Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

cơ chế giám sát hệ thống ngân hàng và quy định trọng yếu của hiệp ước basel iii - so sánh với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.23 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
−∙−
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
Khoa Tài Chính Ngân Hàng
Tiểu Luận Ngân Hàng Trung Ương
Tên đề tài: Cơ chế giám sát hệ thống ngân hàng và
quy định trọng yếu của Hiệp ước Basel III - so sánh
với Việt Nam
Giảng Viên: TS. Hoàng Công Gia Khánh
Lớp: Cao Học Tài Chính Ngân Hàng(K12)
Nhóm 4
An Giang, Ngày 9 tháng 5 năm 2013
1
Mục Lục
A. PHẦN MỞ ĐẦU 2
B. PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 7
1. CƠ CHẾ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 7
1.1. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CƠ CHẾ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 7
1.2. ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ VÀ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC NÂNG CAO TÍNH HIỆU QUẢ TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ CHẾ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 10
2. HIỆP ƯỚC BASEL III - SO SÁNH VỚI VIỆT NAM 12
2.1. QUY ĐỊNH TRỌNG YẾU CỦA HIỆP ƯỚC BASEL III 12
2.2. LỘ TRÌNH THỰC THI HIỆP ƯỚC BASEL III 13
3. NHỮNG QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT
NAM 14
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 17
NHÓM 4: CƠ CHẾ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ QUY ĐỊNH TRỌNG
YẾU CỦA HIỆP ƯỚC BASEL III - SO SÁNH VỚI VIỆT NAM
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. GIỚI THIỆU
Trong quá trình phát triển và hội nhập, một quốc gia muốn phát triển nhanh và bền vững


thì nhất thiết phải dựa trên một nền kinh tế tài chính và một hệ thống ngân hàng phát triển
lành mạnh và bền vững. Thực tế đã chứng minh chỉ một sự đổ vỡ của ngân hàng sẽ kéo
2
theo hiệu ứng dây chuyền ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế không chỉ trong phạm vi quốc
gia mà cả trên phạm vi toàn thế giới. Chính vì vậy vấn đề đặt ra là mỗi quốc gia cần xây
dựng cho mình một cơ chế giám sát ngân hàng như thế nào để đảm bảo hoạt động an toàn
lành mạnh cho hệ thống ngân hàng quốc gia mình và phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng
cho quá trình phát triển và hội nhập. Và đó cũng chính là lý do nhóm 4 thực hiện nghiên
cứu đề tài “Cơ chế giám sát hệ thống ngân hàng và quy định trọng yếu của Hiệp ước
Basel III - so sánh với Việt Nam”.
Nội dung của báo cáo nghiên cứu sẽ xoay quanh ba vấn đề chính:
- Khái quát cơ chế giám sát hệ thống ngân hàng;
- Những quy định trọng yếu của Hiệp ước Basel III;
- Liên hệ thực tế hoạt động giám sát ngân hàng tại Việt Nam cũng như khả năng đáp
ứng và ứng dụng Hiệp ước Basel tại Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu cơ chế giám sát hệ thống ngân hàng và những quy định trọng
yếu của Hiệp ước Basel III, báo cáo sẽ tạo ra cái nhìn tổng quan và có những đánh giá, nhận
định về hoạt động giám sát ngân hàng tại Việt Nam cũng như khả năng đáp ứng và tuân thủ
các chuẩn mực của Hiệp ước Basel III trong những năm tới.
3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Từ mục đích nghiên cứu trên, báo cáo nghiên cứu sẽ lần lượt làm rõ các vấn đề:
- Mục tiêu, nội dung và các yếu tố cấu thành của cơ chế giám sát ngân hàng;
- Thực trạng và những vấn đề tồn tại của cơ chế giám sát ngân hàng tại Việt Nam.
- Những quy định trọng yếu và lộ trình thực thi của Hiệp ước Basel III.
- Những quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ở Việt Nam
thông qua Thông tư 13/2010/TT-NHNN và Thông tư 19/2010/TT-NHNN.
- Đánh giá khả năng đáp ứng và đề xuất yêu cầu nhằm hướng đến việc tuân thủ các
chuẩn mực của Hiệp ước Basel III ở Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Do thông tin tiếp cận ở mức hạn chế nên những tài liệu tổng hợp của nhóm chủ yếu trên
Internet. Tuy nhiên nhóm đã nghiên cứu tổng hợp một cách sáng tạo; có những đánh giá,
nhận định và quan điểm riêng dưới góc nhìn của nhóm.
5. ĐIỂM QUA CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN
5.1CƠ CHẾ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
3
5.1.1 KHÁI NIỆM GIÁM SÁT NGÂN HÀNG
Giám sát ngân hàng là phương thức tổ chức và vận hành của các cơ quan chức năng
thông qua việc thiết lập cơ chế; cấp phép, giám sát từ xa; thanh tra tại chỗ; cưỡng chế thi
hành kết luận thanh tra nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh.
5.1.2 MỤC TIÊU GIÁM SÁT NGÂN HÀNG
- Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng; gia tăng
hiệu quả và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính;
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín
dụng;
- Duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng;
- Bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng;
- Ổn định hệ thống tiền tệ; nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ và ngân hàng.
5.1.3 CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH MỘT HỆ THỐNG GIÁM SÁT NGÂN
HÀNG
Một hệ thống giám sát ngân hàng gồm các yếu tố cấu thành sau: cơ quan giám sát
của nhà nước, cơ chế kiểm soát nội bộ, kỷ luật thị trường và các thành phần khác như: tổ
chức bảo hiểm tiền gởi, hiệp hội ngân hàng… Muốn phát huy tác dụng của hệ thống giám
sát ngân hàng thì các yếu tố cấu thành trên đều phải hoạt động và phối hợp với nhau một
cách có hiệu quả.
Một hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại nên có ba phòng tuyến như sau: cơ chế
kiểm soát nội bộ tốt là phòng tuyết thứ nhất phòng ngừa rủi ro cho chính ngân hàng; kỷ luật
thị trường ngành ngân hàng hoạt động có hiệu quả là phòng tuyến thứ hai giám sát hoạt
động ngân hàng; và phòng tuyến thứ ba chính là hoạt động giám sát của các cơ quan hành

chính nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại. Đây có thể được xem là
ba trụ cột bảo vệ hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động ổn định và có hiệu quả, bổ trợ
lẫn nhau trong quá trình phòng ngừa và khống chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ngoài
ra có thể trình bày kết cấu một hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại như sau:
4
Hình 1: Hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại
5.2HIỆP ƯỚC VỐN BASEL
5.2.1 QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA HIỆP ƯỚC VỐN BASEL
Vào những năm 1980, hệ thống ngân hàng thương mại trên thế giới phát triển mạnh và
có những dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Nhằm củng cố hoạt
động và tạo ra một cơ chế cạnh tranh bình đẳng của hệ thống ngân hàng, Ủy ban Basel về
giám sát ngân hàng được thành lập bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan
giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ. Ủy ban được nhóm
họp 4 lần trong một năm. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng
chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên.
Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giám sát
hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát
nào và những kết luận của Ủy ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với
việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố
những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo
thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua
những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy
5
ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng
can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên
5.2.2 HIỆP ƯỚC BASEL I
Năm 1988, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng Uỷ ban này đã phê duyệt một văn bản
đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động
quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy

ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do
đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân
hàng đó. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro tín dụng của
ngân hàng đó.
Mục đích của Basel I:
- Chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu hóa nhằm củng cố sự ổn
định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh
tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
5.2.3 HIỆP ƯỚC BASEL II
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung
đo lường mới với 3 trụ cột chính. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel
mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối
thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính
toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp (hay
rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này
cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ
thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước
tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải
công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông
tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi
ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
6
Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc
tế; tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện

quốc tế; đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi
ro.
B. PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. CƠ CHẾ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Việt Nam cũng là một trong những nước áp dụng khuôn khổ của Basel trong việc
giám sát hoạt động các ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế, hoạt động giám sát tại Việt
Nam còn quá nhiều điểm bất cập cần
ph
ải
qu
a
n
tâm nghiên cứu để đưa ra biện pháp thích
hợp. Vấn đề của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam không chỉ đến từ sự non kém về
kinh nghiệm trong quản lý điều hành, sự bất cập trong hệ thống hành lang pháp lý,… mà
thậm chí nó còn xuất phát ngay trong chính khâu áp dụng những tiến bộ lý luận kinh tế
của nước ngoài.
1.1. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CƠ CHẾ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
TẠI VIỆT NAM
1.1.1 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC GIÁM SÁT TÀI
CHÍNH VIỆT NAM
Giám sát tài chính - ngân hàng của Nhà nước là những hành vi giám sát và khống chế của
các cơ quan giám sát đối với hệ thống tổ chức tín dụng , đảm bảo sự an toàn và phát triển lành
mạnh của hệ thống tài chính - ngân hàng, khống chế rủi ro hệ thống. Hệ thống tổ chức tín
dụng Việt Nam là mô hình kinh doanh phân ngành, bao gồm tổ chức tín dụng ngân hàng và
tổ chức tín dụng phi ngân hàng thực hiện kinh doanh các nghiệp vụ ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm… Vì vậy hệ thống giám sát tài chính Việt Nam cũng theo mô hình giám sát
phân ngành.
Căn cứ Quyết định số 34/2008/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 03 tháng 03 năm
2008 về việc thành lập Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, theo quy định Ủy ban Giám sát tài

chính Quốc gia là một cơ quan của Chính phủ Việt Nam có chức năng tham mưu, tư vấn
cho Thủ tướng Chính phủ trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia
(ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm); giúp Thủ tướng Chính phủ giám sát chung thị trường tài
chính quốc gia.
Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo Căn cứ quyết định số
7
83/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra
chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động
ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp
luật. Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng được thành lập trên cơ sở tổ chức lại 4 đơn vị trực
thuộc Ngân hàng Nhà nước bao gồm Thanh tra, Vụ các ngân hàng, Vụ các tổ chức tín dụng hợp
tác và Trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền. Việc thành lập Cơ quan thanh tra giám sát
ngân hàng có ý nghĩa đặc biệt, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình cải cách cơ
cấu tổ chức Ngân hàng Nhà nước với mục tiêu nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế.
Qua hai quyết định có ý nghĩa trên thì mô hình tổ chức giám sát tài chính Việt Nam như
sau:
Hình 2: Mô hình tổ chức giám sát tài chính Việt Nam
1.1.2 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KỶ LUẬT THỊ TRƯỜNG NGÀNH NGÂN
HÀNG VIỆT NAM
Việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát không chỉ còn dừng lại ở khía cạnh quản lý từ các

qu
a
n
cấ
p

cao nhất mà phải được xây dựng thành hệ thống, nhằm đảm bảo hoạt động
minh bạch của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, trên thực tế ở Việt Nam, ngoài các ngân
hàng đã được niêm yết chính thức trên sàn đã có sự đầu tư trong việc công bố thông tin
cũng như đảm bảo được phần nào tính chân thực, việc công bố thông tin của các cơ sở
còn lại chưa đảm bảo được yêu cầu, tính chân thực cũng còn là dấu hỏi. Sự thiếu minh
bạch trong công tác xây dựng và báo cáo gây cản trở cho khả năng nắm
b
ắt tì
nh
hình thực
8
tế tại các cơ quan chức năng. Sở dĩ như vậy là vì hệ thống kế toán của Việt Nam chưa
thực sự hoàn thiện, chưa tạo ra một chuẩn mực chung, mà vẫn nằm ở các quy định rải rác.
Sự thiếu các quy định
đồng

bộ
trong việc thực hiện chế độ kiểm toán và lập báo cáo hàng
năm gây không ít phiền toái cho việc quản lý. Điều

này dẫn đến việc công bố thông tin
trên thị trường không minh bạch, gây thiệt hại cho cả các nhà đầu tư cũng như làm
nhiễu luồng thông tin. Xét trên tổng thể mà nói, kỷ luật thị trường của ngành ngân hàng Việt
Nam trong một nền kinh tế toàn cầu là còn rất yếu, chưa thể xem đó là một bộ phận cấu
thành trong hệ thống giám sát tài chính - ngân hàng Việt Nam.
1.1.3 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT NỘI BỘ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Hoạt động đa mục tiêu của các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam vẫn tồn tại là
điều kiện xuất hiện rủi ro đạo đức của các nhà quản lý ngân hàng thương mại nhà nước.
Thông tin bất cân xứng giữa cổ đông nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước khiến cho

Nhà nước khó tiến hành đánh giá hiệu quả quản lý đối với người điều hành. Các vị lãnh
đạo này có thể lợi dụng việc phải thực hiện mục tiêu chính sách để giải thích cho sự thất
bại trong kinh doanh hoặc che đậy cho những hành vi vì lợi ích cá nhân - loại rủi ro đạo
đức này là loại rủi ro đặc thù tồn tại ở ngân hàng thương mại nhà nước.
Hiện nay khi mục tiêu chính sách chưa thể tách khỏi hoạt động của các ngân hàng thương
mại nhà nước, thì hoạt động đa nhiệm vụ của các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn phải
tồn tại trong hoạt động ngân hàng. Nếu nhà quản lý được khuyến khích khen thưởng bằng
vật chất khi họ hoàn thành mục tiêu lợi nhuận, sẽ làm cho người quản lý xem nhẹ mục tiêu
chính sách (nhiệm vụ chính sách khó định lượng để tiến hành khen thưởng vật chất), điều
này chắc chắn người ủy thác (cổ đông) không muốn gặp phải.
1.1.4 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM VÀ
HIỆP HỘI NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là tổ chức tài chính nhà nước được thành lập theo Quyết định
số 218/1999/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức
tham gia Bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức mới thành lập, cho đến nay khoảng 11 năm và với
kinh nghiệm, quy mô vốn còn tương đối khiêm tốn nhưng phần nào đã góp vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm lòng tin cho người gửi tiền đối với hệ thống tín dụng Việt Nam. Thực
tiễn thời gian qua đã chứng minh không có tổ chức tín dụng nào ở Việt Nam mà việc suy
9
giảm hoặc đóng cửa gây nên việc đổ xô đi rút tiền hàng loạt của người dân, đó là nhờ có sự
đóng góp của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, vai trò của tổ chức này cần phải tăng
cường hơn nữa. Thứ nhất, bảo hiểm tiền gửi phải nâng cao năng lực hoạt động của mình để
giám sát kỹ hơn và đưa ra những khuyến nghị kịp thời, cảnh báo sớm hơn những rủi ro của
từng tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm không có đổ vỡ, chứ không phải là đợi đến đổ vỡ mới
thanh toán. Một trong những điều kiện để làm thì ngoài năng lực ấy phải tiến tới thu phí bảo
hiểm dựa vào rủi ro của từng tổ chức chứ không phải thu phí đồng loạt. Thứ hai, nâng dần
mức bảo hiểm tiền gửi, mức 50 triệu hiện nay là quá thấp so với bình quân tiền gửi của
người dân ở các ngân hàng, cần phải nâng lên để người dân yên tâm hơn, từ đó họ sẽ không

có những phản ứng tiêu cực khi có những hiện tượng đổ vỡ.
Hiệp hội ngân hàng Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 247/TTg, ngày 14 tháng
5 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định 131/TCCP, ngày 5 tháng 10 năm 1994
của Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ công nhận Điều lệ Hiệp hội Ngân
hàng Việt Nam; Quyết định số 43/2003/QĐ-BNV, ngày 1 tháng 8 năm 2003 của Bộ trưởng
Bộ Nội vụ phê duyệt Điều lệ (sửa đổi, bổ sung) của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam. Từ mục
tiêu và phạm vi hoạt động được quy định trong điều lệ (sửa đổi, bổ sung) Hiệp hội ngân
hàng Việt Nam năm 2003, có thể thấy được vấn đề bảo hộ nhà đầu tư chưa được quan
tâm và chú trọng, cũng như chưa có những biện pháp cụ thể để giải quyết và giảm thiểu
những mâu thuẫn xung đột giữa ngân hàng thương mại và nhà đầu tư. Đồng thời sau 17
năm thành lập nhưng Hiệp hội ngân hàng vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết như địa vị
pháp lý, chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, đội ngũ nhân viên…, trong đó đặc biệt là chức
năng kỷ luật ngành hàng (tự giám sát) chưa phát huy được, vì vậy khó phát huy được đầy đủ
tác dụng của Hiệp hội ngân hàng trong hệ thống giám sát ngân hàng Việt Nam.
1.2. ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ VÀ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC NÂNG CAO TÍNH HIỆU
QUẢ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ GIÁM SÁT HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG TẠI VIỆT NAM
1.2.1 MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN GIÁM SÁT TÀI CHÍNH
NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Xác định rõ ràng mục tiêu của giám sát tài chính, đó là tiền đề của việc thực hiện giám
sát có hiệu quả. Giám sát tài chính vừa phải bảo đảm việc thực hiện có hiệu quả chính sách
tiền tệ điều tiết vĩ mô, lại vừa phải phòng ngừa và hóa giải rủi ro tài chính, bảo hộ quyền
lợi người gởi tiền. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các mục tiêu này sẽ có sự xung đột
giữa chính sách tiền tệ và giám sát ngân hàng, sẽ làm giảm hiệu quả giám sát ngân hàng. Giữa
10
các mục tiêu cụ thể trên vừa độc lập nhưng lại vừa liên hệ chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong thời gian vừa qua đã có hiện tượng bên trọng bên khinh các mục tiêu cụ thể của giám
sát tài chính, bên cạnh đó chỉ số giám sát tài chính cũng không ổn định. Một trong những lý
do trên là do cấu trúc tổ chức của hệ thống thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam rất phân tán và thiếu tính liên kết, đi ngược lại với khuynh hướng của một hệ thống

thanh tra giám sát ngân hàng hiện đại, tập trung.
Do vậy nhóm đề xuất phải cải cách cách thức tổ chức và cơ cấu bộ máy của hệ thống
thanh tra giám sát ngân hàng, điển hình là tách chức năng giám sát ngân hàng ra khỏi Ngân
hàng nhà nước, chuyển về cho Ủy ban giám sát tài chính quốc gia để Ủy ban sẽ thực hiện việc
thanh tra giám sát tổng hợp cả ngành ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm để hướng tới một hệ
thống giám sát tích hợp và độc lập. Đồng thời phân định rành mạch hơn chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của từng thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia: Ngân hàng nhà
nước, Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia,
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam…Bên cạnh đó cũng nên tiến hành cải tiến phương thức giám sát
từ việc chỉ xem trọng giám sát tính hợp quy nghiệp vụ đơn thuần hướng đến chú trọng cả
giám sát rủi ro, phát triển theo hướng lấy giám sát rủi ro làm chủ yếu nhằm hướng đến việc
thực hiện tốt việc dự báo và cảnh báo sớm rủi ro.
1.2.2 VỀ KỶ LUẬT THỊ TRƯỜNG NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Tiếp tục tăng cường giám sát
nội bộ, tăng cường minh bạch thông tin tài chính của các tổ
chức tín dụng. Căn cứ vào nội dung và tính chất của thông tin công bố, thì việc công bố
thông tin phải có tính so sánh trong ngành bao gồm các chỉ số phát triển nghiệp vụ, quy mô
tài sản, tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, lợi nhuận…Thông tin công bố cho công chúng và cho các
cơ quan nhà nước cũng phải phải trên nguyên tắc là bình đẳng, và các thông tin công bố
phải có kiểm toán theo quy định của pháp luật.
Nâng cao trình độ và
chuyên nghiệp hóa đội
ngũ làm công tác báo chí cũng như trình độ hiểu biết của nhà đầu tư về lĩnh vực tài chính
ngân hàng (hiện nay đại bộ phận người gởi tiền không hiểu các báo cáo mà ngân hàng
thương mại công bố, cho nên họ cũng không quan tâm đến các chỉ tiêu tài chính, thông tin tài
chính của ngân hàng thương mại, đây cũng là một lý do kỷ luật thị trường ngành ngân hàng
hoạt động rất yếu).
1.2.3 VỀ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT NỘI BỘ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
Không nên tiếp tục yêu cầu các ngân hàng nhà nước đảm nhận nhiệm vụ chính sách,
ngăn chặn việc kinh doanh đa mục tiêu của ngân hàng thương mại nhà nước. Cải cách cơ chế

quản lý ngân hàng thương mại nhà nước, giao quyền tự chủ và quyền quyết định kinh doanh
11
cho các nhà quản lý của ngân hàng thương mại nhà nước, nhưng việc giao các quyền này cho
nhà quản lý cần phải được xây dựng trên cơ sở của sự phối hợp đồng bộ giữa một cơ chế kích
thích phù hợp và một cơ chế quản lý công ty.
2. HIỆP ƯỚC BASEL III - SO SÁNH VỚI VIỆT NAM
2.1. QUY ĐỊNH TRỌNG YẾU CỦA HIỆP ƯỚC BASEL III
Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và hệ lụy lâu dài
của chúng đối với hệ thống tài chính - ngân hàng toàn thế giới, Ủy ban Basel một lần nữa
lại dự thảo và thông qua phiên bản thứ 3 (Hiệp ước Basel III). Basel III tăng cường yêu
cầu về vốn của ngân hàng và giới thiệu các yêu cầu mới quy định về tính thanh khoản
ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng.
Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh
khoản để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu
chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ vốn nhiều hơn và chất
lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành Basel II. Các đòn bẩy mới và tỷ
lệ tính thanh khoản giới thiệu một biện pháp phi rủi ro nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn
tối thiểu dựa trên rủi ro và các biện pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong
trường hợp xảy ra khủng hoảng.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính gần đây, Ủy ban Basel về Giám sát
Ngân hàng đã đưa ra các điều chỉnh trong hướng dẫn đối với các quy định về vốn và
hoạt động các ngân hàng như sau:
- Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%.
- Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%.
- Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2,5%.
- Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo
chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được đảm bảo bằng vốn
chủ sở hữu phổ thông. Phần vốn dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng
trưởng tín dụng nóng, nguy cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ
thống.

Basel III còn đưa ra các biện pháp giám sát chặt chẽ các ngân hàng và nhằm ngăn chặn
việc lạm dụng chia thưởng, hoặc chia cổ tức cao trong bối cảnh tình trạng tài chính và tỷ lệ
an toàn vốn không đảm bảo. Basel III cũng đồng thời rà soát lại các tiêu chuẩn (định nghĩa)
12
vốn cấp 1, vốn cấp 2 và sẽ loại bỏ các khoản vốn không đủ tiêu chuẩn khi giám sát chỉ tiêu
an toàn vốn tối thiểu.
Như vậy, có thể thấy rằng, loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài chính 2,5%,
tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy nhiên, kết cấu của các loại
vốn đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1, đồng thời tăng tỷ trọng
vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ cả 2 khoản vốn đệm dự phòng
suy giảm tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu
được điều chỉnh tăng từ 2% (Basel II) tăng lên thành 9,5% (4,5% + 2,5% + 2,5%) ở Basel
III. Nếu loại trừ phần vốn đệm chống chu kỳ kinh tế 2,5% (không bắt buộc trong điều kiện
bình thường) thì mức tối thiểu vốn chủ cũng phải đạt mức 7%. Bên cạnh đó, có thể một số
khoản trước đây được tính vào vốn chủ sở hữu nay phải bóc tách ra vì không đủ điều kiện
coi là vốn chủ sở hữu. Chẳng hạn, khoản vốn vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ chức
tài chính khác, khoản vốn có nguồn gốc từ số thuế thu nhập lưu kỳ (hoãn lại) Vì thế, yêu
cầu nâng cao tỷ lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều ngân hàng xét
trong bối cảnh kinh tế xã hội đang có nhiều biến động.
Ngoài ra Ủy ban đang triển khai một tiêu chuẩn quốc tế về tính thanh khoản tối thiểu
cho hoạt động ngân hàng quốc tế bao gồm một yêu cầu tỷ lệ thanh khoản đảm bảo trong
30 ngày được củng cố bằng một tỷ lệ cấu trúc thanh khoản dài hạn được gọi là tỷ lệ dự
phòng bình ổn.
2.2. LỘ TRÌNH THỰC THI HIỆP ƯỚC BASEL III
Các tiêu chuẩn của Basel III không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu có hiệu lực
từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực hiện đầy đủ
vào ngày 1/1/2019. Bảng sau sẽ cho thấy lộ trình cụ thể của việc thực thi hiệp ước Basel
III:
Bảng 1: Lộ trình thực thi hiệp ước Basel III
Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu 3,5% 4.0% 4,5% 4,5% 4,5% 4,5% 4,5%
Vốn đệm dự phòng 0,625% 1.25% 1,875% 2,5%
Vốn chủ sở hữu tối thiểu cộng vốn
đệm dự phòng
3,5% 4% 4,5% 5,125% 5,76% 6,375% 7%
Loại trừ khỏi vốn chủ sở hữu các
khoản vốn không đủ tiêu chuẩn
20% 40% 60% 80% 100% 100%
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu 4,5% 5,5% 6,0% 6,0% 6,0% 6,0% 6,0%
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu 8% 8% 8% 8% 8% 8% 8%
Tổng vốn tối thiểu cộng vốn đệm dự
phòng bắt buộc
8% 8% 8% 8,625%9,125%9,875% 10,5%
13
Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và cấp 2 các
khoản không đủ tiêu chuẩn
Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ năm 2013
Vốn dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ Tuỳ theo điều kiện của quốc gia: mức từ 0% - 2,5%
(Nguồn: /> 3. NHỮNG QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC TÍN
DỤNG Ở VIỆT NAM
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN (sau đây gọi tắt là Thông tư 13) quy định
về các tỷ
lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam ban hành ngày 20/5/2010, có hiệu lực từ ngày 01/10/2010 nhằm đảm bảo an
toàn, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh
của
hệ thống tài chính - ngân hàng.
Thông tư 13 gồm 22 điều, đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến mức độ an toàn của
các tổ chức tín dụng, trong đó có 3 điểm mấu chốt gồm: tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
(CAR); hạn chế việc tham gia của các ngân hàng thương mại vào các hoạt động liên

quan đến
chứng

khoán
và kinh doanh bất động sản; tăng cường quy định về đảm bảo khả
năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Thông tư 13 đề cập đến các tỷ lệ đảm bảo an toàn chính yếu như sau:
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
- Giới hạn tín dụng
- Tỷ lệ khả năng chi trả
- Giới hạn góp vốn, mua cổ phần
- Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động
Những trọng điểm của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN:
Về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, điều 4 của Thông tư 13 nêu rõ, nâng tỷ lệ an toàn vốn
từ 8% lên 9% , ngoài ra, cách tính vốn tự có cấp 1 và 2 cũng như cách tính tổng tài sản có
rủi ro đã được thay đổi, nhất là hệ số rủi ro của các tài sản. Cũng theo điều 4 Thông tư 13,
các tổ chức tín dụng phải thực hiện báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp
luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ theo quy định nói trên, phải đồng thời
duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của tổ chức tín dụng
và công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất).
Thông tư đã đưa ra một số quy định mới về phương thức quản lý thanh khoản và tỷ
lệ khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng tại mục 3, trong đó có việc xây dựng mô
hình đánh giá và thử nghiệm khả năng chi trả, thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Trong những năm gần đây, tình hình thanh khoản của các tổ chức tín dụng có nhiều
bất cấp do khả năng quản lý thanh khoản của các tổ chức tín dụng còn kém cũng như do
14
sự biến động bất lợi của nền kinh tế, Thông tư 13 đã đưa ra một số quy định được nhận
định là mới và sát với quy định của các nước trên thế giới, nhằm tăng cường khả năng
thanh khoản và quản lý khả năng thanh khoản của từng tổ chức tín dụng nói riêng và cả
hệ thống nói chung.

Sau khi cân nhắc các ý kiến liên quan đến qui định tại Thông tư 13, ngày 27/9/2010,
Ngân hàng nhà nước đã ban hành Thông tư số 19/2010/TT-NHNN về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Thông tư 13. Liên quan đến các Thông tư này, ngày 30/8/2011, Thống
đốc Ngân hàng nhà nước đã ký ban hành Thông tư số 22/2011/TT-NHNN. Theo đó,
Ngân hàng nhà nước chính thức hủy bỏ tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động quy
định tại Thông tư 13, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 19. Bên cạnh đó, Thông tư số
22 cũng điều chỉnh hệ số rủi ro đối với một số tài sản có bằng ngoại tệ khi tính tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu.
Về cơ bản, Thông tư 13 và các thông tư sửa đổi có liên quan được các chuyên gia
kinh tế đánh giá là một bước chuyển biến tích cực trong quá trình phát triển hệ thống tài
chính Việt Nam. Mặt khác, quá trình thực hiện các thông tư trên đã có sự phản hồi từ
nhiều phía xuất phát từ những bất cập.
Bảng 2: So sánh Thông tư 13 và các Thông tư sửa đổi, bổ sung với Hiệp ước Basel III
Thông tư 13 và các
Thông tư sửa đổi, bổ
sung
Hiệp ước Basel III
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
(CAR)
9% 8% (chưa tính đến vùng đệm an
toàn hệ thống và vùng đệm chu kỳ)
Tài sản đã hiệu chỉnh rủi ro Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường,
rủi ro tác nghiệp
Quy định về vốn Chủ yếu vốn cấp 1 Yêu cầu đảm bảo tỷ lệ vốn cấp 1,
vốn cổ phần thường
Trọng số rủi ro của tài sản Một khung quy định
chung
Đánh giá, phân loại trên nhiều tiêu
chí
Quy định về đoàn bẫy tài

chính, tỷ lệ thanh khoản,…
Chưa đề cập Bước đầu quy định
Lộ trình áp dụng, văn bản
hướng dẫn
Nhất thời, hay sửa đổi Rõ ràng, cụ thể
Qua quá trình phân tích và tìm hiểu nhóm đã nhận thấy mức độ tương thích giữa những
quy định cơ bản về tỷ lệ an toàn vốn trong hoạt động tổ chức tín dụng tại Việt Nam (chủ
yếu thông qua nội dung của Thông tư 13) so với những quy định của hiệp ước Basel III qua
15
bảng so sánh trên:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Hệ số CAR theo quy định hiện hành
của
Việt Nam giới hạn
tối thiểu ở mức 9% trong lúc theo tiêu chuẩn Basel III mức tối thiểu chỉ 8%.
Tuy

nhiên,
cần lưu ý rằng theo quy định Basel III, dù đạt mức
8%
nhưng nếu vẫn dưới 10,5% (sau
khi cộng thêm tỷ lệ đệm chuyển đổi 2,5%) thì các ngân hàng này vẫn
còn
phải đặt dưới
sự kiểm soát với các hạn chế. Mặt khác, Basel III còn quy định tỷ lệ giới hạn đối với vốn
cấp
1
và vốn cổ phần phổ thông - điều mà quy định của Việt Nam hiện chưa đề cập đến.
Hơn nữa, điều quan
trọng
là các chuẩn mực đo lường vốn và phân loại tài sản của Basel

III khắt khe hơn nhiều so với quy định
hiện
hành của Việt Nam. Vì vậy, thay vì quy định
tỷ lệ tối thiểu cao hơn quy định Basel trong lúc chuẩn
mực
đo lường vốn và phân loại
tài sản thấp hơn quy định của Basel, Việt Nam nên cải cách theo hướng
chấp
nhận các
tỷ lệ tối thiểu thấp hơn quy định của Basel nhưng phải sử dụng các chuẩn mực theo quy
định
của
Basel để đo lường vốn và phân loại tài sản.
Cách tính và đánh giá về tài sản có rủi ro: Thông tư 13 chỉ đánh giá thông qua rủi ro duy
nhất là rủi ro tín dụng giống như phiên bản Basel sơ khai đầu tiên trong khi trên thế giới đã
nhận ra sự tác động mạnh mẽ của rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp đối với tài sản của
ngân hàng. Điều này đồng nhĩa mẫu số của cách tính CAR tại Việt Nam nhỏ hơn so với
cách tính của thế giới.
Quy định về vốn: Các quy định về vốn của Basel III quy định rõ ràng và cụ thể hơn về
vốn cấp 1 và vốn cổ phần thường, điều mà Việt Nam chỉ quy định chung chung là vốn tự
có. Nhưng xét thấy tại Việt Nam vốn tự có chủ yếu là vốn cấp 1 - vốn ổn định và tốt hơn so
với vốn cấp 2. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu chỉ có vốn cấp 1 là do các ngân hàng Việt
Nam chưa có các biện pháp để tăng được nguồn vốn cấp 2 - một nguồn vốn mà có thể trở
thành vốn cấp 1 sau một khoảng thời gian, như vậy việc tăng vốn tự có của các ngân hàng
Việt Nam sẽ rất hạn chế.
Trọng số rủi ro của tài sản: Việt Nam áp dụng một khung quy định chung, một cho tất
cả, giống như ở Thông tư 13 quy định trọng số rủi ro của cho vay liên quan đến chứng
khoán là 250% nhưng không có quy định của từng loại cho vay cụ thể như ký quỹ khác
phát hành và khác đầu tư như thế nào, nên với quy định đó có thể kiềm hãm sự phát triển cả
thị trường chứng khoán, tương tự như vậy là đối với thị trường bất động sản. Trong khi

Basel quy định đánh giá, phân loại tài sản trên nhiều tiêu chí khác nhau: mức độ tín nhiệm,
loại tài sản đảm bảo, mức độ rủi ro của từng nhóm đối tượng, …nên có thể đánh giá tốt hơn
về tài sản của ngân hàng.
Quy định về đoàn bẫy tài chính, tỷ lệ thanh khoản: Các quy định về đòn bẫy tài chính, tỷ
lệ thanh khoản tại Việt Nam chưa được đánh giá và quy định cụ thể, trong khi Basel đã dần
16
quy định nhằm tạo thêm những bức tường an toàn cho hệ thống hoạt động của ngân hàng.
Lộ trình áp dung, văn bản hướng dân: Các quy định tại Việt Nam thường mang tính
hành chính bắt buộc hơn là các chính sách tiền tệ và vĩ mô nên nó thường mang tính nhất
thời, hay sửa đổi tạo nhiều khó khăn trong việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh tại các
ngân hàng trong khi Basel có nhưng văn bản hướng dẫn và lộ trình áp dụng cụ thể tạo điều
kiện cho các tổ chức ngân hàng điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp.
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
Theo chúng tôi, các chỉ tiêu hiện hành của Việt Nam còn thiếu khá nhiều và nhiều
chỉ tiêu chưa đáp
ứng
được yêu cầu tối thiểu theo thông lệ quốc tế. Cần xây dựng hệ
thống các chỉ tiêu để giám sát an toàn, đánh giá mức độ lành mạnh, hiệu
quả
của ngân
hàng phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng phải đảm bảo tương thích và
bám
sát với quy định của hiệp ước Basel đồng thời xác định lộ trình đáp ứng tiêu chuẩn
Basel
III.
Ở thời điểm hiện tại, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn chưa thể đáp ứng toàn diện
tiêu chuẩn của
Basel

II

nên trong vài năm tới chúng ta vẫn chưa thể sử dụng các tiêu
chuẩn
khắc
khe của Basel III. Tuy nhiên, dưới áp lực hội nhập, chúng ta không thể
không sử dụng các chuẩn mực
của
Basel III để đo lường, đánh giá hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Vì lẽ đó, việc xây dựng chuẩn mực
theo
hướng bám sát, tương thích với
Basel III kèm theo lộ trình cụ thể để triển khai đạt chuẩn Basel III là
điều
chắc chắn
phải thực hiện chứ không thể tự đặt ra những tiêu chuẩn riêng không phù hợp với thông
lệ quốc
tế.
17
Tài Liệu Tham Khảo
18

×