Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh do giun tròn oesophagostomum spp gây ra trên lợn tại huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn và dùng thuốc điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.72 KB, 35 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
- : Đến
% : Phần trăm
< : Nhỏ hơn
> : Lớn hơn
g : gam
Cs : Cộng sự
kg : Kilogam
Nxb : Nhà xuất bản
PTCN : Phương thức chăn nuôi
O. dentatum : Oesophagostomum dentatum
ml : mililit
1
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nước ta là một nước nông nghiệp, trong đó ngành chăn nuôi đã và đang
chiếm một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu
nền kinh tế nói chung. Chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong ngành chăn
nuôi gia súc ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Chăn nuôi lợn cung
cấp một khối lượng lớn thực phẩm có giá trị cho con người. Chăn nuôi lợn phát
triển không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm cho xã hội mà còn cung cấp nguyên
liệu cho ngành công nghiệp chế biến và phân bón cho ngành trồng trọt.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính
sách nhằm thúc đẩy ngành chăn nuôi trong đó có ngành chăn nuôi lợn phát triển.
Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra trên đàn lợn, gây nên những thiệt
hại đáng kể cho ngành chăn nuôi. Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có
điều kiện thuận lợi cho nhiều loài ký sinh trùng phát triển, ký sinh và gây bệnh
cho vật nuôi. Đây chính là vấn đề khó khăn lớn cho ngành chăn nuôi nói chung
và chăn nuôi lợn nói riêng trong công tác phòng trừ và điều trị bệnh ký sinh
trùng. Bệnh ký sinh trùng không gây ra các ổ dịch lớn như bệnh truyền nhiễm,


song bệnh ký sinh trùng thường diễn ra ở thể mãn tính, làm lợn sinh trưởng và
phát triển chậm, tiêu tốn thức ăn tăng, các chi phí như thuốc điều trị, công chăm
sóc nuôi dưỡng cũng tăng.
Trong các bệnh ký sinh trùng, bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp.
gây ra ở lợn phân bố ở hầu hết các vùng miền đặc biệt là ở các tỉnh miền núi
phía Bắc. Tuy không làm cho lợn chết nhiều nhưng giun tròn
Oesophagostomum spp. làm cho lợn gầy yếu, giảm tăng trọng, gây thiệt hại
đáng kể về kinh tế cho người chăn nuôi lợn.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở Bắc Kạn phát triển khá mạnh.
Tuy nhiên, việc phòng trị bệnh ký sinh trùng, đặc biệt là bệnh do giun tròn
Oesophagostomum spp. còn ít được chú ý. Xuất phát từ nhu cầu cấp bách của
thực tế chăn nuôi lợn ở tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
một số đặc điểm dịch tễ bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp. gây ra trên
lợn tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn và dùng thuốc điều trị ”.
2
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh do giun tròn Oesophagostomum
spp. gây ra ở lợn tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn và biện pháp phòng trị.
1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
1.3.1. Ý nghĩa khoa học.
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ bệnh
do giun tròn Oesophagostomum spp. gây ra góp phần cho việc nghiên cứu các
biện pháp phòng và điều trị Oesophagostomosis ở lợn, từ đó đề xuất quy trình
phòng chống bệnh cho lợn.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi cách
phòng trị bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp. gây ra, nhằm hạn chế tác
hại cho lợn, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi và thúc đẩy ngành chăn
nuôi lợn phát triển.
PHẦN 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Oesophagostomum spp.
2.1.1.1. Vị trí của giun kết hạt Oesophagostomum trong hệ thống phân loại
động vật học.
Theo Skrjabin và cs (1963)[30], Phan Thế Việt và cs (1977)[28], giun kết hạt
Oesophagostomum ở lợn có vị trí trong hệ thống phân loại động vật như sau:
Lớp: Nematoda Rudolphi, 1808.
Phân lớp: Secerentea Chitwood, 1933 .
Bộ: Rhabditida Chitwood, 1933.
Phân bộ: Strogylata Railliet, 1916.
Họ: Trichonematidae Cram, 1927.
Phân họ: Oesophagostomatinae Railliet et Henr, 1913.
Giống : Oesophagostomum Molin, 1861.
3
Loài : Oesophagostomum dentatum Rudolphi, 1803.
Loài : Oesophagostomum longicaudum Goodey, 1925.
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo giun kết hạt.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006)[12]: giun O. dentatum là loài giun tròn nhỏ,
không có cánh đầu. Giun đực có kích thước 7,6 – 8,8 x 0,35 – 0,38mm, có túi đuôi,
có hai gai giao hợp dài 0,792 – 1,037 mm. Giun cái dài 7,8 – 12,5 x 0,38 – 0,43
mm ; đuôi dài 0,405 – 0,430 mm. Âm hộ ở trước hậu môn, cách hậu môn 0,208 –
0,388 mm, dài 0,1 – 1,15 mm hơi xuyên vào cơ quan thải trứng. Trứng hình ovan,
kích thước 0,056 – 0,071 x 0,032 – 0,045 mm.
O. dentatum ký sinh ở ruột già lợn, không có cánh đầu. Túi miệng rộng, có 9 rua
ngoài và 18 rua trong, túi đầu to, có gai ở hai bên chỗ phình to của thực quản. Giun
đực dài 8 - 9 mm x 0,37 mm có túi đuôi. Giun cái dài 8 - 11,3 mm, đuôi dài 0,117 -
0,374 mm. Âm hộ ở trước hậu môn, cách hậu môn 0,208 - 0,388 mm (Theo Phạm
Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Trương Văn Dung (2005)[11].
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012)[9]: O. dentatum không có cánh đầu. Túi miệng

nông, có 9 tua ngoài và 18 tua trong. Túi đầu to, gai cổ ở hai bên chỗ phình to của
thực quản. Giun đực dài 8 - 9 mm, rộng 0,14 - 0,37 mm, có túi đuôi. Có hai gai giao
hợp bằng nhau, dài 1,0 - 1,14 mm. Giun cái dài 8 - 11,2 mm. Âm hộ ở trước hậu
môn. Âm đạo dài 0,1 - 0,15 mm, hơi xuyên vào cơ quan thải trứng.
Hình 1.1. Loài O.
dentatum

(Rudolphi, 1803)
1, 2. Phần đầu cơ thể;
3. Phần đuôi cá thể
cái; 4. Mút và gốc gai
giao phối;
5. Cơ quan điều chỉnh;
6. Túi đuôi cá thể đực;
7. Nón sinh dục.
(Nguồn: Phan Thế
Việt và cs, 1977)[28]
4
2.1.1.3. Vòng đời giun kết hạt.

Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012)[9]: trứng theo phân ra ngoài, gặp nhiệt độ thích
hợp 25 - 27
0
C, sau 10 - 17 giờ nở thành ấu trùng, qua hai lần lột xác, sau 7 - 8 ngày
phát triển thành ấu trùng gây nhiễm. Ấu trùng lẫn vào thức ăn, nước uống. Khi ký
chủ nuốt phải ấu trùng này, tới ruột thì ấu trùng chui vào niêm mạc ruột tạo thành
những u kén. Trong u kén, ấu trùng lột xác lần thứ 3, tới ngày 6 - 8 thì thành ấu trùng
kỳ IV, sau đó rời khỏi niêm mạc ruột vào xoang ruột và lột xác lần nữa thành giun
trưởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời giun kết hạt cần 32 - 43 ngày.
Phan Lục (2006)[20] cho biết: ấu trùng O. dentatum khi vào ruột lợn chui sâu

vào niêm mạc ruột già và hình thành hạt (u kén), trong có ấu trùng. Sau 23 ngày,
ấu trùng chui ra khỏi kén, vào xoang ruột và phát triển thành giun trưởng thành
sau 1,5 – 2 tháng. Tuổi thọ của giun từ 8 – 10 tháng.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009)[13]: giun trưởng thành ký sinh trong ruột già
lợn, đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài môi trường. Trứng gặp điều kiện nhiệt độ
25 - 27
0
C, sau 10 - 17 giờ nở thành ấu trùng. Ấu trùng I sau 24 giờ, ở nhiệt độ
22 - 24
0
C phát dục thành ấu trùng II, dài 0,44 – 0,64 mm. Ấu trùng II phát triển
đƣợc hai ngày thì thành ấu trùng gây nhiễm III. Ấu trùng này lẫn trong thức ăn,
nước uống vào cơ thể ký chủ. Khi tới ruột, ấu trùng chui sâu vào niêm mạc ruột
tạo thành những u kén và phát triển thành giun trưởng thành ở ruột già. Vòng
đời giun kết hạt có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:
5
O. dentatum
(Ruột già, kết tràng)
Phân
Trứng
t
0
, A
0
,PH
Ấu trùng kỳ I
Ấu trùng kỳ II
Ấu trùng kỳ III
2.1.1.4. Sự phát triển và sức đề kháng của trứng giun kết hạt lợn ở ngoại cảnh
Ấu trùng O. dentatum có sức đề kháng tốt với nhiệt độ, để ở -19

0
C đến -29
0
C
qua 10 ngày vẫn sống và chết cũng để ở nhiệt độ -19
0
C đến -29
0
C 31 ngày ấu
trùng chết, để ở nhiệt độ phòng bình thường ấu trùng có thể sống 1 năm. Ấu
trùng rất nhạy cảm với khô ráo. (Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1997)[10])
Theo Phan Địch Lân và cs (2002)[14], Phan Lục (2006)[20], Phạm Sỹ Lăng và
cs (2009)[13]: trứng giun kết hạt theo phân ra ngoài môi trường, gặp điều kiện
nhiệt độ 25 - 27
0
C, sau 10 – 17 giờ nở thành ấu trùng .
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)[7] cho biết: ở nhiệt độ 5 - 9
0
C trứng ngừng
phát triển, nhiệt độ 35
0
C trứng bị chết, gặp điều kiện thích hợp trứng phát triển
thành ấu trùng gây nhiễm sau trên dưới một tuần.
Archie (2000)[29] nhận xét: sự phát triển, khả năng sống sót của trứng và ấu
trùng cảm nhiễm ở môi trường trước hết phụ thuộc vào khí hậu. Gặp nhiệt độ và
ẩm độ thích hợp, sau 5 - 6 ngày trứng phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm. Khi
nhiệt độ thấp trứng giun nở và phát triển chậm hơn.
2.1.2. Đặc điểm dịch tễ của bệnh.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1963)[23], Phan Thế Việt (1977)[28], Bùi Lập (1979)
[16], Phạm Văn Khuê (1982)[5], Nguyễn Đăng Khải (1996)[4], Vũ Tứ Mỹ

(1999)[21], Phan Lục (2006)[20], Phạm Sỹ Lăng và cs (2009)[13]: Bệnh giun
kết hạt là một trong các bệnh giun tròn phổ biến gây hại cho lợn, phân bố rộng
trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, bệnh có ở tất cả các vùng sinh thái từ Bắc đến
Nam.
Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1997)[10]: Tỷ lệ nhiễm giun kết hạt ở lợn tăng
dần theo tuổi do lợn con có sức đề kháng tốt với giun kết hạt, nên tỷ lệ nhiễm
thấp đối với lợn con, có thể do nguyên nhân: Tuy ấu trùng giun gây nhiễm vào
lợn con nhưng không gây ra những u kén ở ruột, ngược lại đối với lợn lớn khi ấu
trùng gây nhiễm thì bệnh rất nặng và tren thành ruột có rất nhiều u kén. Ngoài ra
do thời gian sống của O. dentatum trong cơ thể lợn tương đối dài từ 8 - 10
tháng.
6
Ấu trùng kỳ IV
(Trong u kén ở
thành ruột)
Gia súc nuốt phải
Ấu trùng kỳ IV
Ấu trùng kỳ V
(Phát triển trong xoang
ruột)
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)[7] cho biết, tỷ lệ nhiễm giun kết hạt theo tuổi
lợn như sau:
Lợn < 2 tháng tuổi: 46,9%
Lợn 3 - 4 tháng tuổi: 67,4%
Lợn 5 - 6 tháng tuổi: 72,1%
Lợn > 8 tháng tuổi: 73,3%
Lợn con có tỷ lệ nhiễm giun kết hạt thấp và cường độ nhiễm nhẹ, ở lợn con bị
nhiễm bệnh không có nhiều u kén ở ruột. Ở lợn lớn tỷ lệ nhiễm cao và cường độ
nhiễm nặng. Khi lợn lớn bị bệnh có rất nhiều u kén ở ruột.
Phan Lục và cs (2000)[19] nhận xét: lợn nuôi thả rông nhiễm hầu hết các loại ký

sinh trùng. Đối với lợn nuôi nhốt, gần như rất ít nhiễm những ký sinh trùng có
vật chủ trung gian. Loài giun Oesophagostomum spp. có thể hoàn thành vòng
đời ngay trong chuồng đối với lợn nuôi nhốt, nhưng khả năng này phụ thuộc
trực tiếp vào mức độ vệ sinh sạch sẽ của chuồng trại.
Theo Phan Địch Lân và cs (2002)[14] : tỷ lệ và cường độ nhiễm giun kết hạt phụ
thuộc vào phương thức chăn nuôi. Tỷ lệ nhiễm giun kết hạt lợn cao ở vụ hè - thu
và giảm đi ở vụ đông - xuân.
Phan Địch Lân, Phạm Sỹ Lăng, Đoàn Văn Phúc (2005)[16]: Tỷ lệ nhiễm giun
kết hạt tăng dần theo tuổi do lợn con có sức đề kháng tốt với giun kết hạt nên tỷ
lệ nhiễm thấp. Tuy ấu trùng gây nhiễm vào lợn con nhưng không gây ra những u
kén ở ruột, ngược lại đối với lợn lớn sau khi ấu trùng gây nhiễm vào thì bệnh rất
nặng và trên ruột có nhiều u kén. Ngoài ra do đời sống của O. Dentatum của cơ
thể lợn tương đối dài từ 8 - 10 tháng. Quá trình truyền lây giun này còn phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên (nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, ) ở mỗi vùng khi gặp
điều kiện thích hợp trứng phát triển thành ấu trùng gây nhiễm, phải trên dưới
một tuần khi nhiệt độ 9
0
C thì trứng ngừng phát triển, 35
0
C thì trứng bị tiêu diệt.
Ngoài ra sự lấy truyền bệnh còn liên quan đến tình hình chăn thả. Nếu thường
xuyên chăn thả trên bãi chăn đã bị căn bệnh xâm nhiễm thì gia súc rất dễ nhiễm
phải giun này.
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh.
2.1.3.1. Cơ chế sinh bệnh.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012)[9]: Ấu trùng chui vào niêm mạc ruột tạo
thành những hạt (u kén). Những hạt này thường bị mưng mủ do âu trùng giun
mang vi khuẩn vào. Giun trưởng thành hút máu ký chủ, đồng thời lấy cả tế bào
niêm mạc ruột của ký chủ để sống, gây thiếu máu và các vết loét trên niêm mạc
ruột già.

Skrjabin và cs (1963)[30] đã mô tả chi tiết cơ chế sinh bệnh của giun kết hạt như
sau:
Bệnh lý do Oesophagostomum phụ thuộc trực tiếp vào giai đoạn phát triển của
ký sinh vật. Ở giai đoạn ấu trùng, Oesophagostomum là nguyên nhân gây “bệnh
hạt ruột”, còn giai đoạn trưởng thành, chúng gây ra bệnh giun kết hạt
(Oesophagostomatosis) đường ruột. Nếu như gia súc tái nhiễm bệnh này thì ở
7
gia súc đó cùng một lúc thấy có cả giai đoạn hạt và giai đoạn giun trưởng thành
ở ruột.
Giai đoạn hạt được coi là giai đoạn bệnh nguy hiểm hơn cả. Sau khi ấu
trùng được nuốt cùng với thức ăn và nước uống vào ruột, chúng nhanh chóng
chui sâu vào niêm mạc, tới hạ niêm mạc. Ở chỗ ấu trùng chui vào tạo thành
những hạt mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Niêm mạc ở chỗ này sưng,
sung huyết, trên mặt có những hạt nhỏ, chính giữa có nhân màu vàng. Trong các
hạt, ấu trùng hoặc ở trạng thái tự do (chui vào chưa được bao lâu), hoặc trong
những kén (già hơn); những hạt này có thể ăn sâu vào lớp cơ của ruột. Qua thời
gian nhất định, ấu trùng từ hạt chui vào ruột. Sau khi ấu trùng chui ra khỏi hạt, ở
chỗ chúng cư trú tạo thành những chấm sẹo.
Sức gây bệnh của giun trưởng thành sống trong ruột ít hơn. Chúng có khả
năng gây viêm cata, niêm mạc ruột phủ kín chất nhầy đặc, bên trong là giun
Oesophagostomum. Ở vật mắc bệnh do Oesophagostomum trưởng thành thấy có
hiện tượng ỉa chảy xen lẫn từng thời gian.
2.1.3.2. Triệu trứng lâm sàng.
Bệnh lý do Oesophagostomum phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của giun. Ở
giai đoạn ấu trùng, Oesophagostomum là nguyên nhân gây “bệnh hạt ruột”, còn
giai đoạn trưởng thành chúng gây Oesophagostomosis đường ruột.
Giai đoạn hạt được coi là giai đoạn nguy hiểm hơn cả. Ấu trùng chui vào
ruột tạo thành những hạt mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Trong thời gian
phát triển hạt, con vật đau bụng, gầy còm, bỏ ăn, ỉa chảy. Giai đoạn trưởng
thành sức gây bệnh ít hơn, ruột viêm cata, phủ chất nhày đặc và giun kết hạt.

Con vật thỉnh thoảng bị ỉa chảy (Soulsby E.J.L. và cs, 1982[32]; Trịnh Văn
Thịnh và cs, 1982[24]; Urquhart G.M. và cs, 1996[33]).
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)[7], Phan Lục (2006)[20], Chu Thị
Thơm và cs (2006)[25], Phạm Sỹ Lăng và cs (2009)[13], lợn bị bệnh giun kết
hạt thể hiện hai giai đoạn:
- Giai đoạn ấu trùng chui vào niêm mạc ruột gây triệu chứng cấp tính: ỉa
chảy, phân có chất nhầy, đôi khi có máu tươi, có một số ít con nhiệt độ tăng cao,
bỏ ăn, gầy còm, thiếu máu, niêm mạc nhợt nhạt, ỉa chảy kéo dài làm con vật gầy
dần rồi chết.
- Giai đoạn giun trưởng thành gây triệu chứng mạn tính, có từng thời kỳ con
vật kiết lị, chậm lớn, gầy còm. Các triệu chứng khác không rõ lắm.
2.1.3.3. Bệnh tích.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012)[9]: Sau khi nhiễm 5 ngày thì thấy nững u kén
nhỏ ở trên niêm mạc ruột. Ở giữa u kén có màu vàng, trong có ấu trùng giun, có
8
khi bọc này bị hoại tử, bên trong có mủ và bị loét. Tới ngày thứ 7 - 8 thì kết
tràng bị viêm có mủ. Có khi có tới vài nghìn u kén trên một đoạn ruột, u kén to
bằng đầu đinh ghim, hạt đậu. Hạt này có khi bị vôi hóa. Chỉ thấy ấu trùng ở
những hạt chưa bị vôi hóa. Niêm mạc ruột sung huyết, thủy thũng.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009)[13] cho biết: sau khi nhiễm giun 5 ngày, ở niêm
mạc ruột già lợn thấy những u kén nhỏ. Ở giữa kén này có điểm màu vàng, bên
trong có ấu trùng giun. Tới ngày thứ 7 – 8 thì kết tràng bị viêm có mủ. Có khi có
tới vài nghìn u kén ở trong một đoạn ruột, u kén to bằng hạt đậu, có khi chỉ dài
0,1 cm.
Theo Phan Lục (2006)[20], Chu Thị Thơm và cs (2006)[26]: ở ruột có những u
kén nhỏ bằng đầu đinh ghim hay hạt đậu, có điểm màu vàng, bên trong có ấu
trùng giun. Kết tràng thường bị viêm và đôi khi thấy vài nghìn u kén ở ruột. Có
khi u kén bị hoại tử, bên trong có mủ. Có những u kén đã thành chấm sẹo. Niêm
mạc ruột già sung huyết, xuất huyết, trong xoang ruột có nhiều giun kết hạt
trưởng thành.

2.1.3.4. Chẩn đoán.
Trương Lăng - Xuân Giao (2002)[14], Phạm Sỹ Lăng và cs (2005)[16]: Chẩn đoán
phân biệt trứng rất khó vì trứng giun kết hạt giống với các loài giun xoắn khác. Đặc
biệt chú ý phân biệtvới trứng giun Hyostrongylus. Nên có thể nuôi ấu trùng để so
sánh ấu trùng giai đoạn 4.
Theo Phan Lục (2006)[20]: Dùng phương pháp Fulleborn xét nghiệm phân để tìm
trứng hoặc nuôi ấu trứng thành ấu trùng và xác định ấu trùng gây nhiễm A3. Với
gia súc chết tìm giun ở ruột già, manh tràng và các hạt, u kén ở ruột.
2.1.4. Phòng và điều trị.
Trịnh Văn Thịnh (1977)[25]: phải giữ vệ sinh, không cho lợn uống nước và ăn
thức ăn bẩn, nếu cho ăn rau sống thì phải rửa sạch. Không thả rông lợn, làm hố
xí cho người, làm chuống nuôi và hố ủ phân cho lợn.
Phạm Hữu Doanh và cs (1995) [2] cho biết: lợn rất mẫn cảm với bệnh ký sinh
trùng, vì vậy chỉ cho lợn ăn rau bèo khi đã rửa sạch sẽ và định kỳ tẩy giun sán
bằng các thuốc đặc hiệu. Thức ăn, nước uống phải luôn luôn sạch.
Biện pháp hữu hiệu để phòng chống bệnh giun sán ở gia súc là biện
pháp phòng trừ bệnh tổng hợp, nghĩa là ở những vùng sinh thái nhất định,
đồng thời sử dụng nhiều biện pháp có hiệu quả đối với tất cả các giai đoạn
phát triển của giun sán, ở môi trường cũng như trong cơ thể vật chủ (Nguyễn
Thị Lê và cs, 1996) [22].
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996) [9], biện pháp phòng bệnh tổng hợp đối với
các bệnh giun tròn nói chung ở lợn gồm:
- Diệt căn bệnh trong cơ thể lợn: định kỳ tẩy giun cho lợn. Mỗi năm tẩy
9
mấy lần là tuỳ điều kiện của từng vùng và từng loại lợn.
- Diệt căn bệnh bên ngoài: trứng giun khuếch tán ra bên ngoài là nguyên
nhân chủ yếu làm căn bệnh lan tràn, cần thực hiện các biện pháp sau: + Có thể
diệt trứng giun bằng cách ủ phân hoặc các biện pháp lý hoá. Các loại thuốc hoá
học diệt trứng giun có hiệu quả như: Creolin, axit cacbonic kiềm tính
Phan Lục (2006)[20], Chu Thị Thơm và cs (2006)[26] cho biết: để phòng bệnh

giun tóc và giun kết hạt phải thường xuyên vệ sinh chuồng trại, dụng cụ chăn
nuôi. Phân, rác ủ đúng kỹ thuật để diệt trứng giun. Định kỳ tẩy giun. Tăng
cường chăm sóc, nuôi dưỡng để gia súc có sức đề kháng cao với bệnh tật.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [18], để phòng bệnh giun kết hạt cho lợn, cần
áp dụng các biện pháp như: tẩy giun định kỳ 3 – 4 lần/năm cho đàn lợn bằng
một trong các thuốc Levamisole, Ivermectin, Phenothiazin; giữ vệ sinh chuồng
trại và môi trường; ủ phân diệt trứng giun.
Biện pháp trị bệnh :
Có nhiều loại thuốc có tác dụng phòng trị giun tròn đường tiêu hoá . Phạm Đức
Chương và cs (2003) [1] cho biết, các thuốc thường được dùng để điều trị bệnh ký
sinh trùng đường tiêu hoá là:
Levamisole: Thuốc có tác dụng đối với cả ấu trùng và giun trưởng thành.
Hiệu lực tẩy giun kết hạt là 72 - 99%.
Ivermectin: tác dụng trên phổ rộng đối với nhiều loại giun tròn. Tiêm dưới
da liều 0,3 mg/kg TT cho lợn có tác dụng làm giảm 94 – 100% các giai đoạn
chưa trưởng thành của giun kết hạt.
Theo Nguyễn Đức Lưu và cs (2004)[21]: Mebendazol là thuốc chủ yếu tẩy giun
tròn. Thuốc có tác dụng rộng, diệt cả ấu trùng và giun trưởng thành. Liều dùng
cho lợn là 2 gam/10 kg TT.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước.
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước.
Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương (1994)[3] nghiên cứu mức độ nhiễm giun sán
ở 3 khu vực miền Trung, Đông và đồng bằng Sông Cửu Long cho biết tỷ lệ nhiễm
giun kết hạt ở 3 vùng tương ứng là: 32,1%; 34,9% và 28,6%.
Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2010)[27] cho biết: tỷ lệ lợn nhiễm giun kết hạt ở Cần
Thơ là 53,33% với cường độ nhiễm nhẹ và trung bình. Thuốc Albendazole với
liều 5 mg/kg TT và thuốc Ivermectin 0,3 mg/kg TT cho hiệu quả tẩy giun kết hạt
lợn là 100% sau một lần tẩy duy nhất.
Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1997)[10] cho biết: tình hình nhiễm giun kết hạt
tăng dần theo tuổi do lợn con có sức đề kháng tốt với giun kết hạt: < 2 tháng tuổi

tỷ lệ nhiễm 39,2 %, 5 - 7 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 72,1 %, > 8 thang tuổi tỷ lệ
10
nhiễm 73,3 %.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước.
K.I.Skjabin và cs (1977)[30]: có thể tẩy giun kết hạt cho lợn bằng cách thụt
0,5% formalin với liều 2000ml cho lợn nặng 124 - 140 kg. Chữa bằng formalin
nên tiến hành ở nền chuồng nghiêng 30 - 40
0
để đầu thấp hơn phía sau làm như
vậy thì thuốc ngấm nhiều nhất trong ruột già tức ngấm nhiều ở chỗ giun ký sinh.
Archie (2000)[29] nhận xét : Ấu trùng trên đồng cỏ chịu ảnh hưởng trực tiếp của
khí hậu. Điều kiện tối ưu cho ấu trùng giai đoạn 3 phát triển là ẩm độ tương đối
cao và nhiệt độ môi trường 18 - 26
o
C.
Rose J. H. và cs (2009)[31] nhận xét: Ở nhiệt độ 4
0
C, trứng của giun kết hạt
không nở thành ấu trùng; từ 10 - 25°C trứng nở thành ấu trùng và phát triển
được đến giai đoạn cảm nhiễm, tỷ lệ nở của trứng tăng khi nhiệt độ tăng. Ở
ngoài tự nhiên, ấu trùng cảm nhiễm của giun kết hạt có thể sống 1 năm.
Kagira J. M. và cs (2010)[34] đã xét nghiệm phân của 360 lợn từ 135 trang trại
ở Kenya cho biết: tỷ lệ nhiễm giun Oesophagostomum spp. là 75%,
Strongyloides ransomi là 37% và Ascris suum là 18%.
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu :
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Lợn các lứa tuổi nuôi tại một số xã thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc

Kạn.
- Bệnh do giun tròn Oesophagostomum spp. ở lợn.
3.2. Vật liệu nghiên cứu.
- Mẫu phân tươi của lợn nuôi ở các lứa tuổi tại một số xã tại huyện
BạchThông, tỉnh Bắc Kạn.
- Kính hiển vi quang học.
- Buồng đếm Mc. Master và các dụng cụ thí nghiệm khác.
- Dung dịch muối NaCl bão hòa.
- Thuốc tẩy giun tròn Oesophagostomum cho lợn.
- Các hóa chất và dụng cụ thí nghiệm khác.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu.
11
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu.
- Địa điểm triển khai đề tài: Đề tài được thực hiện ở các hộ gia đình và
các trang trại chăn nuôi lợn với quy mô khác nhau ở một số xã tại huyện Bạch
Thông, tỉnh Bắc Kạn.
- Địa điểm xét nghiệm, phân tích và xử lý mẫu:
Phòng thí nghiệm - Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên.
3.2.2. Thời gian nghiên cứu.
Từ ngày 9 tháng 12 năm 2013 đến ngày 31 tháng 5 năm 2014.
3.3. Nội dung nghiên cứu.
3.3.1. Nghiên cứu về tình hình nhiễm Oesophagostomum spp.
- Điều tra về thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký sinh trùng cho
lợn tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Oesophagostomum spp. ở lợn tại một số xã
của huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn.
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Oesophagostomum spp. theo tuổi lợn.
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Oesophagostomum spp. theo giống lợn.
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Oesophagostomum spp. theo tháng trong năm.

- Tỷ lệ và cường độ nhiễm Oesophagostomum spp. theo phương thức
chăn nuôi.
-Tỷ lệ lợn có triệu chứng lâm sàng của bệnh giun Oesophagostomum.
3.3.2. Nghiên cứu sự phát triển của trứng Oesophagostomum ở ngoại cảnh.
- Sự ô nhiễm trứng Oesophagostomum spp. ở ngoại cảnh.
- Khả năng tồn tại của trứng ở ngoại cảnh.
- Khả năng nở của trứng ở ngoại cảnh.
- Khả năng sống của ấu trùng cảm nhiễm ở ngoại cảnh.
3.3.3. Biện pháp phòng trị bệnh.
- Xác định hiệu lực của thuốc tẩy giun Oesophagostomum spp.
- Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh Oesophagostomum spp. cho lợn.
3.4. Phương pháp nghiên cứu.
3.4.1. Phương pháp điều tra công tác phòng chống bệnh ký sinh trùng nói
chung, bệnh Oesophagostomosis nói riêng cho lợn ở địa phương.
- Trực tiếp quan sát.
- Phát phiếu điều tra.
3.4.2. Phương pháp thu thập, xét nghiệm mẫu.
12
Bố trí thu thập mẫu : bố trí thu thập mẫu theo phương pháp lấy mẫu phân
tầng. Mẫu được thu thập ngẫu nhiên tại các hộ, trang trại chăn nuôi lợn ở các xã
tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Mẫu phân sau khi lấy được xét nghiệm
ngay trong ngày hoặc xét nghiệm sau khi bảo quản theo quy trình bảo quản mẫu
trong nghiên cứu ký sinh trùng học.
Phương pháp thu thập các loại mẫu:
- Mẫu phân : lấy phân mới thải của lợn ở các lứa tuổi. Để riêng mỗi mẫu phân
vào 1 túi nilon nhỏ và mỗi túi đều có nhãn ghi : thời gian (ngày, tháng, năm), địa
điểm, tuổi, tính biệt và biểu hiện lâm sàng của lợn (nếu có).
- Mẫu cặn nền chuồng: Tại mỗi ô chuồng lấy mẫu cặn ở 4 góc và ở giữa ô
chuồng, trộn đều được một mẫu xét nghiệm (khoảng 80 – 100 g/mẫu). Mỗi mẫu
được để riêng trong túi nilon có ghi nhãn: tên chủ hộ, địa điểm, thời gian lấy

mẫu. Mẫu được xét nghiệm ngay trong ngày.
- Mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng nuôi: Trong khoảng bán kính 5 m xung
quanh chuồng lợn, cứ 10 – 15 m
2
lấy một mẫu đất bề mặt. Một mẫu có khối
lượng từ 80 – 100 g, được trộn đều bởi 4 mẫu ở 4 góc và 1 mẫu ở giữa. Mỗi mẫu
được để riêng trong túi nilon có ghi nhãn: tên chủ hộ, địa điểm, thời gian lấy
mẫu.
- Mẫu đất ở vườn, bãi trồng cây thức ăn cho lợn: Cứ 10 – 15 m
2
lấy một
mẫu đất bề mặt. Một mẫu có khối lượng từ 80 – 100 g, được phối hợp bởi 4 mẫu
ở 4 góc và 1 mẫu ở giữa. Mỗi mẫu được để riêng trong túi nilon có ghi nhãn: tên
chủ hộ, địa điểm, thời gian lấy mẫu.
Phương pháp xét nghiệm các loại mẫu:
- Dùng phương pháp Fulleborn để xác định tỷ lệ nhiễm.
- Dùng phương pháp đếm trứng trên buồng đếm Mc. Master để xác định
cường độ nhiễm.
- Dùng phương pháp Bearman để kiểm tra ấu trùng.
3.4.3. Tỷ lệ nhiễm Oesophagostomum theo lứa tuổi lợn.
Tuổi lợn được phân ra theo 4 lứa tuổi:
• Lợn dưới 2 tháng tuổi.
• Lợn > 2 – 4 tháng tuổi.
• Lợn > 4 – 6 tháng tuổi.
• Lợn trên 6 tháng tuổi.
3.4.4. Tỷ lệ nhiễm Oesophagostomum theo các tháng trong năm.
Các tháng được theo dõi gồm: tháng 12 (2013), tháng 1,2,3,4,5 (2014).
3.4.5. Tỷ lệ nhiễm Oesophagostomum theo giống lợn.
Xác định tỷ lệ nhiễm của các giống lợn: Lợn địa phương, lợn lai, lợn ngoại.
13

3.4.6. Phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm giun tròn Oesophagostomum.
Mẫu phân được xét nghiệm tại phòng thí nghiệm bằng phương pháp
fulleborn dùng dung dịch muối NaCl bão hòa, tìm trứng giun
Oesophagostomum dưới kính hiển vi (độ phóng đại 100). Những mẫu có trứng
giun đánh giá là có nhiễm, ngược lại là không nhiễm.
3.4.7. Phương pháp xác định cường độ nhiễm giun Oesophagostomum.
Cường độ nhiễm được xác định bằng phương pháp Mc. Master: đếm số
trứng giun Oesophagostomum trong một gam phân bằng buồng đếm Mc.
Master.
Quy định các cường độ nhẹ, trung bình, nặng và rất nặng như sau :
≤ 500 trứng/ g phân : nhiễm nhẹ.
> 500 – 1000 trứng/ g phân : nhiễm trung bình.
> 1000 trứng/ g phân : nhiễm nặng.
3.4.8. Phương pháp nghiên cứu sự phát triển của trứng giun Oesophagostomum
spp. và khả năng sống của ấu trùng cảm nhiễm ở ngoại cảnh.
Nuôi trứng giun Oesophagostomum trong những mẫu phân ở phòng thí
nghiệm. Mỗi mẫu để trong một khay nhựa kích thước 30 × 20 cm. Mỗi ngày lấy
5g phân/ mẫu, xét nghiệm bằng phương pháp fullerborn để kiểm tra trứng, xét
nghiệm bằng phương pháp Baerman để kiểm tra ấu trùng. Từ đó xác dịnh được
thời gian trứng nở thành ấu trùng, thời gian ấu trùng phát triển thành ấu trùng có
sức gây bệnh, thời gian sống của ấu trùng có sức gây bệnh.
3.4.9. Phương pháp xác định độ an toàn và hiệu lực của thuốc trị
Oesophagostomum.
- Xác định khối lượng lợn để xác định liều thuốc sử dụng.
Khối lượng lợn được xác định bằng cách cân (đối với lợn nhỏ) hoặc đo
(đối với lợn lớn) và tính khối lượng theo công thức:
P
kg
= 87,5 × VN
2

× DT.
Trong đó: P: Khối lượng lợn (kg).
VN: Vòng ngực đo bằng thước dây (cm).
DT: Dài thân đo bằng thước dây (cm).
- Xác định hiệu lực của thuốc:
Trước khi dùng thuốc, xác định cường độ nhiễm bằng cách đếm số trứng/
g phân. Sau khi dùng thuốc, xét nghiệm phân ở 15 ngày sau tẩy bằng cách đếm
số trứng/ g phân để xác định hiệu lực của thuốc. Nếu không tìm thấy trứng giun
Oesophagostomum trong phân thì xác định thuốc có hiệu lực triệt để. Nếu vẫn
14
thấy trứng giun Oesophagostomum nhưng số lượng trứng giảm rõ rệt thì xác
định thuốc có hiệu lực với giun Oesophagostomum nhưng chưa triệt để.
- Xác định độ an toàn của thuốc trị Oesophagostomum: Độ an toàn của
thuốc được xác định thông qua theo dõi phản ứng của lợn sau khi dùng thuốc
(trạng thái cơ thể, sự vận động, ăn uống )
3.4.10. Đề xuất quy trình phòng trừ tổng hợp bệnh do Oesophagostomum gây
ra cho lợn.
Từ đặc điểm dịch tễ đề xuất biện pháp phòng bệnh cho lợn.
3.5. Phương pháp xử lý số liệu.
3.5.1. Một số công thức tính tỷ lệ.
3.5.2. Một số tham số thống kê:
+ Số trung bình cộng (
X
):

X
=
x
1
+ x

2
+ x
3
+…+x
n
n
Với n ≤ 30.
+ Độ lệch tiêu chuẩn (S
x
):
Tỷ lệ nhiễm (%) =
Số lợn kiểm tra
x 100
Cường độ nhiễm (%) =
Số lợn nhiễm ở mỗi cường độ
Số lợn nhiễm
Hiệu lực tẩy của thuốc (%) =
Số lợn (-) sau khi tẩy
Số lợn được tẩy
x 100
15
Số lợn nhiễm
x 100
S
x
= ±
1
)(
2
2





n
n
X
X
+ Sai số của số trung bình (m
x
):

m
x
= ±
1

n
s
(với n > 30)

Trong đó:

X
: Số trung bình
m
x
: Sai số trung bình cộng
S
x

: Độ lệch tiêu chuẩn.
PHẦN 4
DỰ KIẾN KẾT QUẢ
4.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh Oesophagostomois ở lợn.
Trong thời gian thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điều tra tình hình thực
hiện VSTY phòng chống bệnh ký sinh trùng cho lợn ở địa phương. Khảo sát
được thực hiện tại 4 xã của huyện Bạch Thông. Kết quả được thể hiện qua bảng
4.1:
Bảng 4.1. Thực trạng phòng chống bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh
Oesophagostomosis cho lợn ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn
Địa phương
(xã)
Biện pháp sử dụng
Không

chuồng
trại
Chuồng
trại hợp
vệ sinh
về xây
dựng
Vệ sinh
tốt
chuồng
nuôi
Thu
gom
phân


Tẩy
giun
tròn
Nguyên Phúc
Số hộ điều
tra
327 215 239 264 271
Số hộ áp
dụng
0 89 53 41 43
Tỷ lệ (%) 0 41,39 22,17 15,53 15,86
Cẩm Giàng Số hộ điều
tra
405 250 301 325 310
Số hộ áp 0 141 85 58 51
16
dụng
Tỷ lệ (%) 0 56,4 28,23 17,84 16,45
Quân Bình
Số hộ điều
tra
385 145 287 312 305
Số hộ áp
dụng
0 68 70 49 47
Tỷ lệ (%) 0 46,89 24,39 15,70 15,40
Tân Tiến
Số hộ điều
tra
369 183 255 293 276

Số hộ áp
dụng
0 96 65 50 45
Tỷ lệ (%) 0 52,45 25,49 17,06 16,30
Kết quả ở bảng 4.1 cho thấy:
Xã Nguyên Phúc: điều tra 215 hộ có 89 hộ xây chuồng hợp vệ sinh, điều tra 239
hộ có 53 hộ vệ sinh tốt, có 41 hộ thu gom phân ủ trong 264 hộ điều tra. Tương
ứng các tỷ lệ là: 41,39%, 22,17%, 15,53%.
Xã Cẩm Giàng: trong 250 hộ điều tra có 141 hộ xây chuồng hợp vệ sinh, điều
tra 301 hộ có 85 hộ thực hiện vệ sinh tốt và 58 hộ thực hiện thu gom phân ủ
trong số 325 hộ điều tra. Tương ứng các tỷ lệ là: 56,4%, 28,23%, 17,84%.
Xã Quân Bình: số hộ xây chuồng hợp vệ sinh là 68 trong tổng 145 hộ điều tra,
70 hộ vệ sinh tốt trong số 287 hộ điều tra, 49 hộ có thu gom phân ủ trong tổng
312 hộ điều tra. Tương ứng các tỷ lệ là: 46,89%, 24,39%, 15,70%.
Xã Tân Tiến: 183 hộ điều tra có 96 hộ xây chuồng hợp vệ sinh, 65 hộ thực hiện
vệ sinh tốt trong số 255 hộ điều tra và 50 hộ có thu gom phân để ủ trong tổng
293 hộ điều tra.
Nhìn chung ở các xã tất cả các hộ gia đình đều có chuồng trại để chăn nuôi nên
tỷ lệ không có chuồng trại là 0%, việc tẩy giun tròn cho lợn vẫn chưa được quan
tâm tỷ lệ áp dụng là khá thấp (16%).
17
Bảng 4.2.Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun Oesophagostomum ở lợn tại một số xã
Địa phương
(xã)
Số lợn
kiểm
tra
(con)
Số lợn
nhiễm

(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cường độ nhiễm
≤ 500
> 500 -
1000
> 1000
n % n % n %
Nguyên Phúc 165 63 38,18 37 58,73 18 25,8
7
8 12,69
Cẩm Giàng 133 29 21,80 10 34,48 8 62,0
6
1 3,44
Quân Bình 142 56 39,43 42 75 18 14,2
8
6 10,71
Tân Tiến 125 33 26,4 24 72,72 6 18,1
8
3 9,09
Tính chung 565 181 32,03 113 62,43 50 27,6
2
18 9,94
Kết quả ở bảng 4.2 cho thấy:
Về tỷ lệ nhiễm: trong 565 lợn điều tra có 181 lợn nhiễm giun O. dentatum tỷ lệ
nhiễm chung là 32,03% biến động từ 21,80% - 38,18%. Tỷ lệ này là khác nhau
giữa các địa phương và phụ thuộc vào các yếu tố như: điều kiện chăm sóc, tình
trạng vệ sinh thú y, thời tiết khí hậu, công tác thú y

So sánh giữa các địa phương được điều tra, xã Nguyên Phúc và xã Quân Bình có
tỷ lệ nhiễm O. dentatum cao hơn so với 2 xã còn lại. Tỷ lệ nhiễm xã Nguyên
Phúc là 38,18%, xã Quân Bình là 39,43%. Xã Cẩm Giàng 21,80% và xã Tân
Tiến là 26,4%.
Về cường độ nhiễm: lợn ở cả 4 xã đều nhiễm O. dentatum ở cường độ từu nhẹ
tới nặng. Tính chung trong số 181 lợn nhiễm O. dentatum có 113 lợn nhiễm ở
cường độ nhẹ, 50 lợn nhiễm ở cường độ trung bình, 18 lợn nhiễm ở cường độ
nặng. Với các tỷ lệ tương ứng là: 62,43%, 27,62%, 9,94%.
Nhận xét:
Mức độ cảm nhiễm của lợn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tuổi, sự mẫn cảm, sức
đề kháng của bản thân vật nuôi, khả năng cảm nhiễm trứng có sức gây bệnh.
Qua điều tra thực tế cho thấy: lợn được nuôi trong tình trạng vệ sinh kém,
phương thức chăn nuôi lạc hậu, không quan tâm đến công tác thú y, chăm sóc
nuôi dướng kém thì tỷ lệ và cường độ nhiễm O. dentatum sẽ cao.
Tỷ lệ và cường độ nhiễm của các xã được minh họa rõ hơn ở biểu đồ 4.1 và 4.2:
18
Biểu đồ 4.1. Tỷ lệ nhiễm O. dentatum tại một số xã.
19
Biểu đồ 4.2. Cường độ nhiễm O.dentatum ở một số xã.
Bảng 4.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun Oesophagostomum theo tuổi lợn
Tuổi lợn
(tháng)
Số
lợn
kiểm
tra
(con)
Số
lợn
nhiễ

m
(con)
Tỷ lệ
nhiễ
m
(%)
Cường độ nhiễm (trứng / g phân)
≤ 500 > 500 - 1000 > 1000
n % n % n %
< 2
112 9 8,03 8 88,88 1 11,1
1
0 0
> 2 - 4
170 39 22,94 20 51,28 17 43,5
8
2 5,12
> 4 - 6
193 84 43,52 53 63,09 25 29,7
6
6 7,14
> 6
90 49 54,44 32 65,30 7 14,2
8
10 20,40
Tính chung
565 181 32,03 113 62,43 50 27,6
2
18 9,94
Kết quả bảng 4.3 cho thấy:

Về tỷ lệ nhiễm:
Trong số 565 lợn ở các lứa tuổi, kiểm tra có 181 lợn nhiễm O. dentatum. Lợn
bắt đầu nhiễm nhẹ từ <2 tháng tuổi (8,03%). Tỷ lệ nhiễm cao nhất ở giai đoạn
>6 tháng tuổi (54,44%).
Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1997)[10]: Tỷ lệ nhiễm giun kết hạt ở lợn tăng
dần theo tuổi do lợn con có sức đề kháng tốt với giun kết hạt, nên tỷ lệ nhiễm
thấp đối với lợn con.
Bắt đầu từ gia đoạn > 2 - 4 tháng tuổi, lợn đã tách mẹ hoàn toàn. Lúc này cơ thể
đang trong giai đoạn sinh trưởng mạnh, nhu cầu thức ăn, nước uống cao nên cơ
hội tiếp xúc với mầm bệnh nhiều, lợn dễ nhiễm O. dentatum.
Về cường độ nhiễm:
Lợn > 6 tháng tuổi nhiễm ở cường độ nặng là 20,40%, lợn < 2 tháng tuổi nhiễm
chủ yếu ở cường độ nhẹ (88,88%). Lợn > 2 - 4 tháng tuổi và > 4 - 6 tháng tuổi
20
nhiễm chủ yếu ở cường độ nhẹ và trung bình.
Tỷ lệ nhiễm giun kết hạt theo tuổi lợn được minh họa rõ ở biểu đồ 4.3:

Biểu đồ 4.3. Tỷ lệ nhiễm giun kết hạt theo tuổi lợn.
Bảng 4.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tròn Oesophagostomum theo giống
lợn
Giống lợn
Số
lợn
kiểm
tra
(con)
Số
lợn
nhiễ
m

(con
)
Tỷ lệ
(%)
Cường độ nhiễm
(trứng / g phân)
≤ 500
> 500 -
1000
> 1000
n % n % n %
Địa phương
223 79 35,42 39 49,36 27 34,17 13 16,45
Lai
342 102 29,82 74 72,54 23 22,54 5 4,90
Ngoại
0 0 0 0 0 0 0 0 0
21
Tính chung
565 181 32,03 113 62,43 50 27,62 18 9,94
Qua bảng 4.4 cho thấy: tỷ lệ nhiễm giun O. dentatum ở lợn nội là cao nhất, tiếp
đó là lợn lai với tỷ lệ tương ứng là 35,42%, 29,82%.
Qua kết quả trên đưa ra nhận xét về tỷ lệ nhiễm giun O. dentatum của các
giống lợn là do các nguyên nhân:
Lợn lai được nuôi phổ biến ở các hộ chăn nuôi theo phương thức gia đình.
Mặc dù có tính thích nghi cao nhưng do điều kiện vệ sinh, chăm sóc còn kém,
thức ăn chủ yếu là tận dụng. Do vậy mầm bệnh có cơ hội xâm nhập vào cơ thể
nên tỷ lệ nhiễm ở lợn lai là 29,82%.
Lợn địa phương hay lợn nội, nuôi chủ yếu theo phương thức nhỏ lẻ, lạc hậu
chủ yếu tận dụng nguồn thức ăn thừa, chuồng trại không cố định, tạm bợ, không

tẩy giun định kỳ, chất thải chăn nuôi không được xử lý nên mầm bệnh phân tán
khắp nơi. Do vậy tỷ lệ nhiễm O. dentatum là 35,42%.
Đặc thù huyện là các xã miền núi, chăn nuôi chưa thật sự phát triển với quy
mô nhỏ nên người dân chưa nuôi lợn ngoại, do vậy chưa có kết quả về tỷ lệ
nhiễm giun O. dentatum ở lợn ngoại.
Như vậy chúng ta thấy: mỗi giống lợn nuôi có tỷ lệ và cường độ nhiễm là
khác nhau. Sự khác biệt chủ yếu là do việc thực hiện vệ sinh thú y, chăm sóc
nuôi dưỡng
Tỷ lệ nhiễm giun kết hạt theo giống lợn được thể hiện rõ hơn ở biểu đồ 4.4:
22
Bảng 4.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun Oesophagostomum theo các tháng
23
theo dõi tại một số xã.
Tháng
Số lợn
kiểm
tra
(con)
Số
lợn
nhiễ
m
(con)
Tỷ lệ
nhiễ
m
(%)
Cường độ nhiễm (trứng / g phân)
≤ 500 > 500 - 1000 > 1000
n % n % n %

12 68 8 11,76 6 75 2 25 0 0
1 112 32 28,57 21 65,62 10 31,25 1 3,12
2 89 28 31,46 17 60,71 10 35,71 1 3,57
3 71 25 35,21 14 56 8 32 3 12
4 97 36 36,11 23 63,88 8 22,22 5 13,88
5 128 52 40,62 32 61,53 12 23,07 8 15,38
Tính
chung
565 181 32,03 113 62,43 50 30,93 18 9,94
Kết quả bảng 4.5 cho thấy:
Tỷ lệ nhiễm giữa các tháng dao động từ 11,76% vào tháng 12 đến 40,62% vào
tháng 5. Nhìn chung tỷ lệ nhiễm bắt đầu tăng từ tháng 3 đến tháng 5. Do tháng 3
là thời gian giao mùa, sức đề kháng của lợn giảm, nhiệt độ tăng lên, ấu trùng
giun phát triển mạnh.
Tháng 3 có 25/71 mẫu nhiễm, chiếm 35,21%.
Tháng 4 có 36/97 mẫu nhiễm, chiếm 36,11%.
Tháng 5 có 52/128 mẫu nhiễm, chiếm 40,62%.
Bảng 4.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun Oesophagostomum theo phương
thức chăn nuôi
Phương thức
chăn nuôi
Số
lợn
Số
lợn
Tỷ
lệ
Cường độ nhiễm
(trứng / g phân)
24

kiểm
tra
(con)
nhiễ
m
bệnh
(con)
nhiễ
m
(%)
≤ 500
> 500 -
1000
> 1000
n % n % n %
Truyền thống 119 54 45,37 20 37,03 23 42,59 11 20,37
Bán công
nghiệp
283 92 32,50 68 73,91 19 20,65 5 5,43
Công nghiệp 163 35 21,47 25 71,42 8 22,85 2 5,71
Tính chung 565 181 32,03 113 62,43 50 27,62 18 9,94
Qua bảng 4.6 cho thấy: tỷ lệ và cường độ nhiễm giun O. dentatum ở mỗi
phương thức chăn nuôi khác nhau là khác nhau.
Theo phương thức nuôi truyền thống kiểm tra 119 lợn có 54 lợn nhiễm,
chiếm tỷ lệ 45,37%. Trong đó nhiễm cường độ nhẹ là 37,03%, cường độ trung
bình là 42,59%, cường độ nặng là 20,37%.
Theo phương thức bán công nghiệp: kiểm tra 283 lợn có 92 lợn nhiễm, tỷ
lệ là 32,50%. Trong đó cường độ nhiễm nặng là 5,43%, cường độ nhiễm trung
bình là 22,85% và nhiễm ở cường độ nhẹ là 73,91%.
Theo phương thức công nghiệp: kiểm tra 163 lợn có 35 lợn nhiễm, tỷ lệ là

21,47%. Cường độ nhiễm nhẹ là 71,42%, cường độ nhiễm trung bình là 22,85%,
cường độ nhiễm nặng là 5,71%.
Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm giun O. dentatum ở phương thức nuôi truyền
thống là cao nhất, giảm dần theo nuôi bán công nghiệp và công nghiệp. Do
phương thức nuôi truyền thống khâu vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng, dùng thuốc
trong phòng chống ký sinh trùng chưa được chú ý như phương thức nuôi bán
công nhgiệp và công nghiệp.
Tỷ lệ nhiễm O. dentatum theo phương thức chăn nuôi được minh họa theo
biểu đồ 4.5:
25

×