Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Phương hướng hoàn thiện pháp luật đấu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.6 KB, 67 trang )

Lời nói đầu
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo đã giành đợc những thắng lợi quan trọng
trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nớc đã có
nhiều khởi sắc, đợc nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: Nghiên cứu để tiến tới áp
dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nớc và
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài. Tạo mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu t
nớc ngoài và đầu t trong nớc là một trong những quy luật khách quan của xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lời của Thủ tớng Phan Văn Khải, thì Cái chính
là mặt bằng pháp luật, mặt bằng cơ chế chính sách. Nếu không có một hành
lang pháp lý vững chắc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các nhà đầu t nớc ngoài và
đầu t trong nớc trong mọi quá trình của hoạt động đầu t từ khẩu tìm hiểu đầu t
đến khâu thành lập, triển khai, mở rộng hoặc thu hẹp và chấm dứt dự án đầu t thì
sẽ không theo kịp với tiến trình hội nhập. Có thể nói, sự phân biệt đối xử giữa các
nhà đầu t nớc ngoài và các nhà đầu t trong nớc hiện nay đợc coi là một trong
những hạn chế ảnh hởng tới tính hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trờng đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam.
Trong những năm qua, chúng ta có nhiều cố gắng trong việc đa các quy
định của pháp luật đầu t nớc ngoài và các quy định về đầu t trong nớc xích lại
gần nhau. Một khi còn tồn tại hai hệ thống quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh
đầu t nớc ngoài và đầu t trong nớc, thì không thể có khái niệm sân chơi bình
đẳng cho hoạt động đầu t trong nớc, bất kể đó là đầu t nớc ngoài hay đầu t trong
nớc. Tất nhiên, do hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam cha đủ mạnh, nên nếu
phải vào cùng một sân chơi, trong cùng một mặt bằng với các nhà đầu t nớc
ngoài, có tiềm lực kinh tế, giàu kinh nghiệm, có công nghệ, máy móc thiết bị
hiện đại hơn hẳn chúng ta, thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh
nổi. Chính vì vậy, trớc mắt vẫn cần phải có hành lang pháp lý riêng cho từng loại
đối tợng. Nhng do xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang trở thành vấn đề bức xúc
và do yêu cầu của việc hội nhập, các quốc gia đang dần xoá bỏ sự khác biệt giữa
đầu t trong nớc và đầu t nớc ngoài. Việt Nam muốn hoà vào xu thế chung đó thì


không có cách nào khác là phải từng bớc tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu
t trong nớc và đầu t nớc ngoài. Chúng ta phải tính toán để đa ra những bớc đi
thích hợp với trình độ, hoàn cảnh và đặc điểm của Việt Nam. Vì vậy, việc lựa
chọn đề tài Phơng hớng hoàn thiện pháp luật đầu t nớc ngoài tiến tới mặt
1
bằng pháp lý chung cho đầu t trong nớc và đầu t nớc ngoài tại Việt Nam hiện
nay mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đòi hỏi thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu t tại Việt Nam.
2
Chơng 1
Một số vấn đề chung
về pháp luật đầu t nớc ngoài tại việt nam
1.1. Sự cần thiết phải có pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt
nam
Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn là một phơng tiện quan trọng không
thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã hội, bảo
đảm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà Nhà nớc và
xã hội đặt ra. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa X đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992, trong đó quy định: "Nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân"; Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nớc quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng tăng cờng pháp chế XHCN ".
Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài nói
riêng, là chức năng cơ bản của Nhà nớc ta trong điều kiện cụ thể hiện nay. Để thực
hiện chức năng này, chúng ta phải nhận thức đúng đắn các quy luật kinh tế xã
hội khách quan, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nớc và các điều kiện
quốc tế, xây dựng chiến lợc thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài, sử dụng đồng bộ và
hợp lý các công cụ kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế. Trong hệ thống

các công cụ và biện pháp quản lý hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài, pháp luật
có vai trò đặc biệt quan trọng, đợc thể hiện ở một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, để điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài, Nhà nớc có thể
và cần phải sử dụng nhiều công cụ, biện pháp và hình thức khác nhau nh chính
sách, kế hoạch đầu t trực tiếp nớc ngoài, đòn bẩy kinh tế, pháp luật đầu t nớc
ngoài Tuy nhiên, trong số các công cụ, biện pháp đó, pháp luật đầu t nớc ngoài
có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi lẽ với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật
có khả năng triển khai những chủ trơng, chính sách của Nhà nớc một cách nhanh
nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nớc, luôn luôn gắn liền với
Nhà nớc và chỉ Nhà nớc mới sử dụng công cụ này. Nhà nớc điều chỉnh mọi quá
trình xảy ra trong xã hội và hành vi của con ngời, trong đó có hoạt động đầu t
trực tiếp nớc ngoài bằng quyền lực nhà nớc. Quyền lực nhà nớc đợc thực hiện
bằng một cơ chế thực thi pháp luật và nhờ có quyền lực nhà nớc, giai cấp thống
trị thực hiện ý chí của mình, buộc cả xã hội phải tuân theo và phục tùng bằng
3
cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tế. Nhà nớc điều chỉnh hoạt
động đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng pháp luật. Do đó chỉ có điều chỉnh hoạt động
đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng pháp luật thì quyền lực nhà nớc mới có ý nghĩa và
mới đem lại hiệu quả thiết thực.
Nhà nớc ta là Nhà nớc của dân, do dân và vì dân, nên cũng có thể khẳng
định, pháp luật đầu t nớc ngoài ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhân dân,
trong đó có lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị.
Thứ ba, sự phát sinh, phát triển của pháp luật đầu t nớc ngoài phụ thuộc
hoàn toàn vào ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, sau khi pháp luật đầu t nớc
ngoài đã đợc ban hành, các cơ quan nhà nớc phải triệt để tuân thủ trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý đầu t trực tiếp nớc ngoài. Đây cũng là một trong
những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền XHCN Việt
Nam hiện nay.
Thứ t, trong nền kinh tế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc, theo định h-

ớng XHCN, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu khách quan bắt nguồn từ
những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Đây là điểm khác biệt so với thời kỳ quan
liêu, bao cấp, vì ở thời kỳ này, sự tồn tại của pháp luật nh một nhu cầu chủ quan
bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nớc, là một phơng tiện trong tay Nhà nớc để
kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách duy ý chí.
Đối với hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài, pháp luật đầu t nớc ngoài đợc
hình thành trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của quan hệ đầu t trực tiếp nớc
ngoài, tồn tại nh một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển kinh tế đối
ngoại. Pháp luật đầu t nớc ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn mực, mà dựa
vào đó các nhà đầu t nớc ngoài tìm đợc "sân chơi", các nhà quản lý có phơng tiện
để điều khiển "cuộc chơi". Pháp luật đầu t nớc ngoài là mực thớc để phân định
đúng, sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài cho phù
hợp với nhu cầu xã hội.
Sự điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng pháp luật phải bảo
đảm cho hoạt động này vận động theo đúng những quy luật khách quan, không
thể áp đặt bằng ý chí chủ quan, duy ý chí. Bằng pháp luật, Nhà nớc tạo môi trờng
và hành lang pháp lý để những nhà đầu t nớc ngoài có thể tự chủ sản xuất kinh
doanh, tự bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời không làm tổn hại đến lợi ích của
các chủ thể khác và toàn xã hội.
Thứ năm, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu t trực tiếp nớc ngoài, pháp luật
quy định cho các bên tham gia một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng
thời thiết lập cơ chế đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó đợc thực
4
hiện. Vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ đầu t trực tiếp nớc ngoài do pháp luật
điều chỉnh, các chủ thể phải có hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoạt động đầu t trực tiếp nớc ngoài bằng pháp luật,
không chỉ tác động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ đầu t trực
tiếp nớc ngoài, mà còn tác động đối với toàn xã hội nói chung.
1.2. Khái niệm, đặc trng và vai trò của Pháp Luật Đầu t
nớc ngoài tại Việt Nam

1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu t nớc ngoài
Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu t nớc ngoài, cần làm rõ khái niệm
đầu t, đầu t nớc ngoài, các hình thức, phơng thức đầu t nớc ngoài, đối tợng điều
chỉnh và phơng pháp điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài.
1.2.1.1. Khái niệm đầu t, đầu t nớc ngoài, hình thức, phơng thức đầu t nớc
ngoài
Khái niệm đầu t nớc ngoài
Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu t nớc ngoài, trớc hết cần làm rõ
khái niệm đầu t. Theo Đại từ điển tiếng Việt, đầu t là: "Bỏ vốn vào sản xuất, kinh
doanh để đợc hởng phần lời lãi"
1
.
Dới góc độ khoa học, đầu t (investment) là việc sử dụng vốn vào quá trình
tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn. Nói cách khác, đầu t là
việc đa vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận. Vốn đầu t
bao gồm tiền và các tài sản khác nh động sản, bất động sản, tài sản hữu hình, tài
sản vô hình
Nh vậy, có thể đa ra khái niệm đầu t nh sau: đầu t là việc nhà đầu t đa vốn
bằng tiền hoặc tài sản khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ nhằm thu lợi nhuận.
Về khái niệm đầu t nớc ngoài, Hội đồng tơng trợ kinh tế (SEV) đã đa ra
định nghĩa: "đầu t nớc ngoài đợc hiểu là tất cả những loại giá trị vật chất mà nhà
đầu t đa từ nớc ký kết này sang nớc ký kết hữu quan theo pháp luật của nớc sử
dụng đầu t". ở khái niệm này, đầu t nớc ngoài đợc hiểu với nghĩa rất hẹp chỉ bao
gồm các giá trị vật chất, còn các loại tài sản vô hình thì lại cha đợc đề cập đến.
Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1996: "Đầu t thơng mại và các
thỏa thuận chính sách quốc tế", có đa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đầu t
trực tiếp nớc ngoài: "là một khoản đầu t liên quan đến các quan hệ dài hạn và
phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát một thực thể trong một nền kinh tế
(nhà đầu t nớc ngoài hay công ty mẹ) thông qua một doanh nghiệp thuộc về một

1
Xem: Nguyễn Nh ý (chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 610
5
nền kinh tế khác, nền kinh tế của nớc có nhà đầu t trực tiếp nớc ngoài".
ở nớc ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu t nớc ngoài đã chính thức đợc
ghi nhận trong Điều lệ Đầu t của nớc ngoài đợc ban hành kèm theo Nghị định số
115/CP ngày 18/4/1977 (sau đây gọi tắt là Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977):
Đợc coi là đầu t của nớc ngoài ở Việt Nam việc đa vào sử dụng ở Việt
Nam những tài sản và vốn sau đây, nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc đổi
mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
- Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ dùng cho việc thí
nghiệm), phơng tiện vận tải, vật t kỹ thuật cần thiết cho mục đích nói trên;
- Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh, phơng pháp
công nghệ, bí mật kỹ thuật (know - how), nhãn hiệu chế tạo
- Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật t có giá trị ngoại tệ, nếu phía Việt Nam thấy
cần thiết
Phân tích khái niệm trên cho thấy, không phải bất cứ sự vận động vốn (t
bản) nào từ nớc ngoài vào Việt Nam đều đợc coi là đầu t nớc ngoài, mà chỉ những
tài sản và vốn đợc quy định tại Điều 2 Điều lệ đầu t nớc ngoài, đợc đa vào sử dụng
ở Việt Nam mới đợc coi là đầu t nớc ngoài.
Trong Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đợc ban hành năm 1987, khái
niệm đầu t nớc ngoài đã đợc ghi nhận tại khoản 3 Điều 2 nh sau: "Đầu t nớc
ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nớc ngoài trực tiếp đa vào Việt Nam vốn bằng
tiền nớc ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào đợc Chính phủ Việt Nam chấp thuận để
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh
hoặc xí nghiệp 100% vốn nớc ngoài theo quy định của luật này". Có thể nói, với
quy định mới này, khái niệm đầu t nớc ngoài đã đợc mở rộng hơn so với khái
niệm đầu t nớc ngoài trong Điều lệ đầu t nớc ngoài năm 1977.
Trong Hiệp định thơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm đầu t đợc hiểu
theo một nghĩa rộng hơn: "là mọi hình thức đầu t trên lãnh thổ của một Bên do

các công dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián
tiếp, bao gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ phần, cổ
phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi đối
với các khoản nợ dới các hình thức khác trong công ty; các quyền theo hợp đồng
nh quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng hoặc hợp đồng
quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân chia doanh thu, tô nhợng
hoặc các hợp đồng tơng tự khác.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đa ra khái niệm đầu t nớc ngoài nh sau: đầu
t nớc ngoài là việc nhà đầu t của nớc này đa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác vào
6
nớc khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Trong khái niệm này, yếu tố nớc ngoài đợc thể hiện bằng hai dấu hiệu đặc
trng chính, đó là: có sự tham gia của chủ thể nớc ngoài và có sự di chuyển vốn từ
nớc này sang nớc khác.
Đầu t nớc ngoài đợc phân làm hai loại: đầu t trực tiếp nớc ngoài và đầu t
gián tiếp nớc ngoài.
Đầu t trực tiếp nớc ngoài là loại hình kinh doanh, trong đó nhà đầu t nớc
ngoài tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất, kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra
làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê ngời quản lý cơ sở này (đầu t 100% vốn),
hoặc hợp tác với một hay nhiều doanh nghiệp của nớc sở tại thành lập một doanh
nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, cùng làm chủ sở hữu, cùng
quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh này.
Đầu t gián tiếp nớc ngoài là loại hình đầu t, trong đó nhà đầu t nớc ngoài
bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở kinh tế, nhng không tham
gia điều hành cơ sở kinh tế đó.
Vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) chỉ là một trong bốn nguồn tài chính n-
ớc ngoài đợc đa vào một quốc gia, đó là: 1) Viện trợ phát triển chính thức (ODA)
và phi chính phủ (NGO); 2) Tín dụng thơng mại; 3) Tín phiếu, trái phiếu, cổ
phiếu; 4) Vốn đầu t trực tiếp.
Bốn nguồn vốn này có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau,

nguồn vốn này là tiền đề để thu hút nguồn vốn khác và tạo điều kiện để trả nợ
nguồn vốn khác. Nếu một quốc gia đang phát triển không nhận đợc vốn ODA đủ
mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thì khó có thể thu
hút đợc nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác. Nhng nếu chỉ chú trọng
nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn
tín dụng khác, thì quốc gia đó sẽ không thể có khả năng để trả nợ vốn ODA.
Hình thức đầu t
Thực tiễn đầu t nớc ngoài của nhiều nớc trên thế giới cho thấy, có rất nhiều
hình thức đầu t phong phú nh: hình thức doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài, hình
thức liên doanh, hình thức công ty cổ phần, công ty quản lý vốn, chi nhánh công
ty nớc ngoài, hình thức gia công, lắp ráp
ở nớc ta, đầu t trực tiếp nớc ngoài đợc pháp luật đầu t nớc ngoài hiện hành
quy định dới ba hình thức:
- Doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài là loại hình đầu t, trong đó nhà đầu t
nớc ngoài tự bỏ vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nớc ta và có t cách
pháp nhân của Việt Nam
7
- Doanh nghiệp liên doanh là loại hình đầu t, trong đó nhà đầu t nớc ngoài
và nhà đầu t trong nớc cùng góp vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh có t
cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu t, trong đó nhà đầu t nớc
ngoài và nhà đầu t trong nớc cùng bỏ vốn kinh doanh theo một hợp đồng, mỗi
bên giữ t cách pháp nhân riêng, không thành lập pháp nhân mới.
Phơng thức đầu t
Có thể hiểu phơng thức đầu t là cách tổ chức đa vốn vào kinh doanh của
nhà đầu t nớc ngoài.
Pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam quy định các phơng thức sau:
- BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là phơng thức,
trong đó nhà đầu t nớc ngoài ký kết với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của Việt
Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi vốn, lợi

nhuận trong thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao công trình đó cho
Nhà nớc Việt Nam.
- BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) là phơng thức,
trong đó nhà đầu t nớc ngoài ký kết với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của Việt
Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu t n-
ớc ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nớc Việt Nam.
- BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) là phơng thức, trong đó nhà đầu t
ký kết với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu t nớc ngoài chuyển giao công
trình đó cho Nhà nớc Việt Nam.
- Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý
xác định do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập, thực hiện các dịch vụ
phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, tiến hành hoạt động xuất khẩu,
- Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ phục vụ sản xuất hàng công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho
phép thành lập.
1.2.1.2. Khái niệm đối tợng điều chỉnh, phơng pháp điều chỉnh của pháp
luật đầu t nớc ngoài
Pháp luật đầu t nớc ngoài nếu đợc hiểu theo nghĩa rộng gồm ba bộ phận:
Bộ phận thứ nhất: gồm đạo luật Đầu t nớc ngoài và các văn bản hớng dẫn
trực tiếp thi hành.
Bộ phận thứ hai: gồm các chế định có liên quan đến đầu t nớc ngoài đợc
quy định trong các đạo luật khác.
8
Bộ phận thứ ba: gồm các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu t nớc
ngoài đợc quy định trong các điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Pháp luật đầu t nớc ngoài đợc hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm đạo luật
Đầu t nớc ngoài và các nghị định, thông t hớng dẫn thi hành trực tiếp.
Về đối tợng điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài
Lý luận chung về Nhà nớc và pháp luật đã chỉ ra rằng, đối tợng điều chỉnh

của pháp luật là các quan hệ xã hội có liên quan đến đời sống cộng đồng, củng cố
địa vị và lợi ích của Nhà nớc và công dân trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội Chúng có thể thay đổi tùy theo từng giai đoạn lịch
sử cụ thể, phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị và các điều kiện chính trị, xã
hội khác.
Đối tợng điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài là các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực đầu t nớc ngoài tại Việt Nam bao gồm:
- Quan hệ giữa nhà đầu t nớc ngoài với Nhà nớc Cộng hòa XHCN Việt
Nam mà đại diện là các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền.
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài với Nhà nớc thông
qua các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền.
- Quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa nhà đầu t nớc ngoài với nhà
đầu t trong nớc.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài với các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài với các tổ chức, cá
nhân nớc ngoài.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, nhà đầu t nớc ngoài,
nhà đầu t trong nớc với ngời lao động.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, nhà đầu t nớc ngoài,
nhà đầu t trong nớc với các cơ quan tài phán trong nớc và quốc tế.
- Các quan hệ khác.
Dấu hiệu đặc trng có tính chất bắt buộc của các quan hệ xã hội thuộc đối t-
ợng điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài là yếu tố nớc ngoài. Các quan hệ xã
hội thuộc đối tợng điều chỉnh của các ngành luật khác nh Luật Dân sự, Luật Th-
ơng mại, Luật Kinh tế có thể cũng có yếu tố nớc ngoài, nhng không có tính
chất bắt buộc nh quan hệ đầu t nớc ngoài.
Về phơng pháp điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài
Xét dới góc độ lý luận chung về Nhà nớc và pháp luật, phơng pháp điều
chỉnh của pháp luật đợc hiểu là tổng hợp những cách thức tác động của pháp luật

9
lên các quan hệ xã hội.
Phơng pháp điều chỉnh của pháp luật có những đặc điểm: do Nhà nớc
thông qua và các cơ quan có thẩm quyền đặt ra; đợc ghi nhận trong quy phạm
pháp luật; đợc Nhà nớc đảm bảo thực hiện bằng các chế tài mang tính chất cỡng
chế. Pháp luật Đầu t nớc ngoài có ba phơng pháp điều chỉnh: phơng pháp thỏa
thuận (hay còn gọi là phơng pháp tự nguyện); phơng pháp mệnh lệnh (hay còn gọi
là phơng pháp bắt buộc); phơng pháp khuyến khích.
Ba phơng pháp điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài có mối quan hệ
hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau và đợc sử dụng trong sự kết hợp với nhau.
Nghiên cứu pháp luật đầu t nớc ngoài hoặc pháp luật khuyến khích đầu t nớc
ngoài của một số nớc trên thế giới nh Indonesia, Philippines, Singapore, Thái
Lan, Trung Quốc, cho thấy, các nớc này đều sử dụng cả ba phơng pháp điều
chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài, chỉ khác nhau ở cách thức kết hợp ba phơng
pháp.
Nh vậy, pháp luật đầu t nớc ngoài có đối tợng và phơng pháp điều chỉnh
mang tính đặc thù. Sự khác nhau về đối tợng điều chỉnh và phơng pháp điều
chỉnh có thể nói là xuất phát từ chức năng của mỗi ngành luật. Pháp luật đầu t n-
ớc ngoài không điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội nh các ngành luật khác mà nó chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực đầu t nớc ngoài.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đa ra khái niệm về pháp luật đầu t nớc ngoài
nh sau: Pháp luật đầu t nớc ngoài là hệ thống những quy phạm pháp luật do
Nhà nớc ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
đầu t nớc ngoài ở Việt Nam.
Pháp luật đầu t nớc ngoài gồm hai phần: Phần chung và Phần riêng.
Phần chung của pháp luật đầu t nớc ngoài bao gồm các quy phạm điều
chỉnh các quan hệ mang tính chất nguyên tắc, phát sinh trong lĩnh vực đầu t nớc
ngoài nh các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, nguyên tắc
bảo đảm quyền sở hữu đói với vốn đầu t và các quyền lợi khác của các tổ chức,

cá nhân nớc ngoài ; các quy phạm định nghĩa về các khái niệm cơ bản trong
hoạt động đầu t nớc ngoài tại Việt Nam nh "Bên nớc ngoài", "Bên Việt Nam",
"Đầu t nớc ngoài", "Xí nghiệp liên doanh"
Phần riêng của pháp luật đầu t nớc ngoài bao gồm các nhóm quy phạm
điều chỉnh hoạt động đầu t nớc ngoài cụ thể, nói cách khác là các quy định về:
- Những quy định về quản lý nhà nớc đối với hoạt động đầu t nớc ngoài.
- Những quy định về hình thức đầu t, phơng thức đầu t.
10
- Những quy định về đất đai, xây dựng, lao động.
- Những quy định về thuế, ngân hàng, tài chính, kế toán, thống kê.
- Những quy định về chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp.
- Những quy định về Hải quan, xuất nhập khẩu.
- Những quy định về hợp đồng kinh tế, trọng tài, xử lý tranh chấp.
1.2.2. Đặc trng cơ bản của pháp luật đầu t nớc ngoài
Từ khái niệm pháp luật đầu t nớc ngoài đã đợc trình bày ở trên và qua
nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật đầu t nớc ngoài hiện hành, có thể rút
ra những đặc trng cơ bản nh sau:
1.2.2.1. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật đầu t nớc ngoài
có một số quy phạm pháp luật đầu tiên hớng tới nền kinh tế thị trờng
Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977 ra đời vào năm 1977, chỉ sau hai năm
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là thời điểm nhân dân ta mới bắt
tay vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, cơ chế quản lý tập trung, quan
liêu, bao cấp đang rất thịnh hành và nền kinh tế về cơ bản chỉ có hai thành phần
là kinh tế nhà nớc, kinh tế tập thể. Trong bối cảnh đó, Điều lệ Đầu t nớc ngoài
năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên trong hệ thống pháp luật của Việt Nam tạo
hành lang pháp lý cho hoạt động đầu t nớc ngoài. Trong Điều lệ này, Nhà nớc ta đã
khuyến khích, kêu gọi đầu t nớc ngoài vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trừ
những ngành bị cấm. Điều đó thể hiện chủ trơng cởi mở, đa dạng hóa các lĩnh vực
đầu t của nớc ta. Nh vậy, xét dới góc độ lý luận, có thể khẳng định, công cuộc đổi
mới do Đảng và Nhà nớc khởi xớng chính thức đợc tính từ năm 1986, nhng tiền

đề của nó đã xuất hiện ngay từ năm 1977 trong Điều lệ Đầu t nớc ngoài ở Việt
Nam.
Nh vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thời kỳ từ năm 1977 đến năm
1986, Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên hớng tới nền
kinh tế thị trờng, thể hiện chính sách "mở cửa" của Đảng và Nhà nớc ta. Bên cạnh
đó, Luật Đầu t nớc ngoài năm 1987 cũng có một số quy định "vợt rào" so với
Hiến pháp năm 1980 nh không quốc hữu hóa, thừa nhận thành phần kinh tế t bản,
t nhân
1.2.2.2. Pháp luật đầu t nớc ngoài ra đời trớc khi có quan hệ đầu t nớc
ngoài trên thực tế ở Việt Nam
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội tồn tại, phát triển theo hớng mà Nhà nớc
mong muốn và có thể phản ánh đúng thực tiễn khách quan, Nhà nớc xây dựng và
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Nh vậy, so sánh với tiến trình của các
quan hệ kinh tế, pháp luật thờng xuất hiện chậm so với sự biến động và phát triển
11
của các quan hệ kinh tế. Năm 1977, khi các quy phạm pháp luật đầu t nớc ngoài
ở Việt Nam lần đầu tiên đợc ban hành, thì trên thực tế ở Việt Nam hoàn toàn cha
có quan hệ đầu t nớc ngoài. Thời điểm đó, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu,
bao cấp đang ngự trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; các
khái niệm cơ bản của kinh tế thị trờng nh tự do thơng mại, tự do cạnh tranh, thị
trờng vốn cha đợc chấp nhận chính thức trong các văn bản của Đảng và Nhà n-
ớc ta. Đầu t nớc ngoài với tính chất là sự vận động trực tiếp của t bản nớc ngoài
vào Việt Nam lúc đó vẫn cha đợc tán thành. Chỉ sau khi có chính sách đổi mới t
duy lý luận và t duy kinh tế của Đảng và Nhà nớc, thì đạo luật về đầu t nớc ngoài
tại Việt Nam mới có cơ hội ra đời, các quan hệ đầu t nớc ngoài mới hình thành và
phát triển trên cơ sở pháp lý đó. Vì những lẽ đó mà TS. Hoàng Phớc Hiệp cho
rằng "hệ thống các quy phạm pháp luật đầu t nớc ngoài đợc ban hành trớc khi có
quan hệ đầu t nớc ngoài theo đúng nghĩa của từ đó trên thực tế tại Việt Nam"
1
.

Việc pháp luật đầu t nớc ngoài "vợt trớc" hoạt động đầu t nớc ngoài ở Việt
Nam không phải là hiện tợng trái quy luật. Theo quan điểm của triết học Mác -
Lênin, cơ sở hạ tầng có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thợng tầng và trong
một số trờng hợp nhất định, pháp luật có thể "vợt trớc", thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế, xã hội. Mặt khác, nếu xem xét nền kinh tế nớc ta dới góc độ là một bộ
phận của nền kinh tế khu vực và trên thế giới, thì hoạt động đầu t nớc ngoài đã
tồn tại từ rất lâu ở nhiều nớc trên thế giới với các mức độ khác nhau. Nh vậy,
pháp luật về đầu t nớc ngoài và hoạt động đầu t nớc ngoài ở Việt Nam là cái có
sau so với nhiều nớc trên thế giới và đơng nhiên bị chi phối bởi quá trình quốc tế
hóa nền kinh tế của các nớc. Đây có thể coi là vấn đề hợp quy luật trong tiến
trình hội nhập của nớc ta vào đời sống kinh tế của các nớc trong khu vực và trên
thế giới.
1.2.2.3. Pháp luật đầu t nớc ngoài có một số chủ thể đặc thù
Pháp luật đầu t nớc ngoài điều chỉnh quan hệ đầu t nớc ngoài, trong đó ít
nhất một bên là cá nhân, tổ chức kinh tế hoặc cơ quan nhà nớc Việt Nam và bên
kia là tổ chức, cá nhân nớc ngoài. Tổ chức kinh tế Việt Nam đợc hiểu là các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đợc thành lập, tổ chức và hoạt động
theo các quy định của pháp luật Việt Nam; cơ quan nhà nớc ở đây là cơ quan đợc
Chính phủ ủy quyền ký kết với các cá nhân, tổ chức nớc ngoài thực hiện các hợp
đồng BOT, BT, BTO; tổ chức, cá nhân nớc ngoài là các tổ chức kinh tế nớc ngoài
hoặc cá nhân nớc ngoài tham gia quan hệ đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
Chủ thể của quan hệ pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam gồm có:
1
Xem: TS. Hoàng Phớc Hiệp (1996), Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu t trực tiếp nớc ngoài tại Việt
Nam, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội
12
1) Các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của Việt Nam.
2) Các nhà đầu t nớc ngoài tham gia quan hệ đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
3) Các nhà đầu t Việt Nam tham gia quan hệ đầu t nớc ngoài.
4) Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, các doanh nghiệp BOT, BT,

BTO.
5) Ngời lao động.
6) Các cơ quan tài phán trong nớc và quốc tế.
Cơ sở pháp lý để hình thành quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ
pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam có những nét đặc thù riêng so với các
ngành luật khác. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam, các chủ thể của quan hệ pháp luật đó có các quyền và nghĩa vụ nhất định
trên cơ sở các quy định của pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam, pháp luật của
nớc mà cá nhân, tổ chức kinh tế nớc ngoài mang quốc tịch và các quy định của
điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, hoặc trên cơ sở kết hợp các
quy định đó.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu t nớc ngoài tại
Việt Nam còn đợc xác định theo các điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập nh Hiệp định khung về khu vực đầu t ASEAN (1999), Hiệp định song
phơng về khuyến khích và bảo hộ đầu t, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp
định thơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ Cơ quan đảm bảo đầu t đa biên MIGA
1985 (Multilateral Investment Guarantee Agency), Công ớc New York 1958 về
công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nớc ngoài Các điều ớc quốc
tế đó là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của
các nhà đầu t nớc ngoài.
Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam cũng đợc xác định theo quy định của pháp luật đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam, theo Giấy phép đầu t và theo các văn bản cụ thể đợc cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền chuẩn y. Trong một số trờng hợp đặc biệt còn đợc xác
định theo quy chế riêng do Chính phủ Việt Nam ấn định sau khi có sự thỏa thuận
với đối tác bên ngoài, ví dụ một số hợp đồng BOT, BT, BTO
1.2.2.4. Pháp luật đầu t nớc ngoài có bộ phận cấu thành là một số lợng
lớn các điều ớc quốc tế có liên quan trực tiếp đến đầu t nớc ngoài mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập
Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu t nớc ngoài có bộ phận cấu

thành là một số lợng lớn các điều ớc quốc tế nh Hiệp định khung về khu vực đầu
t ASEAN, 41 Hiệp định song phơng về khuyến khích và bảo hộ đầu t, 34 Hiệp
13
định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thơng mại Việt Nam Hoa kỳ Việc
ký kết và thực hiện các điều ớc quốc tế hai bên và nhiều bên đợc tiến hành theo
các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các điều ớc quốc tế.
Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là các điều ớc quốc
tế, nhng không nhiều hoặc phong phú nh Luật Đầu t nớc ngoài. Ví dụ: Luật Tố
tụng hình sự có các điều ớc quốc tế song phơng về tơng trợ t pháp hoặc hẹp hơn
là về dẫn độ tội phạm. Nhng trong lĩnh vực này, Việt Nam tham gia với số lợng
rất ít, chủ yếu là ký kết với các nớc XHCN trớc đây.
Trong pháp luật đầu t nớc ngoài, các quy phạm trong các điều ớc quốc tế
tham gia điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của chủ thể các quan hệ pháp luật đầu t n-
ớc ngoài tại Việt Nam. Các nhà đầu t nớc ngoài coi các điều ớc quốc tế là cơ sở
pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Đây có thể
nói là một nét đặc thù của pháp luật đầu t nớc ngoài, bởi lẽ tham gia điều chỉnh
các quan hệ xã hội của các ngành luật khác có thể có các quy phạm đợc quy định
trong các điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, nhng số lợng của
chúng không nhiều và phổ biến nh ở pháp luật đầu t nớc ngoài.
1.2.3. Vai trò của pháp luật Đầu t nớc ngoài
Trong xã hội chủ nghĩa, pháp luật giữ vai trò quan trọng. Pháp luật là ph-
ơng tiện thể chế hoá đờng lối, chính sách của Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng đợc thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là phơng tiện
để Nhà nớc quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nớc.
Pháp luật đầu t nớc ngoài với t cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực đầu t, luôn tác động và ảnh hởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ
đầu t nói chung, cũng nh tới tất cả các yếu tố của kiến trúc thợng tầng nói riêng.
Pháp luật đầu t nớc ngoài có một số vai trò chủ yếu sau đây:
1.2.3.1. Pháp luật đầu t nớc ngoài là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ

máy quản lý nhà nớc về đầu t
Bộ máy quản lý nhà nớc nói chung, bộ máy quản lý nhà nớc về đầu t nói
riêng là một thiết chế phức tạp gồm nhiều cơ quan khác nhau. Để bộ máy đó hoạt
động có hiệu quả, phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của
mỗi loại cơ quan, phải xác lập một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ giữa
chúng, phải có những phơng pháp và hình thức tổ chức, hoạt động phù hợp để tạo
ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập quyền lực nhà nớc trong lĩnh vực
đầu t. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện đợc khi dựa trên cơ sở vững chắc
của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật đầu t.
14
Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua cho thấy, khi cha có hệ thống
các quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho
việc củng cố, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nớc về đầu t, thì dễ dẫn đến tình
trạng trùng lập, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của
một số cơ quan nhà nớc trong lĩnh vực này, dễ sinh ra cồng kềnh, kém hiệu quả.
1.2.3.2. Pháp luật đầu t nớc ngoài bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu
quả chức năng tổ chức và quản lý đầu t, góp phần xây dựng cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội
Chức năng tổ chức và quản lý đầu t có phạm vi rộng và phức tạp bao gồm
nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề mà Nhà nớc cần xác lập, điều tiết và giải quyết
nh: hoạch định các chính sách đầu t, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá
cả Tất cả những điều đó đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của Nhà nớc để tạo
ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy hoạt động đầu t đúng hớng, mang lại hiệu quả
thiết thực. Do tính chất phức tạp của hoạt động đầu t (nhiều vấn đề cần giải
quyết) và phạm vi rộng (trên quy mô toàn quốc) của chức năng quản lý đầu t,
Nhà nớc không thể tham gia vào các hoạt động đầu t cụ thể mà chỉ thực hiện chức
năng quản lý nhà nớc đối với hoạt động đầu t. Quá trình đó không thể thực hiện
đợc nếu không dựa vào pháp luật đầu t nớc ngoài. Chỉ có pháp luật đầu t nớc
ngoài với những tính chất đặc thù của nó mới là cơ sở để Nhà nớc hoàn thành đợc
chức năng của nó trong lĩnh vực đầu t.

Quá trình tổ chức và quản lý đầu t ở Việt Nam trong những năm qua đã là
một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật đầu t nớc ngoài. Tình
trạng thiếu các quy phạm pháp luật về đầu t nớc ngoài cũng nh sự tồn tại quá lâu
những văn bản, những quy phạm pháp luật đầu t của cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp, đã làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nớc, kìm hãm sự phát triển của
hoạt động đầu t nớc ngoài nói riêng, của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
1.2.3.3. Pháp luật đầu t nớc ngoài bảo vệ lợi ích của các nhà đầu t nớc
ngoài, đồng thời bảo hộ sản xuất trong nớc
Nhằm khuyến khích, kêu gọi đầu t nớc ngoài vào Việt Nam, Luật Đầu t n-
ớc ngoài năm 1987 và 1996 đã khẳng định quyền đợc tôn trọng và bảo vệ của các
nhà đầu t nớc ngoài và quy định một số u đãi hơn đối với đầu t trong nớc. Đối với
các nhà đầu t nớc ngoài, Nhà nớc ta đã xác lập những chế định bảo hộ và khuyến
khích đầu t nớc ngoài rất rõ ràng.
Tuy nhiên, chúng ta khuyến khích đầu t nớc ngoài một phần là vì nhu cầu
phát triển sản xuất trong nớc. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định "Vốn nớc
ngoài là quan trọng, vốn trong nớc là quyết định". Do vậy, đi đôi với việc khuyến
15
khích, u đãi đối với đầu t nớc ngoài, pháp luật đầu t trong nớc chú trọng bảo hộ
sản xuất trong nớc. Đây là nguyên tắc phát triển kinh tế của mọi quốc gia, có
chăng chỉ khác nhau về mức độ và nội dung bảo hộ mà thôi. Chính bản thân sự
xuất hiện của pháp luật đầu t nớc ngoài đã nói lên t tởng bảo hộ sản xuất trong n-
ớc. Việc đề ra pháp luật đầu t nớc ngoài là nhằm quy định một hành lang pháp lý
riêng cho hoạt động đầu t nớc ngoài, để tách một số hoạt động, cũng nh một số u
đãi đối với các nhà đầu t nớc ngoài khỏi "sân chơi" của các doanh nghiệp Việt
Nam, dành một số lợi thế so sánh cho các doanh nghiệp trong nớc. Trong giai
đoạn hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam còn đợc hởng một số đặc quyền hoặc
u đãi thì mới tồn tại và phát triển đợc, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế của ta
còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp trong nớc cha đủ mạnh. Chúng ta chủ trơng
bảo hộ sản xuất trong nớc trong một số lĩnh vực, phạm vi và mức độ nhất định để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nớc dần mạnh lên. Vì vậy, có thể khẳng

định một trong những vai trò rất quan trọng của pháp luật đầu t nớc ngoài là bảo
vệ lợi ích của nhà đầu t nớc ngoài, nhng đồng thời cũng là hành lang pháp lý để
bảo hộ sản xuất trong nớc. Điều đó góp phần từng bớc xây dựng một nền kinh tế
tự cờng, loại bỏ mọi nguy cơ biến nền kinh tế nớc ta thành một nền kinh tế lệ
thuộc vào bên ngoài.
1.2.3.4. Pháp luật đầu t nớc ngoài góp phần nâng cao hiệu quả đầu t tại
Việt Nam
Pháp luật đầu t nớc ngoài ra đời là để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan
hệ xã hội về đầu t. Pháp luật đầu t nớc ngoài cũng tác động trở lại làm cho các
quan hệ đầu t phát sinh, phát triển theo hớng có lợi.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo chỉ có thể mang lại
kết quả khi pháp luật nói chung, pháp luật đầu t nớc ngoài nói riêng phản ánh
đúng các quy luật kinh tế khách quan trong điều kiện mới của nền kinh tế nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc. Chính sự
đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu t nớc ngoài, tạo tiền đề cho sự cởi
trói, thúc đẩy các quan hệ đầu t mới phát triển. Đối với sự phát triển hoạt động
đầu t, pháp luật đầu t nớc ngoài có vai trò cụ thể nh sau:
Thứ nhất, pháp luật đầu t nớc ngoài tạo cơ sở cho việc xác lập những
nguyên tắc pháp lý cơ bản đảm bảo cho sự vận hành của hoạt động đầu t tại Việt
Nam có hiệu quả.
Có thể nói đây là vai trò quan trọng của pháp luật đầu t nớc ngoài, phản
ánh những đòi hỏi khách quan của sự phát triển các quan hệ đầu t đợc thể chế
hóa, hình thành những nguyên tắc pháp lý xuyên suốt, chi phối sự vận hành của
16
cơ chế quản lý đầu t cũng nh đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của các quan hệ
đầu t. Để xây dựng một nền kinh tế thị trờng, không thể bỏ qua các nguyên tắc
cơ bản nh: tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự do hình thành giá cả, khuyến khích
cạnh tranh. Một khi các nguyên tắc trên đợc thể chế hóa thành những nguyên tắc
pháp lý, thì nó trở thành những tiêu chí cho sự lựa chọn hệ thống các giải pháp,
công cụ để tác động lên hoạt động đầu t, làm cho nó không thoát ly trật tự hình

mẫu mà nó đang vơn tới và đem lại những kết quả khả quan cho hoạt động đầu t
nớc ngoài tại Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật đầu t nớc ngoài xác lập môi trờng an toàn cho sự xuất
hiện của các quan hệ đầu t nớc ngoài, đảm bảo cho các quan hệ đó đợc điều
chỉnh trong trật tự.
Đây là vấn đề mang tính quy luật, bởi lẽ sự hợp tác và mối quan hệ giữa
các tổ chức, cá nhân nớc ngoài với nớc ta chỉ có thể phát triển trong môi trờng
chính trị, kinh tế, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Đối với các nhà
đầu t nớc ngoài, thị trờng đầu t của họ rất rộng lớn trong phạm vi quốc tế; quan
hệ đầu t ra nớc ngoài của họ là quan hệ kinh doanh, mục đích của họ là tìm kiếm
lợi nhuận cao. Vì vậy, họ chỉ chấp nhận đầu t vào đâu có lợi nhuận thỏa đáng.
Đảm bảo hoạt động đầu t cho họ đồng nghĩa với đảm bảo cho họ có đủ điều kiện
để có lợi nhuận. Đó là môi trờng đầu t ổn định, độ rủi ro trong kinh doanh không
cao, thủ tục đầu t đơn giản, thuận tiện.
ở Việt Nam đã có môi trờng pháp lý đáng tin cậy, và nhờ đó, các quan hệ
kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động đầu t nớc ngoài nói riêng đã mở rộng,
phát triển và đem lại hiệu quả đáng kể góp phần quan trọng và sự phát triển xã
hội.
1.2.3.5. Pháp luật đầu t nớc ngoài góp phần thúc đẩy và phát triển mối
quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc
Trong thời đại ngày nay, phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các nớc
ngày càng lớn và tính chất các mối quan hệ đó ngày càng đa dạng. Cơ sở cho
việc thiết lập các mối quan hệ đó chính là pháp luật: pháp luật quốc tế và pháp
luật của mỗi nớc. Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nớc có b-
ớc phát triển mới; bên cạnh pháp luật đầu t trong nớc điều chỉnh hoạt động đầu t
của cá nhân, tổ chức trong nớc, còn có pháp luật đầu t nớc ngoài điều chỉnh các
quan hệ có liên quan đến hoạt động đầu t của tổ chức, cá nhân nớc ngoài.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từng bớc hội nhập vào kinh
tế khu vực và quốc tế, pháp luật đầu t trong nớc và pháp luật đầu t nớc ngoài là
công cụ quan trọng không chỉ tạo ra môi trờng pháp lý an toàn cho việc mở cửa

17
nền kinh tế, mà còn tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các tổ chức, cá nhân n-
ớc ngoài đầu t vào Việt Nam, cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị
trờng quốc tế. Pháp luật đầu t nớc ngoài là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm
tin, là cơ sở để mở rộng mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia, dân tộc. Nói
cách khác, sự phát triển của pháp luật đầu t nớc ngoài gắn liền với sự phát triển
về chính sách đối ngoại, thu hút đầu t nớc ngoài của Đảng và Nhà nớc Việt Nam.
Chơng 2
sự hình thành và phát triển của hệ thống
pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam
2.1. Giới thiệu về hệ thống pháp luật đầu t nớc ngoài
Hệ thống pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam có thể đợc hiểu theo
nghĩa rộng, hoặc nghĩa hẹp. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, hệ thống pháp luật đầu t
nớc ngoài tại Việt Nam, gồm ba bộ phận cấu thành:
Bộ phận thứ nhất: Đạo luật Đầu t nớc ngoài và các văn bản hớng dẫn trực
tiếp thi hành.
Văn bản pháp luật đầu t nớc ngoài đợc ban hành ngày 18/4/1977 là Điều lệ
Đầu t nớc ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977). Điều lệ Đầu
t nớc ngoài năm 1977 là văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nớc ta quy định các
nguyên tắc cơ bản về đầu t nớc ngoài tại Việt Nam và những vấn đề về lĩnh vực
đầu t, đối tác đầu t, góp vốn đầu t, hình thức đầu t, thời hạn đầu t, thuế áp dụng
cho đầu t nớc ngoài, quản lý ngoại hối và chế độ kế toán thống kê, thủ tục đầu t,
giải thể, xử lý tranh chấp.
Đạo luật đầu t nớc ngoài thứ hai đợc Quốc hội ban hành ngày 31/12/1987,
tạo cơ sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu t nớc ngoài tại Việt Nam. Việc
soạn thảo Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm
1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh nghiệm lập pháp đầu
t nớc ngoài của nhiều nớc trên thế giới. Tiếp đó, Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính
phủ) đã ban hành Nghị định 139/HĐBT ngày 5/9/1988 (sau đây gọi là Nghị định
139) gồm 11 chơng, 113 điều quy định chi tiết việc thi hành Luật Đầu t nớc ngoài

tại Việt Nam.
Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu
t nớc ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VIII
đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu t nớc ngoài năm
1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu t nớc ngoài (sửa đổi) năm 1990). Sau khi sửa
đổi, bổ sung lần thứ nhất Luật Đầu t nớc ngoài vào năm 1990, 7 văn bản pháp
luật có liên quan đến đầu t nớc ngoài cũng đã đợc ban hành mới hoặc đợc sửa
18
đổi, bổ sung cho phù hợp.
Tiếp theo đó, ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật
Đầu t nớc ngoài (sửa đổi) năm 1992). Sau khi Luật Đầu t nớc ngoài (sửa đổi)
năm 1992 đợc thông qua, Nghị định số 18/CP ngày 26/12/1992 của Chính phủ
quy định chi tiết việc thi hành Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt
là Nghị định 18), thay thế cho Nghị định số 28/HĐBT ngày 6/2/1991 (sau đây
gọi là Nghị định 28) và 17 văn bản pháp luật liên quan đến đầu t nớc ngoài cũng
đã đợc ban hành.
Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam năm 1987, Luật Đầu t nớc ngoài (sửa đổi) năm 1990, Luật Đầu t nớc ngoài
(sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trờng pháp lý hấp dẫn, thể hiện chính sách
nhất quán thu hút đầu t nớc ngoài vào Việt Nam của Đảng và Nhà nớc ta. Sau khi
ban hành Luật Đầu t nớc ngoài năm 1996, Nghị định số 12/CP ngày 18/2/1997
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam (sau
đây gọi tắt là Nghị định 12) và 15 văn bản pháp luật khác có liên quan đến đầu t
nớc ngoài cũng đợc ban hành.
Ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu t nớc ngoài
(sửa đổi) năm 2000). Trên cơ sở Luật Đầu t nớc ngoài (sửa đổi) năm 2000 và
Nghị định 24, các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành hơn 20 văn bản pháp lý để

hớng dẫn thi hành.
Luật Đầu t nớc ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24 cùng hệ thống
các văn bản pháp luật nói trên đã tạo dựng khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt
động đầu t nớc ngoài phù hợp với đờng lối, quan điểm của Đảng về phát triển và
mở cửa nền kinh tế ở nớc ta hiện nay.
Bộ phận thứ hai: pháp luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam không chỉ thuần
túy là các đạo luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đợc ban hành năm 1987, 1996
và các văn bản hớng dẫn trực tiếp mà còn là các quy định trong các đạo luật khác
nh Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật Đất đai,
các đạo luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu, Pháp lệnh thuế
thu nhập cá nhân, thuế VAT
Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu t nớc ngoài là đối tợng
điều chỉnh của pháp luật đầu t nớc ngoài phần lớn mang tính chất hàng hóa, tiền
tệ, cho nên pháp luật đầu t nớc ngoài có quan hệ rất chặt chẽ với Bộ luật Dân sự.
19
Pháp luật đầu t nớc ngoài chỉ quy định nguyên tắc, còn một số chế định của Bộ
luật Dân sự có liên quan đến hoạt động đầu t nớc ngoài, đồng thời cũng là bộ
phận cấu thành pháp luật đầu t nớc ngoài quy định cụ thể. Phần thứ VII Bộ luật
Dân sự quy định về các quan hệ dân sự có yếu tố nớc ngoài, trong đó quy định cụ
thể các vấn đề về nguyên tắc áp dụng pháp luật nớc ngoài và điều ớc quốc tế
(Điều 828), căn cứ chọn pháp luật áp dụng đối với ngời không có quốc tịch hoặc
ngời nớc ngoài có nhiều quốc tịch (Điều 829), năng lực dân sự của pháp nhân n-
ớc ngoài (Điều 832), quyền sở hữu tài sản (Điều 838). Trong Bộ luật Dân sự còn
có những điều luật quy định trực tiếp một số vấn đề của đầu t nớc ngoài, ví dụ:
việc sát nhập, mua lại, chuyển đổi và tái cơ cấu các doanh nghiệp có vốn đầu t n-
ớc ngoài đợc thực hiện trên cơ sở Điều 19a Luật Đầu t nớc ngoài năm 1996 và
Điều 321 Bộ luật Dân sự.
Trong đầu t nớc ngoài tại Việt Nam bao giờ cũng phát sinh quan hệ lao
động giữa doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài với ngời lao động làm việc trong
các doanh nghiệp đó và các quan hệ khác gắn bó chặt chẽ với quan hệ lao động

nh quan hệ giữa công đoàn với doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, quan hệ
trong việc giải quyết tranh chấp lao động Luật Đầu t nớc ngoài hiện hành
không có các điều khoản riêng quy định về việc sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, nên các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài phải tuân thủ các quy định trong Bộ luật Lao động, các văn bản hớng dẫn
thi hành Bộ luật Lao động của Chính phủ, Bộ Lao động - Thơng binh và Xã hội.
Thời kỳ ta cha có Bộ luật Lao động, Luật Đầu t nớc ngoài năm 1987 và Nghị
định số 139/HĐBT ngày 5/9/1988 của Hội đồng Bộ trởng quy định chi tiết thi
hành Luật Đầu t nớc ngoài (sau đây gọi là Nghị định 139) đã dành hẳn một ch-
ơng quy định những vấn đề về quan hệ lao động trong hoạt động đầu t nớc ngoài.
Nhng khi có Bộ luật Lao động năm 1994, đạo luật Đầu t nớc ngoài chỉ quy định
mang tính chất dẫn chiếu nh Điều 25 Luật Đầu t nớc ngoài năm 1996 quy định:
"Quyền lợi và nghĩa vụ của ngời lao động làm việc trong doanh nghiệp có vốn
đầu t nớc ngoài đợc bảo đảm bằng hợp đồng lao động, thỏa ớc lao động tập thể
và các quy định của pháp luật về lao động".
Hoạt động đầu t nớc ngoài tại Việt Nam có liên quan đến một loạt vấn đề
rất nhạy cảm, nh: sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, bồi thờng, thế chấp quyền sử
dụng đất. Đối với các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực sử dụng đất của các doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, đạo luật Đầu t nớc ngoài chỉ quy định những vấn
đề mang tính đặc thù của đầu t nớc ngoài, còn các chế định của Luật Đất đai liên
quan đến hoạt động đầu t nớc ngoài và là một bộ phận của pháp luật đầu t nớc
20
ngoài, quy định những vấn đề cụ thể. Ví dụ: Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày
31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt
Nam (sau đây gọi là Nghị định 24) chỉ quy định những vấn đề đặc thù của đầu t
nớc ngoài có liên quan đến đất đai, nh: thuê đất, trả tiền thuê đất, mức tiền thuê
đất và miễn, giảm tiền thuê đất, thẩm quyền quyết định cho thuê đất, đền bù, giải
phóng mặt bằng, thời hạn tính tiền thuê đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
đất. Những thủ tục cụ thể đợc quy định trong Thông t số 679/TT-ĐC ngày
12/5/1997 của Tổng cục Địa chính hớng dẫn việc cho thuê đất để thực hiện các

dự án có vốn đầu t nớc ngoài. Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày
4/4/1998 quy định về việc bồi thờng thiệt hại khi Nhà nớc thu hồi đất đai để sử
dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và công cộng
Cũng nh các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài phải
có nghĩa vụ đóng góp các khoản thuế nhất định cho Nhà nớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thuế
của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, pháp luật đầu t nớc ngoài chỉ quy
định những vấn đề có tính đặc thù của đầu t nớc ngoài, còn các đạo luật thuế quy
định những vấn đề cụ thể. Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của
Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện thuế giá trị gia tăng, Thông t số
89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính hớng dẫn thực hiện Nghị định
số 28/1998/NĐ-CP; Nghị quyết số 90/1999/NQ-UBTVQH ngày 3/9/1999 của
ủy ban Thờng vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa và dịch vụ
không chịu thuế giá trị gia tăng, Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày 9/5/2000
của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện Nghị quyết số 90/1999/NQ-
UBTVQH và Thông t số 49/2000/TT-BTC ngày 31/5/2000 của Bộ Tài chính h-
ớng dẫn thực hiện Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày 9/5/2000 của Chính phủ
Trớc đây, pháp luật đầu t nớc ngoài quy định các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài phải nộp thuế lợi tức. Khi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời năm
1997, thì đối tợng áp dụng đợc quy định bao gồm cả các dự án đầu t nớc ngoài
(Điều 1, 3). Về mức thuế suất, do đặc thù của đầu t nớc ngoài, nên khoản 2 Điều
10 của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy định vẫn áp dụng mức thuế suất
của Luật Đầu t nớc ngoài. Tuy nhiên, cách tính thuế và quy trình, thủ tục nộp
thuế thì đợc thực hiện theo quy định của Thuế Thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra,
Điều 49 Luật Đầu t nớc ngoài hiện hành còn quy định: "Ngoài các loại thuế quy
định tại luật này, doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài và Bên nớc ngoài tham gia
hợp đồng hợp tác kinh doanh phải nộp các loại thuế khác theo quy định của pháp
luật". Nh vậy, ngoài các quy định mang tính đặc thù của pháp luật đầu t nớc
21
ngoài về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nớc ngoài, thuế

nhập khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài phải nộp các loại thuế
khác bình đẳng nh doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với những vấn đề liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, Luật Thơng mại quy định cụ thể các điều kiện và
thủ tục xuất nhập khẩu, gia công, đại lý, mua bán hàng hóa của các các doanh
nghiệp nói chung, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, còn đạo
luật Đầu t nớc ngoài chỉ có những quy định mang tính đặc thù của hoạt động đầu
t nớc ngoài hoặc có những quy định có tính nguyên tắc. Ví dụ: Điều 31 Luật Đầu
t nớc ngoài hiện hành quy định quyền tự chủ kinh doanh trong việc nhập khẩu,
ủy quyền nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài
và Bên nớc ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, còn trình tự, thủ tục của
việc nhập khẩu, ủy quyền nhập khẩu tiêu thụ hàng hóa thì đợc quy định cụ thể
trong Luật Thơng mại
Một vấn đề quan trọng của hoạt động đầu t nớc ngoài tại Việt Nam là
chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài. Trong số các
dự án đầu t nớc ngoài, một số dự án có thể phải chấm dứt hoạt động do doanh
nghiệp gặp khó khăn trong tài chính, thậm chí ở trong tình trạng phá sản. Đối với
những trờng hợp nh vậy, Nhà nớc phải có những quy định để đảm bảo các doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đợc thanh lý, chấm dứt hoạt động hoặc phá sản
một cách công bằng. Để xử lý việc chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp có
vốn đầu t nớc ngoài, đạo luật đầu t nớc ngoài chỉ quy định nguyên tắc, còn các
chế định của Luật Phá sản doanh nghiệp liên quan đến việc phá sản doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài và là một bộ phận của pháp luật đầu t nớc ngoài
quy định những vấn đề cụ thể. Ví dụ: vấn đề phá sản doanh nghiệp có vốn đầu t
nớc ngoài đợc quy định cụ thể trong Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Nghị
định số 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ hớng dẫn thi hành Luật Phá sản
doanh nghiệp, Nghị định số 92/CP ngày 19/12/1995 của Chính phủ về quyền lợi
của ngời lao động trong các doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản Nh vậy, trong
mối quan hệ với pháp luật đầu t nớc ngoài, nhiều chế định của Luật Phá sản
doanh nghiệp đợc coi là một bộ phận cấu thành pháp luật đầu t nớc ngoài, đóng

một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi
chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tại Việt Nam.
Ngoài ra, một số quan hệ đầu t nớc ngoài tại Việt Nam còn chịu sự điều
chỉnh của một số ngành luật chuyên biệt. Đầu t nớc ngoài trong lĩnh vực khoáng
sản chịu sự quy định của Luật Khoáng sản về thời hạn của các giấy phép thăm
22
dò, khai thác, diện tích đợc phép thăm dò, khai thác; đầu t trong lĩnh vực dầu khí
chịu sự điều chỉnh của Luật Dầu khí; đầu t nớc ngoài trong lĩnh vực ngân hàng
chịu sự điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng
Bộ phận thứ ba: là các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu t nớc
ngoài đợc quy định trong các điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu t nớc ngoài có bộ phận cấu
thành là một số lợng lớn các điều ớc quốc tế nh Hiệp định khung về khu vực đầu
t ASEAN, 41 Hiệp định song phơng về khuyến khích và bảo hộ đầu t, 34 Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thơng mại Việt Nam Hoa kỳ Việc
ký kết và thực hiện các điều ớc quốc tế hai bên và nhiều bên đợc tiến hành theo
các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các điều ớc quốc tế.
Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là các điều ớc quốc
tế, nhng không nhiều hoặc phong phú nh Luật Đầu t nớc ngoài. Ví dụ: Luật Tố
tụng hình sự có các điều ớc quốc tế song phơng về tơng trợ t pháp hoặc hẹp hơn
là về dẫn độ tội phạm. Nhng trong lĩnh vực này, Việt Nam tham gia với số lợng
rất ít, chủ yếu là ký kết với các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, pháp luật đầu t nớc ngoài chỉ bao gồm đạo luật
Đầu t nớc ngoài và các nghị định, thông t hớng dẫn thi hành
2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu t nớc
ngoài qua các giai đoạn lịch sử
Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế-xã hội trong nớc, có thể chia sự hình
thành và phát triển của pháp luật đầu t nớc ngoài thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất, từ năm 1975 đến năm 1987
- Giai đoạn thứ hai, từ năm 1987 đến năm 1996

- Giai đoạn thứ ba, từ năm 1996 đến nay
2.2.1. Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1975 đến năm 1987)
Giai đoạn này có đặc điểm là miền Nam mới đợc giải phóng, nớc ta đang ở
trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa; cả nớc
hòa bình, độc lập và thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận
lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn d của
chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Thể chế hóa đờng lối, chính sách kinh tế và đối ngoại của Đảng, ngày
18/4/1977, Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Điều lệ Đầu t nớc
ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977). Việc nghiên cứu Điều
lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977 cho thấy, đây là văn bản pháp lý đầu tiên hớng vào
23
nền kinh tế thị trờng, thể hiện bớc đầu quan điểm "mở cửa" của Đảng và Nhà nớc
ta, bởi lẽ Điều lệ khuyến khích đầu t nớc ngoài vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế,
trừ những ngành nghề bị cấm. Tuy nhiên, do Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977
đợc ban hành trong bối cảnh của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đang thịnh
hành trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; các vấn đề lý luận về kinh tế thị tr-
ờng đang là điều cấm kỵ, cho nên Điều lệ cũng không tránh khỏi những hạn chế,
còn bộc lộ nhiều điểm cha hấp dẫn các nhà đầu t nớc ngoài nh xí nghiệp t doanh
chỉ đợc phép thành lập với điều kiện chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, mà đây là
điều kiện rất khó thực hiện; thời hạn cho phép đầu t nớc ngoài quá ngắn: từ 10
đến 15 năm kể từ ngày đợc cấp giấy phép đầu t
Trớc tình hình bị Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, chúng ta đã ký kết một số
hiệp định hợp tác đầu t với Liên Xô và các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây. Các
họat động đầu t nớc ngoài vào thời điểm này không chịu sự điều chỉnh của Điều
lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977 mà chịu sự điều chỉnh của các Hiệp định này.
2.2.2. Giai đoạn thứ hai (từ năm 1987 đến năm 1996)
Vào những năm đầu của giai đoạn này, tình hình kinh tế xã hội nớc ta
có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu t thấp;

phân phối lu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế
chậm đợc thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn,
các hiện tợng tiêu cực diễn ra ở nhiều nơi, có nơi có lúc nghiêm trọng.
Thực hiện đờng lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra, ngày
31/12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam, tạo cơ sở
pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu t nớc ngoài tại Việt Nam. Việc soạn thảo
Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977, xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh nghiệm lập pháp đầu t nớc
ngoài của nhiều nớc trên thế giới.
So với Điều lệ Đầu t nớc ngoài năm 1977, Luật Đầu t nớc ngoài năm 1987
đã có một bớc tiến bộ vợt bậc về kỹ thuật lập pháp, về sự phù hợp với tập quán và
luật pháp quốc tế, tạo môi trờng pháp lý tơng đối đầy đủ cho hoạt động đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu t nớc ngoài năm 1987 đã có một điều riêng (Điều
2) nêu 12 khái niệm pháp lý quan trọng, tạo điều kiện nhận thức và áp dụng
thống nhất luật này trên phạm vi toàn quốc.
Bên cạnh đó, Luật Đầu t nớc ngoài năm 1987 đã quy định cụ thể hơn về: 1)
Đối tợng hợp tác đầu t với nớc ngoài; 2) Lĩnh vực khuyến khích đầu t; 3) Hình
thức đầu t; 4) Biện pháp bảo đảm đầu t; 5) Quy định về thuế; 6) Quy định về vốn
pháp định; 7) Chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm; 8) Mở tài khoản; 9) Thời hạn
24
đầu t; 10) Cơ quan nhà nớc quản lý đầu t nớc ngoài.
Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu
t nớc ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VIII
đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu t nớc ngoài năm
1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu t nớc ngoài (sửa đổi) năm 1990). Luật này đã
sửa đổi, bổ sung 15 trên tổng số 42 điều của Luật Đầu t nớc ngoài năm 1987.
Với sự sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ này, hệ thống pháp luật về đầu
t nớc ngoài đã góp phần làm cho môi trờng đầu t nớc ngoài ở Việt Nam vào
những năm 1990 thêm hấp dẫn.
Ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu t nớc
ngoài (sửa đổi) năm 1992). Luật này đã sửa đổi, bổ sung 9 điều, bổ sung mới 3
điều tập trung vào 9 vấn đề quan trọng.
Sau khi Luật Đầu t nớc ngoài (sửa đổi) năm 1992 đợc thông qua, Nghị
định số 18/CP ngày 26/12/1992 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành
Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 18), thay thế cho
Nghị định số 28/HĐBT ngày 6/2/1991 (sau đây gọi là Nghị định 28) và 17 văn
bản pháp luật liên quan đến đầu t nớc ngoài cũng đã đợc ban hành. Nh vậy, cho
đến trớc khi ban hành Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam năm 1996, Nhà nớc đã
ban hành khoảng 110 văn bản luật và dới luật liên quan đến đầu t nớc ngoài, tạo
môi trờng pháp lý tơng đối đầy đủ, đồng bộ cho hoạt động đầu t nớc ngoài tại
Việt Nam.
2.2.3. Giai đoạn thứ ba (từ năm 1996 đến nay)
Giai đoạn này đất nớc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội; quan
hệ đối ngoại không ngừng đợc mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế đợc tiến hành
chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Đảng và Nhà nớc ta đã có các chủ trơng, giải pháp cụ thể trong lĩnh vực
đầu t nớc ngoài. Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu t nớc ngoài
tại Việt Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu t nớc ngoài
tại Việt Nam năm 1987, Luật Đầu t nớc ngoài (sửa đổi) năm 1990, Luật Đầu t n-
ớc ngoài (sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trờng pháp lý hấp dẫn, thể hiện
chính sách nhất quán thu hút đầu t nớc ngoài vào Việt Nam của Đảng và Nhà nớc
ta.
Luật Đầu t nớc ngoài năm 1996 đợc ban hành trong bối cảnh hệ thống
pháp luật về kinh tế đã đợc xây dựng, sửa đổi, bổ sung tơng đối đầy đủ, so với tr-
ớc kia. Nhiều đạo luật quan trọng đã đợc ban hành vào thời điểm này nh Bộ luật
25

×