiện tượng xuất huyết, viêm ruột và dẫn
đến ỉa chảy.
Ngoài tác động chiếm đoạt dinh dưỡng của lợn, giun T. suis còn gây tác
hại nặng nề cho lợn.
10
- Tác hại cơ giới: Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [9],
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], phần đầu của giun T. suis cắm sâu vào
thành ruột gây tổn thương, làm niêm mạc ruột già bị viêm và xuất huyết,
gây rối loạn tiêu hóa, làm cho lợn có hội chứng hồng lỵ.
- Tác hại mang trùng: Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3], giun
T. suis ký sinh gây tổn thương, tạo điều kiện cho các nhân tố khác xâm
nhập. Nhân tố gây bệnh kế phát là xoắn khuẩn và phẩy khuẩn.

- Tác hại tiết độc tố: Độc tố là những sản phẩm mà giun T. suis bài tiết
ra làm cho ký chủ trúng độc, gầy còm, thiếu máu, gây rối loạn tiêu hóa.
2.1.2.4. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích
* Triệu chứng lâm sàng
Theo Skrjabin K.I. (1979) [36], triệu chứng bệnh giun T. suis phụ thuộc
vào cường độ nhiễm. Khi nhiễm nặng lợn có biểu hiện da khô, xù lông, ỉa chảy rồi
bị táo bón… Độc tố do T. suis tiết ra có tác dụng gây bệnh mạnh, làm cho vi
nhung mao và các tế bào biểu mô mất đi tính chất cấu tạo và bị phân hủy.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [15]: Phần đầu của giun T. suis cắm
sâu vào thành ruột để hút chất dinh dưỡng gây tổn thương, tạo điều kiện cho
viêm ruột già nhiễm khuẩn. Các tổn thương cũng có thể gây xuất huyết ruột
già, nên lợn có hội chứng lỵ.
Lợn trưởng thành nhiễm giun T. suis thường không thể hiện rõ các triệu
chứng lâm sàng. Lợn con ở các lứa tuổi 2 - 4 tháng bị nhiễm giun xuất hiện
các dấu hiệu: Ỉa chảy, lúc đầu phân lỏng sau phân sệt có nhiều dịch nhày như
mũi, lẫn máu. Mỗi lần thải phân lợn bệnh phải cong lưng để rặn, nhưng phân
chỉ ra rất ít. Các triệu chứng trên giống như lợn bị kiết lị. Nếu không được
điều trị kịp thời lợn con sẽ bị kiệt sức rồi chết sau 6 - 10 ngày. Lợn bị bệnh
mãn tính còi cọc, thiếu máu, tăng trọng giảm.
Theo Trần Thị Dân (2008) [3], ruột già khác ruột non ở chỗ: Không có
nhung mao nhưng có vi nhung mao. Về tổng quát, ruột non là nơi tiết nước
còn ruột già là nơi hấp thu nước. Ruột già nguyên cẹn có thể hấp thu bù trừ
nước khi ruột non tiết nhiều. Tuy nhiên những tổn thương ở ruột già do tác
động của giun T.suis kí sinh sẽ làm giảm khả năng tái hấp thu nước, dẫn đến
tiêu chảy.
11
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [13]: Khi nhiễm nhẹ thì triệu trứng
không rõ, khi nhiễm nặng thì con vật ăn kém, gầy yếu, thiếu máu, tiêu chảy,
trong phân có lẫn máu và những mảnh niêm mạc ruột bị bong tróc. Con vật có
khi bị kiết lỵ, đi ngoài liên tục nhưng mỗi lần đi rất ít phân, phân lẫn máu và

chất nhày. Bệnh thường thấy ở lợn con, lợn mẹ và lợn 6 tháng tuổi trong giai
đoạn vỗ béo thì rất ít bị bệnh.
* Bệnh tích
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [27], khi lợn bị nhiễm bệnh giun T.
suis nặng, toàn bộ manh tràng xuất huyết màu hồng sẫm. Niêm mạc ruột bong ra.
Phạm Sỹ Lăng (2009) [17] mổ lợn bệnh thấy: Niêm mạc ruột bị viêm, xuất
huyết. Trên niêm mạc có nhiều giun trưởng thành cắm sâu vào niêm mạc ruột.
Đào Trọng Đạt và cs (1996) [3] cho biết: Về mặt tổ chức học, giun
T. suis ký sinh gây viêm niêm mạc, thâm nhiễm tế bào, hình thành nhiều
vết loét và tạo nhiều niêm dịch.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [13]: Lợn bị bệnh giun T. suis xác
chết gầy, có nhiều giun T. suis ở ruột già (nhất là manh tràng). Một số giun
T. suis vẫn cắm sâu vào niêm mạc ruột, phải kéo mạnh mới lấy ra được.
Trên niêm mạc ruột có những lỗ loét to bằng hạt đậu xanh. Khi bị nhiễm
nặng, toàn bộ ruột già có giun T. suis ký sinh dày đặc, niêm mạc ruột sần
sùi, xuất huyết, lớp chất nhầy trên niêm mạc có màu hồng sẫm. Niêm mạc
ruột có thể bị bong tróc từng mảng.
2.1.2.5. Chẩn đoán bệnh giun T. suis ở lợn
* Với gia súc sống
Để chẩn đoán bệnh có thể áp dụng hai phương pháp là chẩn đoán lâm sàng
kết hợp với đặc điểm dịch tễ và chẩn đoán trong phòng thí nghiệm. Chẩn đoán
trong phòng thí nghiệm lại gồm: Nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.
Nghiên cứu định tính nhằm xác định có hoặc không có giun T. suis ký sinh. Đây
là phương pháp thông dụng để đánh giá tình hình nhiễm giun T. suis ở lợn.
Nghiên cứu định lượng nhằm xác định số lượng trứng trong phân để đánh giá
mức độ nhiễm và hiệu quả của một số thuốc tẩy giun.
Phương pháp chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ: Những
triệu chứng lâm sàng cần chú ý là lợn ăn kém, gầy yếu, da khô, lông xù, ỉa chảy…
12
Về đặc điểm dịch tễ học, cần căn cứ vào lứa tuổi mắc bệnh, mùa vụ, tình

trạng vệ sinh thú y… Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những đặc điểm nói trên để
chẩn đoán thì sẽ không chính xác. Bởi vì các bệnh ký sinh trùng thường có những
triệu chứng lâm sàng tương tự nhau (rối loạn tiêu hóa, thể trạng gầy, da khô, lông
xù…). Vì vậy, để chẩn đoán chính xác bệnh phải tiến hành xét nghiệm phân tìm
trứng giun T. suis (theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999) [9].
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2005) [15], có 4 phương pháp xét nghiệm
phân: Phương pháp trực tiếp, phương pháp Fullerborn, phương pháp Darling
và phương pháp Cherbovick.
- Phương pháp trực tiếp
Dùng đũa thủy tinh lấy 1 mẫu phân bằng hạt đậu của con vật định xét
nghiệm, để mẫu phân lên phiến kính sạch, nhỏ 1 - 2 giọt glycerin 50 % vào
mẫu phân. Nghiền nát phân trong glycerin và gạt cặn bã ra 2 đầu phiến kính.
Phân được dàn mỏng trên phiến kính và kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm
trứng giun tròn.
- Phương pháp phù nổi (Fulleborn)
Nguyên lý: Dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng của dung dịch muối
NaCl bão hòa lớn hơn tỷ trọng của trứng giun. Trứng sẽ nổi lên trên, ta có thể
tìm thấy trứng giun dưới kính hiển vi, độ phóng đại 100 hoặc 400.
Cách pha dung dịch muối bão hòa: Cho 380 g muối NaCl vào 1 lít
nước sôi, khuấy đều đến khi muối không tan được nữa, khi để nguội trên bề
mặt có lớp muối kết tinh là được. Lọc qua vải màn hoặc bông, bỏ cặn.
Cách xét nghiệm phân: Dùng đũa thủy tinh lấy 1 mẫu phân khoảng 5 - 10
gam của con vật cần xét nghiệm, chẩn đoán. Để phân vào cốc (nên dùng cốc
nhựa) cho tiếp nước muối bão hòa vào cốc với lượng thể tích gấp 10 lần khối
lượng phân. Dùng đũa thủy tinh khuấy nát phân và lọc qua phễu lọc vào lọ tiêu
bản. Cặn bã bỏ đi, dung dịch lọc được giữ lại.
Sau khi đã để yên từ 15 - 20 phút, dùng vòng vớt lớp váng phía trên
mặt dung dịch để lên phiến kính sạch, đậy lá kính và kiểm tra dưới kính hiển
vi tìm trứng giun tròn.
13

- Phương pháp Darling
Nguyên lý: Dựa trên sự chênh lệch về tỷ trọng giữa dung dịch NaCl bão
hòa và trứng giun, đồng thời lợi dụng lực ly tâm để phân ly trứng giun T. suis
nhẹ hơn ra khỏi phân. Khi đó, dùng vòng sắt vớt lớp váng phía trên ta sẽ tìm
được trứng giun.
Cách xét nghiệm: Lấy khoảng 5 - 10 gam phân của con vật cần chẩn
đoán, để vào một cốc nhựa. Cho vào đó một lượng nước sạch gấp khoảng 10 lần
thể tích khối lượng phân, dùng đũa thủy tinh khuấy tan phân và lọc qua phễu lọc
vào các ống ly tâm, cặn bã bỏ đi. Sau đó ly tâm dung dịch phân với tốc độ 3000
vòng /phút từ 3 - 5 phút. Đổ bỏ lớp nước phía trên và giữ lại cặn trong các ống ly
tâm. Sau đó cho nước muối bão hòa váo ống ly tâm bịt miệng ống và lắc đều cho
cặn bã hòa đều trong dung dịch, tiến hành li tâm lần 2 với thời gian và tốc độ
như trên, dùng vòng vớt để vớt lớp váng nổi trên bề mặt, đặt lên các phiến kính
sạch, đậy lá kính, kiểm tra dưới kính hiển vi tìm trứng giun.
- Phương pháp Cherborvich: Phương pháp này hoàn toàn giống phương pháp
Darling, chỉ khác dung dịch bão hòa sử dụng là MgSO
4
.
Thường dùng để chẩn đoán, xét nghiệm phân tìm trứng giun tròn có tỷ
trọng cao (khi có ấu trùng bên trong). Cách tiến hành tương tự như phương
pháp Darling nhưng dùng dung dịch MgSO
4
bão hòa có tỷ trọng cao hơn nước
muối (NaCl) bão hòa để làm nổi những trứng đã hình thành ấu trùng bên
trong khi theo phân ra ngoài.
* Với lợn chết
Theo Chu Thị Thơm và cs (2006) [31], đối với nhiều bệnh giun sán,
phương pháp chẩn đoán khi con vật chết là chính xác nhất. Việc chẩn đoán
bệnh giun T. suis được tiến hành qua phương pháp mổ khám, kiểm tra bệnh
tích ở ruột già và tìm giun T. suis. Khi phát hiện nhẹ nhàng lấy giun ra và để

chết tự nhiên trong nước sạch, sau đó bảo quản trong dung dịch Barbagallo
(dung dịch Barbagallo gồm 30 ml Formol; 7,5 g NaCl; nước cất 1000 ml) và
có ghi nhãn đầy đủ.
14
2.1.2.6. Biện pháp phòng và trị bệnh giun T. suis cho lợn
* Biện pháp phòng bệnh
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [18], biện pháp hữu hiệu để phòng
chống bệnh giun sán ở gia súc là biện pháp phòng trừ bệnh tổng hợp, nghĩa
là ở những vùng sinh thái nhất định, đồng thời sử dụng nhiều biện pháp có
hiệu quả đối với tất cả các giai đoạn phát triển của giun sán, ở môi trường
cũng như trong cơ thể vật chủ.
Hagsten Dr. (2000) [35] cho rằng, thực chất của bất kỳ chương trình khống
chế giun sán nào thì việc phá vỡ vòng đời của chúng là cần thiết. Và điều này phụ
thuộc trước hết vào sự ô nhiễm nơi đó. Mức độ ô nhiễm cao là những nơi lợn nuôi
trong tình trạng vệ sinh thú y kém, ít sử dụng các thuốc phòng và trị bệnh cho lợn.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], để phòng bệnh T. suis cần thực
hiện tốt các biện pháp sau:
Vệ sinh chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng nuôi để hạn chế sự
phát tán trứng giun, kết hợp với sử dụng hóa chất phun vào chuồng trại theo định
kỳ như: Dung dịch NaOH 2 %, Cresyl 3 %, nước vôi 10 % để diệt trứng giun.
Việc phòng bệnh giun T. suis nói riêng và các bệnh ký sinh trùng nói
chung có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả trong việc
phòng ngừa bệnh T. suis, góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi lợn, giảm
thiệt hại kinh tế chúng ta cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
- Vệ sinh chuồng trại, thiết bị sạch sẽ. Không sử dụng chung các dụng
cụ chăn nuôi khi chưa qua khử trùng. Cơ sở chăn nuôi phải được xây ở nơi
cao ráo, có nhiều ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp. Chuồng trại khi xây dựng
phải đảm bảo đông ấm, hè mát.
- Ở các cở sở bị ô nhiễm, có thể sử dụng những hóa dược đặc hiệu tẩy
dự phòng cho lợn nái trước khi sinh và cho lợn từ 2 - 4 tháng.

- Chất thải từ đàn gia súc phải được thu gom ủ phân để diệt trứng giun.
Hiện nay có hai phương pháp ủ đó là ủ yếm khí (biogas) và ủ hiếu khí (ủ phân
compost), khi ủ phân nhiệt độ trong hố ủ có thể lên đến 60
o
C làm cho trứng
giun sán bị chết.
- Thường xuyên có biện pháp tiêu diệt côn trùng, chuột và động vật hoang dã
vì chúng là những động vật môi giới mang mầm bệnh phát tán trong tự nhiên.
15
- Không nuôi chung lợn ở nhiều nứa tuổi khác nhau trong cùng một
khu vực.
- Thức ăn phải đảm bảo về chất lượng, nước uống sạch sẽ.
- Có kế hoạch tẩy giun T. suis định kỳ cho lợn.
Tất cả các nghiên cứu trước đây cho thấy việc phòng ngừa các bệnh
giun tròn cho lợn gồm: Diệt giun trong cơ thể lợn, mục đích làm cho con vật
khỏe mạnh và ngăn ngừa ngoại cảnh không bị ô nhiễm; diệt trứng giun ở
ngoại cảnh mục đích đề phòng cho lợn không bị nhiễm bệnh.
* Biện pháp trị bệnh
Nguyễn Xuân Bình và cs (1996) [1] cho biết, hiện nay trên thị trường
có nhiều thuốc điều trị bệnh giun T. suis. Tuy nhiên, tác giả khuyên nên
dùng một trong các hóa dược sau để tẩy giun T. suis cho lợn:
- Levamisol: Liều 7,5 mg /kg TT
- Mebendazol: Liều 5 mg /kg TT
- Ivermectin: Liều 0,3 mg /kg TT
Trong thời gian điều trị cần chăm sóc, nuôi dưỡng tốt.
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [18], để tẩy giun T. suis có hiệu quả
cần thực hiện tốt một số yêu cầu
sau:
+ Trước tiên phải chẩn đoán bệnh chính xác. Sau đó tẩy cho những lợn
bị nhiễm nặng và có biểu hiện lâm sàng. Với mục đích phòng bệnh thì nên

tẩy cho cả đàn vì có những con đang mang mầm bệnh nhưng chưa phát hiện
được.
+ Xác định thời điểm tẩy thích hợp. Tốt nhất là tẩy vào mùa xuân
(tháng 3 - 4) và mùa thu (tháng 8 - 9). Lượng phân lợn thải ra phải đem ủ
nhiệt sinh học để diệt mầm bệnh, sau 15 - 20 ngày kiểm tra để đánh giá hiệu
quả của thuốc.
Theo Phan Lục và Nguyễn Đức Tâm (2000) [19], Levamisol tên
thương phẩm là Tramisol hay Ripercol, thuốc có thể trộn vào thức ăn hay
pha nước uống có phổ tác dụng rộng với giun tròn. Ngoài ra, Fenbendazol
tên thương phẩm là Safe Guard, thuốc có thể trộn vào thức ăn dùng liên tục
trong 3 ngày, không tồn dư trong cơ thể, có hiệu quả mạnh đối với giun T.
suis.
16
Theo Phạm Đức Chương và cs (2003) [2], các thuốc dùng để điều trị
bệnh giun tròn có hiệu quả cao như:
Levamisole: Thuốc có tác dụng đối với cả ấu trùng và giun trưởng
thành. Hiệu lực tẩy giun T. suis là 72 - 99 %.
Ivermectin: Tác dụng trên phổ rộng đối với nhiều loại giun tròn. Tiêm
dưới da liều 0,3 mg /kg TT lợn, có tác dụng làm giảm 94 - 100 % các giai
đoạn chưa trưởng thành của giun T. suis.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], có thể dùng một trong các hóa dược
sau để tẩy giun T. suis cho lợn:
Mebenvet: Dùng liều 50 mg /kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn một lần.
Fenbendazol: Liều 30 mg /kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn từ 6 - 15
ngày.
Levamisol: Liều 7,5 mg /kg TT, trộn thức ăn hoặc tiêm cho lợn.
Febentel: Liều 20 mg /kg TT thuốc dùng dạng uống.
Ivermectin: Liều 0,2 - 0,3 mg /kg TT, thuốc dùng tiêm cho lợn 2 lần,
cách nhau 1 - 2 ngày.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2012) [13] , việc dùng thuốc tẩy giun

phải đạt được những yêu cầu sau:
Trước hết phải tiêu diệt ký sinh trùng, dùng thuốc tẩy trùng cho vật
nuôi. Chữa cho con vật ốm khỏi bệnh và đảm bảo cho ngoại cảnh không bị
nhiễm bệnh giun sán. Tránh mầm bệnh nhiễm vào những con vật khác. Phải
dùng thuốc tẩy giun sán từ lúc nó chưa trưởng thành, chưa đẻ trứng và phải
tiêu độc thật tốt phân có trứng giun.
Dùng thuốc tẩy giun sán thì phải dùng thuốc hướng ký sinh trùng, tức
là độc với giun sán mà không độc với ký chủ, nên chọn thuốc có hiệu lực nhất
đối với ký sinh trùng, đồng thời ít nguy hiểm nhất đối với ký chủ, rẻ tiền và
dễ dùng nhất.
Ngăn chặn không cho con vật ốm tái nhiễm, chăm sóc, nuôi dưỡng tốt,
bổ sung đầy đủ dinh dưỡng, đưa con vật ra khỏi nơi có bệnh, tiêu độc chỗ đó
trước khi cho con vật nuôi vào lại.
Hướng mới trong việc chữa bệnh ký sinh trùng là tìm những thuốc có
hiệu lực chống được nhiều loài ký sinh trùng như: Mebendazole có tác dụng
17
tẩy nhiều loài giun tròn. Có các loại thuốc điều trị giun tròn như:
Menbendazol; Levamisol; Ivermectin; Febentel; Oxybendazol.
2.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Năm 1975 - 1979 điều tra ở 10 địa điểm thuộc 10 vùng địa lý khác nhau
trong những điều kiện chăn nuôi khác nhau trên khoảng 2000 con lợn bằng
cách xét nghiệm phân cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đầu gai
(Macracanthoruynobis hirudinageus) là 0,18 %, giun T. suis là 2,3 %, giun
đũa (Ascaris suum) là 56 %, các loài giun xoăn (Strongilata) là 3,25 %. Tuổi
lợn nhiễm các loại giun tròn nặng nhất là từ 2 - 4 tháng tuổi trên một tỷ lệ
nhiễm chung là 49 - 65,9 %. Qua mổ khám thấy các loài giun sán chính ở lợn
là: Ascaris suum, Metastrongylus enlongatus, T. suis, Oesophagostomum
dentatum (Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh, 1975 [22]).
Theo Nguyễn Đăng Khải (1996) [7] , tỷ lệ nhiễm T. suis ở 7 vùng kinh tế

như sau:
1. Trung du và miền núi bắc bộ
+ Trung du: 29,8 %
+ Miền núi: 27,8 %
2. Đồng bằng sông Hồng: 24,8 %
3. Bắc trung bộ: 13,9 %
4. Nam trung bộ
+ Đồng bằng: 17,5 %
+ Miền núi: 34,7 %
5. Tây Nguyên: 20,8 %
6. Tây Nam Bộ: 9,4 %
7. Đông Nam Bộ: 13,1 %
Ở một số tỉnh phía Nam, Lương Văn Huấn và cs (1990) [5], ở các tỉnh:
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, lợn nhiễm giun T. suis với tỷ lệ 14 %;
Quảng Nam, Đà Nẵng 8,75 %; Quảng Ngãi, Bình Định 27,5 %; Phú Yên, Khánh
Hoà 8,3 %; Lâm Đồng 10 %; Đồng Nai 26,3 %; Bình Dương, Bình Phước 10 %;
18
Tây Ninh 8,6 %; thành phố Hồ Chí Minh 39,0 %; Long An 11 %, Tiền Giang 2 %;
Cần Thơ, Sóc Trăng 8,69 - 30 %.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [14], kết quả điều tra mổ khám ở 7
tỉnh miền Bắc và miền Trung như sau: Tỷ lệ nhiễm giun đũa từ 13 - 43 % với
cường độ nhiễm trung bình từ 3,0 - 21,5 con /lợn. Tỷ lệ nhiễm giun T. suis từ
12,5 - 40,3 %. Tác giả còn cho biết: Do giun T. suis lợn và loài giun tóc gây
bệnh cho người có rất nhiều điểm giống nhau về mặt hình thái. Do vậy, bệnh
này ở lợn có thể lây sang người, người nhiễm bệnh một cách tự nhiên do nuốt
trứng giun T. suis của lợn chứa ấu trùng. Sau khi vào ruột người, ấu trùng
phát triển thành giun T. suis trưởng thành, cư trú ở ruột và gây bệnh giun tóc
ở người. Sau khi trứng giun T. suis được bài xuất ra ngoài qua phân người có
khả năng gây nhiễm lại cho lợn (tỷ lệ trứng phát triển chỉ có 11 % so với
trứng của lợn có tỷ lệ phát triển là 86 %).

Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2006) [10], khi nghiên cứu T. suis và các loại
ký sinh trùng đường tiêu hóa lợn tại Thái Nguyên thấy: Đàn lợn nuôi ở Thái
Nguyên nhiễm T. suis, Oesophagostomum sp. và Fasciolopsis buski. Trong đó, lợn
bình thường nhiễm T. suis 23,01 %; Oesophagostomum 20,86 %; Fasciolopsis
buski 18,71 %; tỷ lệ nhiễm tương ứng ở lợn tiêu chảy là 27,01 %; 23,85 % và 16,95
%, mức độ nhiễm T. suis ở lợn tiêu chảy lớn hơn lợn bình thường.
Giun sán ở đường tiêu hóa có vai trò rõ rệt trong hội chứng tiêu chảy ở lợn
sau cai sữa. Lợn sau cai sữa tại Thái Nguyên mắc tiêu chảy là 11,81 %. Ở lợn bình
thường và lợn bị tiêu chảy đều nhiễm các loại Ascaris suum,
Oesophagostomum
sp., Strongyloides, Fasciolopsis buski và T. suis nhưng ở lợn tiêu chảy nhiễm tỷ lệ
cao hơn và mức độ nặng hơn (theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2009 ) [12].
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Hale O. M. và Stewart T. B. (1979) [39], đã tiến hành thí nghiệm như
sau: 48 lợn ở 83 ngày tuổi có khối lượng trung bình 25,7 kg /con. Căn cứ vào
tính biệt và khối lượng ban đầu, số lợn này được chia thành 4 nhóm, mỗi
nhóm 12 con. Mỗi nhóm lợn được gây nhiễm bằng một trong 4 mức như sau:
Nhóm 1 : 0 trứng giun T. suis /kg TT
Nhóm 2 : 550 trứng giun T. suis /kg TT
Nhóm 3 : 1100 trứng giun T. suis /kg TT
19

×