Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ việt nam trên thị trường nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.14 KB, 84 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang thực
hiện chuyển đổi và đã thu được những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội quan
trọng, được cả cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong quá trình hội
nhập, Việt Nam cũng đang cố gắng phát huy tiềm năng, nội lực để sản xuất ra
những mặt hàng chủ lực có khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Đặc
biệt, trước và sau khi gia nhập WTO, xuất khẩu đồ gỗ đã có những bứt phá
ngoạn mục, vươn lên vị trí thứ 5 chỉ đứng sau dầu thô, dệt may, giày dép và thủy
sản và chính thức trở thành thành viên của “câu lạc bộ tỉ đô”. Và hiện nay Việt
Nam đứng thứ 4 ở khu vực Đông Nam Á về xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ. Việt
Nam đã và đang nổi lên như một quốc gia xuất khẩu gỗ đầy tiềm năng trong khu
vực và trên thế giới, thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành, các doanh
nghiệp cũng như báo giới. Nhờ khai thác lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ, vị
trí địa lý, đất đai hết sức thuận lợi cũng như thể hiện sự khéo léo, tinh tế, nét văn
hóa truyền thống trên từng sản phẩm mà người tiêu dùng ngày càng ưa thích các
sản phẩm gỗ của Việt Nam, đặc biệt là người dân Nhật Bản.
Nhật Bản là đối tác kinh tế lớn thứ ba thế giới và hiện đang là đối tác
thương mại lớn thứ tư của Việt Nam. Hàng năm, Nhật Bản nhập khẩu khối
lượng hàng hóa trị giá khoảng 500 tỷ USD trong đó nhập từ Việt Nam 7,7 tỷ
USD (2010) chiếm khoảng 11-16% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam. Hơn nữa giữa Nhật Bản và Việt Nam lại gần gũi về mặt địa lý và có
những nét tương đồng về văn hóa, điều này càng tạo nhiều thuận lợi cho Việt
Nam có thể tăng cường xuất khẩu sang Nhật Bản đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
mạnh, cho nhập công nghệ nguồn và thu hút đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản vào
nước ta.
Nhu cầu về đồ gỗ của thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản – thị
trường tiêu thụ khổng lồ của châu Á nói riêng – ngày càng tăng, mở ra một cơ
1
hội lớn cho ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Bên cạnh cơ hội lớn,
chúng ta cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Trong


điều kiện toàn cầu hóa và quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới ngày càng sâu
sắc hiện nay, cạnh tranh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Nhật
Bản nói riêng ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt. Những mặt hàng mà chúng ta
có lợi thế xuất khẩu sang Nhật Bản thì cũng chính là những mặt hàng mà nhiều
nước và khu vực trên thế giới, nhất là các nước trong ASEAN và Trung Quốc có
điều kiện thuận lợi để xuất sang thị trường này. Trước bối cảnh cạnh tranh xuất
khẩu ngày càng gay gắt và những yêu cầu khắt khe về nhập khẩu, đồ gỗ Việt
Nam xuất sang thị trường Nhật Bản thời gian qua tuy đã có nhiều thành tựu,
nhưng cũng bộc lộ rõ những yếu kém và hạn chế trong phát huy những tiềm
năng và lợi thế của đất nước để duy trì và mở rộng thị phần trên thị trường nhập
khẩu lớn nhất nhì thế giới này.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu và tìm ra những giải pháp góp phần nâng
cao sức cạnh tranh sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và
thị trường Nhật Bản nói riêng là vô cùng quan trọng, cần thiết và cấp bách hiện
nay.
Xuất phát từ tính cấp thiết trên được đặt ra trong thực tiễn, tác giả đã lựa
chọn đề tài: “Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị
trường Nhật Bản” làm chuyên đề thực tập.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ
Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về sức cạnh tranh của hàng hóa và sự
cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị
trường Nhật Bản.
- Phân tích thực trạng cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
2
gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản, từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế

cũng như những nguyên nhân của những hạn chế đó trong việc nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.
- Nghiên cứu định hướng của Việt Nam trong xuất khẩu hàng hóa sang thị
trường Nhật Bản, dự báo những lợi thế, bất lợi của sản phẩm gỗ Việt Nam trên
thị trường Nhật Bản, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra gay gắt như
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ
Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.
Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: bài viết tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh của sản phẩm
gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
- Về thời gian: giai đoạn từ năm 2000-2010
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm phương pháp luận. Đồng thời, phương pháp thống kê, phương pháp phân
tích tổng hợp cũng được sử dụng để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần như lời nói đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục,
đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về sức cạnh tranh của hàng hóa và sự cần thiết
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật
Bản
Chương 2: Thực trạng cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
3
Chương 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VÀ
SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA
SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh từ lâu đã được rất nhiều nhà kinh tế học của các
trường phái kinh tế khác nhau quan tâm và nghiên cứu trên nhiều góc độ với
phạm vi và cấp độ khác nhau.
Theo cuốn từ điển kinh doanh của Anh (1992): "Cạnh tranh là sự ganh
đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một
loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình". Còn
trong đại từ điển tiếng Việt: "Cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập
thể có chức năng như nhau nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình". Theo từ
điển Thuật ngữ kinh tế học: "Cạnh tranh là sự đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn
hay quốc gia và nó nảy sinh khi hai hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà
không phải ai cũng có thể giành được".
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C. Mac đã nhận xét: "Cạnh tranh tư
bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành
được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được
lợi nhuận siêu ngạch".
Tuy nhiên, ngày nay cạnh tranh lại được thừa nhận và được coi là môi
trường, động lực của sự phát triển. Thế giới đã quan niệm: "Cạnh tranh là cuộc
đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau dựa trên
chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản
4
xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển".
Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu đã đưa ra khái niệm cạnh tranh trong
phạm vi một quốc gia: "là khả năng của nước đó đạt được những thành quả
nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
cao, được xác định bằng thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người

theo thời gian".
Ở Việt Nam, một số nhà kinh tế cho rằng: "Cạnh tranh là vấn đề giành lợi
thế về giá cả hàng hoá, dịch vụ và đó là con đường, phương thức để giành lấy lợi
nhuận cao cho các chủ thể kinh tế".
Tóm lại, cạnh tranh xét về bản chất luôn được nhìn nhận trong trạng thái
động và ràng buộc trong mối quan hệ so sánh tương đối. Mọi quan hệ giao tiếp
mà các bên tham gia nỗ lực tìm kiếm vị thế có lợi cho mình đều có thể diễn tả
trong khái niệm cạnh tranh. Khái niệm cạnh tranh được xem xét đầy đủ trên cả
hai mặt: mặt tích cực là tạo động lực cho việc vươn tới một kết quả tốt nhất.
Nhưng một khi những kĩ năng này được thể hiện một cách cực đoan, nó có thể
dẫn đến một thực trạng tiêu cực với kết quả trái ngược. Cạnh tranh là quá trình
kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp, cả nghệ
thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình: thường là nhằm chiếm
lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, tiêu thụ
có lợi nhất, tối đa hoá lợi nhuận.
1.1.2. Phân loại cạnh tranh
Cạnh tranh có thể được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau theo
nhiều cách khác nhau:
• Căn cứ vào phạm vi hoạt động ngành kinh tế:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh cùng một loại sản phẩm, dịch vụ.
5
- Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau.
• Căn cứ vào tính pháp lý của cạnh tranh:
- Cạnh tranh hợp pháp
- Cạnh tranh bất hợp pháp
• Căn cứ vào tính chất, mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế:
- Cạnh tranh tự do: là cạnh tranh trong một thị trường hoàn toàn không có
sự điều tiết của Nhà nước và pháp luật.

- Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước: là cạnh tranh được định hướng,
được bảo vệ và giới hạn bởi các thể chế, chính trị và pháp luật.
• Căn cứ vào mục đích, phương thức cạnh tranh:
- Cạnh tranh lành mạnh: là hình thức cạnh tranh trung thực, bằng năng lực
vốn có của doanh nghiệp.
- Cạnh tranh không lành mạnh: là cạnh tranh bằng các thủ đoạn, công cụ
bất hợp pháp.
• Căn cứ theo chiến lược cạnh tranh
- Cạnh tranh trực diện: là cạnh tranh trực tiếp, công khai giữa các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Cạnh tranh không trực diện: Đánh thọc sườn, đánh tập hậu.
• Căn cứ vào hình thái cạnh tranh:
- Cạnh tranh hoàn hảo: là loại cạnh tranh tự do, theo đó có nhiều công ty
vừa và nhỏ tham gia vào thị trường với sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất,
quy cách, chủng loại, mẫu mã…
- Cạnh tranh không hoàn hảo: là loại hình cạnh tranh mà theo đó việc độc
quyền sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được tập trung vào một hay một vài tập
6
đoàn thống trị như lĩnh vực ô tô, thiết bị viễn thông, dầu khí
• Căn cứ vào phạm vi địa lý:
- Cạnh tranh trên phạm vi từng quốc gia: Quá trình cạnh tranh này thúc đẩy
đổi mới công nghệ, tăng năng suất, hạ giá thành sản xuất, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng, góp phần nâng cao sức cạnh tranh chung của sản
phẩm trong ngành cũng như của quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế.
- Cạnh tranh trên phạm vi quốc tế:
Trên thị trường thế giới, cạnh tranh giữa những nhà sản xuất, xuất khẩu được
phân chia theo các mức độ sau:
+ Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu thuộc nhóm nước phát triển
với nhóm đang phát triển. Đây là sự cạnh tranh gay gắt nhất vì trình độ công
nghệ kĩ thuật giữa các bên có sự chênh lệch khá rõ rệt.

+ Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu thuộc nhóm nước phát triển
với nhau. Đây là quá trình cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu cỡ lớn có
khả năng tài chính mạnh và trình độ công nghệ cao.
+ Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu thuộc nhóm nước đang phát
triển với nhau. Sự cạnh tranh này nhìn chung không có chênh lệch quá lớn về
quy mô, khả năng tài chính và trình độ khoa học công nghệ cũng như lợi thế về
lực lượng nhân công dồi dào với giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú
1.1.3. Các công cụ cơ bản của cạnh tranh
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi sự cạnh
tranh, mà bản chất của cạnh tranh trong kinh doanh là phải tạo ra được ưu thế so
với các đối thủ. Muốn vậy, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường phải
sử dụng khéo léo các công cụ cạnh tranh. Đó là:
 Cạnh tranh thông qua giá cả
7
Trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp thường đưa ra một giá mức
giá thấp hơn giá của các đối thủ cạnh tranh nhằm lôi cuốn khách hàng, qua đó
tiêu thụ được nhiều hoá đơn hơn.
 Cạnh tranh thông qua sản phẩm
Khi thu nhập và đời sống của dân cư ngày càng cao thì phương thức cạnh
tranh bằng giá cả thường không hiệu quả và chất lượng sản phẩm sẽ là mối quan
tâm của khách hàng.
 Cạnh tranh thông qua mạng lưới kênh phân phối
Thiết lập mạng lưới kênh phân phối hợp lý hiệu quả sẽ là yếu tố rất có lợi
để cạnh tranh. Hàng hoá được cung cấp đúng nơi, đúng lúc, kịp thời đáp ứng
nhu cầu khách hàng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất sẽ tạo được lòng tin uy
tín đối với khách hàng và sẽ được khách hàng lựa chọn.
 Cạnh tranh thông qua các hoạt động xúc tiến quảng cáo
Quảng cáo và xúc tiến bán hàng là những hoạt động nhằm nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá. Quảng cáo là nghệ thuật thu hút khách hàng thông qua
các phương thức như in ấn, bưu điện, truyền thanh, báo, phát thanh, thư từ, danh

mục hàng hoá và các bản thuyết minh để giới thiệu một cách rộng rãi các loại
hàng hoá, các thông tin dịch vụ của doanh nghiệp.
 Cạnh tranh thông qua dịch vụ bán hàng
Đây là phương thức cạnh tranh hết sức phổ biến trên thị trường quốc tế và
có thể thực hiện được trước, trong và sau khi bán hàng tuỳ thuộc vào loại hình
kinh doanh. Đó có thể là dịch vụ bán hàng tận nơi cho khách hay dịch vụ bảo
hành, bảo dưỡng, lắp đặt, chạy thử
1.1.4. Các mô hình cạnh tranh
1.1.4.1. Mô hình cạnh tranh của M.Porter
8
Mô hình 5 sức mạnh (the five forces) của Mỉcheal Porter đã xác định mức
độ khốc liệt của cạnh tranh trong ngành nhằm giúp doanh nghiệp và nhà đầu tư
xác định cơ hội kinh doanh cũng như những đe doạ trong kinh doanh khi quyết
định xâm nhập vào một thị trường nhất định.
Sơ đồ 1.1: Mô hình 5 sức cạnh tranh của Micheal Porter
Nguồn:
* Nhân tố 1: Đối thủ cạnh tranh
Các đối thủ cạnh tranh cũng luôn có những tham vọng, những phương
sách, những thủ đoạn như doanh nghiệp đã thực hiện. Sự am hiểu về đối thủ
cạnh tranh trực tiếp cho phép sử dụng các thủ thuật phân tích, duy trì các hồ sơ
về đối thủ và từ đó có cách ứng xử phù hợp. Khi xem xét về đối thủ cạnh tranh
chúng ta cần xem xét hai vấn đề: Cường độ cạnh tranh trong ngành và Phân tích
đối thủ cạnh tranh trực tiếp.
* Nhân tố 2: Khách hàng
Khách hàng là một tác lực có sức mạnh trong môi trường cạnh tranh, sự
tín nhiệm của khách hàng có thể là tài sản có giá trị nhất của doanh nghiệp.
9
ĐỐI THỦ
TIỀM NĂNG
NHÀ

CUNG CẤP
CÁC ĐỐI THỦ CẠNH
TRANH TRONG NGÀNH
KHÁCH
HÀNG
SẢN PHẨM
THAY THẾ
Khách hàng có quyền lực mua với doanh nghiệp thông qua sức ép giảm giá,
giảm khối lượng hàng mua, có quyền đòi hỏi chất lượng và dịch vụ tốt hơn với
cùng một mức giá Sức mạnh của khách hàng phụ thuộc 2 yếu tố cơ bản: mức
độ nhạy cảm của họ đối với giá và việc mặc cả nợ của họ.
* Nhân tố 3: Nhà cung cấp
Là người cung cấp các nguồn lực đầu vào cho doanh nghiệp như vật tư,
thiết bị, lao động, tài chính nên nhà cung cấp có khả năng chi phối tình hình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Nhân tố 4: Các đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn thường có ưu thế về công nghệ mới, khả năng
tài chính và đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá và suy xét kĩ lưỡng trước khi gia
nhập thị trường Do vậy khi xâm nhập vào ngành, họ sẽ trở thành đối thủ cạnh
tranh vô cùng nguy hiểm, với khả năng mở rộng sản xuất và chiếm lĩnh thị
trường của các doanh nghiệp hiện tại.
* Nhân tố 5: Các sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế là loại sản phẩm khác có thể thoả mãn tương tự nhu
cầu khách hàng nhưng nó lại có sự khác biệt và sức cạnh tranh cao hơn. Chính
vì vậy, nó là nhân tố đe doạ làm mất thị trường và lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.1.4.2. Mô hình cạnh tranh SWOT
Phương pháp phân tích SWOT phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội, hiểm hoạ và đưa ra các phương án phối hợp các điểm mạnh, điểm yếu với
các nguy cơ và cơ hội thích hợp nhằm mục đích:
- Phối hợp S/O: phối hợp các điểm mạnh với các cơ hội của doanh nghiệp.

Điều quan trọng là doanh nghiệp sử dụng các điểm mạnh của mình nhằm khai
thác các cơ hội.
- Phối hợp S/T: phối hợp các điểm mạnh với các nguy cơ của doanh
10
nghiệp. Mấu chốt ở đây là doanh nghiệp cần phải tận dụng thế mạnh của mình
để chiến thắng nguy cơ.
- Phối hợp W/O: Phối hợp các điểm yếu của doanh nghiệp và các cơ hội
lớn. Doanh nghiệp có thể vượt qua các điểm yếu của chính mình bằng cách
tranh thủ tận dụng các cơ hội.
- Phối hợp W/T: Phối hợp giữa các mặt yếu và nguy cơ của doanh nghiệp.
Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải cố gắng làm sao giảm thiểu được mặt
yếu của mình và tránh được nguy cơ bằng cách đề ra các chiến lược phòng thủ.
Thực hiện các phối hợp trên có thể khái quát thông qua sơ đồ sau:
Bảng 1.1: Ma trận SWOT
Ma trận SWOT Cơ hội (O-
Oportunities)
Nguy cơ (T-Threats)
Điểm mạnh (S- Strengths) Phối hợp S/O Phối hợp S/T
Điểm yếu (W - Weaknesses) Phối hợp W/O Phối hợp W/T
Nguồn:
Có nhiều mô hình cạnh tranh khác nhau có thể áp dụng đối với các doanh
nghiệp. Trên đây là hai mô hình phổ biến thông dụng có khả năng áp dụng tốt
nhất vào việc nghiên cứu và đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá được nhiều
doanh nghiệp lựa chọn. Mỗi mô hình đều có những ưu điểm và các mặt hạn chế
của nó, vì thế chúng chỉ được áp dụng trong những điều kiện nhất định.
1.2. SỨC CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ
1.2.1. Khái niệm
Sức cạnh tranh của hàng hoá được hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố tiềm
năng mà sản phẩm đó có thể duy trì và phát triển vị trí của mình trên thương
trường một cách lâu dài và có ý nghĩa. Nó là "sức mạnh" hoặc "tính vượt trội"

của hàng hoá đó trên thị trường, có thể thay thế hàng hoá cùng loại do doanh
nghiệp khác cung cấp để chiếm lĩnh vị trí thống trị thị trường tại cùng một thời
11
điểm. Đồng thời nó thoả mãn yêu cầu của khách hàng về giá cả, chất lượng, số
lượng, tính tiện dụng, độc đáo hay kiểu dáng, bao bì, thương hiệu, các dịch vụ
chăm sóc khách hàng trước và sau bán hàng , nhờ đó mà thị phần mà nó chiếm
lĩnh cao hơn so với thị phần của hàng hoá cùng loại trên cùng một thị trường.
Ngày nay khi hội nhập kinh tế quốc tế đang là một trào lưu khó có thể đảo
ngược và đang tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các quốc gia. Do vậy,
việc quan tâm đến sức cạnh tranh của hàng hoá không chỉ là nâng cao sức mạnh,
tính vượt trội của hàng hoá ở thị trường trong nước mà hàng hoá đó còn phải có
đủ khả năng "đánh bại" đối thủ nước khác tại chính thị trường của nó và cả trên
thị trường của nước thứ ba.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá
Trong nghiên cứu về lý luận, các nhà kinh tế đã đưa ra các chỉ tiêu để
đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá của một doanh nghiệp hay một
quốc gia như những chỉ tiêu dưới đây:
1.2.2.1. Thị phần của hàng hoá so với các đối thủ cạnh tranh
Đây là chỉ tiêu tổng hợp và hay được sử dụng để đánh giá sức cạnh tranh
của hàng hoá trên thị trường. Thị phần cho thấy khả năng chấp nhận của thị
trường đối với mặt hàng đang được sản xuất kinh doanh như thế nào. Thị phần
được xác định bằng công thức sau:
S
i
=

=
n
i
i

i
Q
Q
1
x 100% hay S
i
=

=
n
1i
i
i
R
R
x 100%
Trong đó: S - Thị phần của mặt hàng x của quốc gia i
Q - Khối lượng bán ra của mặt hàng trên thị trường Y
R - Doanh thu của một mặt hàng của quốc gia i
i - Quốc gia
12
Thị phần càng lớn chứng tỏ hàng hoá xuất khẩu càng có khả năng cạnh
tranh lớn trên thị trường. Thị phần nhỏ cho thấy sức cạnh tranh của hàng hoá
yếu, chưa có khả năng đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng và tầm ảnh hưởng
của hàng hoá đối với thị trường kém.
1.2.2.2. Mức độ đáp ứng thị hiếu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh
Đây cũng là chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá. Chỉ tiêu này
phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu và mong muốn trên thị trường của hàng hoá
của một quốc gia so với các đối thủ cạnh tranh hay nói cách khác chính là khả
năng thích nghi của sản phẩm với thị hiếu của khách hàng so với đối thủ cạnh

tranh khác.
1.2.2.3. Giá bán hàng hoá so với đối thủ cạnh tranh
Giá cả là một yếu tố nhạy cảm và cũng là công cụ cạnh tranh hữu hiệu
trên thị trường. Người tiêu dùng sẽ phải chú ý đến giá cả trong khi xem xét lựa
chọn tiêu dùng của mình. Khách hàng có quyền chọn cho mình sản phẩm tốt
nhất và nếu như cùng một loại sản phẩm với chất lượng như nhau thì chắc chắn
họ sẽ lựa chọn sản phẩm có giá bán thấp hơn.
1.2.2.5. Mức độ đáp ứng các yêu cầu về chất lượng và mẫu mã, kiểu dáng so
với các đối thủ cạnh tranh
Đối với người tiêu dùng, ngoài yếu tố giá cả thì chất lượng, mẫu mã kiểu
dáng lại là những yếu tố dường như ảnh hưởng mạnh đến quyết định mua sắm.
Chất lượng, chất liệu, mẫu mã, kiểu dáng hàng hoá ảnh hưởng lớn đến khả
năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
1.2.2.6. Thương hiệu (uy tín, hình ảnh nơi sản xuất) so với các đối thủ cạnh
tranh
Đây là một chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh của hàng hoá của một doanh
nghiệp, một quốc gia. Nó chính là ấn tượng, suy nghĩ và cảm nhận của người
13
tiêu dùng về nơi xuất xứ của hàng hoá so với những nơi khác sản xuất hàng hoá
cùng loại. Hay nói cách khác, uy tín hình ảnh nơi sản xuất chính là sự tổng hợp
các thuộc tính như chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ sau bán hàng, mẫu
mã sản phẩm, phong cách quảng cáo
1.2.3. Các nhân tố tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu
Hàng hoá luôn gắn với doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp hoạt động
lại gắn liền với môi trường kinh doanh của mình. Vì vậy, tác động đến sức cạnh
tranh của hàng hoá xuất khẩu thì bên cạnh một số nhân tố thuộc môi trường nội
tại doanh nghiệp còn có các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp.
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài doanh nghiệp
 Môi trường kinh tế
Có thể nói đây là nhân tố quan trọng nhất tác động đến sức cạnh tranh của

hàng hoá. Môi trường kinh tế của một quốc gia ổn định hay bất ổn có tác động
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tính ổn định về kinh tế, trước hết và chủ yếu là nền tài chính quốc gia, ổn định
tiền tệ và khống chế lạm phát tạo đà để tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế là nhân
tố tác động trực tiếp đến sức mua của xã hội tạo điều kiện để sản phẩm mở rộng
quy mô sản xuất.
Bên cạnh đó, tài chính - tín dụng có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng
kinh tế và khả năng cạnh tranh của một sản phẩm tăng trưởng nhanh phụ thuộc
vào khu vực tài chính trong việc huy động và phân bố có hiệu quả tín dụng vào
sản xuất các sản phẩm. Ngoài ra, lãi suất tín dụng ảnh hưởng đến khả năng vay
mượn của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất sản phẩm. Đầu tư cũng mang lại
động lực chủ yếu cho nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm. Đầu tư có tính
chất quyết định đến đến việc đẩy nhanh tốc độ sản xuất sản phẩm chủ lực.
14
 Môi trường chính trị - pháp luật
Các nhân tố chính trị pháp luật là nền tảng quyết định các yếu tố khác của
môi trường kinh doanh. Một quốc gia ổn định về chính trị, hệ thống luật pháp
nghiêm minh, chặt chẽ rõ ràng không phức tạp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành
mạnh bình đẳng giữa các doanh nghiệp để nâng cao khả năng cạnh tranh hàng
hoá của mình.
 Môi trường tự nhiên - văn hoá xã hội
Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc
khó khăn cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Vị trí địa lý thuận lợi ở những
thành phố lớn hay trên các trục đường giao thông quan trọng, hệ thống cảng
biển cùng với nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng sẽ tạo cơ hội cho doanh
nghiệp phát triển, giảm chi phí, thu lợi nhuận, lợi thế cạnh tranh.
Các nhân tố thuộc môi trường văn hoá xã hội như trình độ văn hoá, chuẩn
mực đạo đức xã hội, cơ cấu dân số, phân hóa xã hội, sở thích, thói quen, thị hiếu
tiêu dùng, thái độ, niềm tin, phong tục tập quán của người tiêu dùng trong việc

mua sắm và sử dụng sản phẩm cũng có ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng
hoá đặc biệt là trong môi trường kinh doanh quốc tế. Do vậy, khi nghiên cứu và
phát triển thị trường cần đặc biệt lưu ý khía cạnh này.
1.2.3.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
• Nguồn lực về tài chính
Doanh nghiệp với tiềm lực tài chính lớn có khả năng nắm bắt các cơ hội
kinh doanh, duy trì ổn định kinh doanh, theo đuổi chiến lược cạnh tranh dài hạn
và thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá như đổi
mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành
hay tăng cường quảng cáo và xúc tiến bán hàng khuyến khích việc tiêu thụ sản
15
phẩm, tăng doanh thu, củng cố vị trí của mình trên thị trường.
• Nguồn lực về công nghệ
Năng lực công nghệ ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến sức cạnh tranh
của hàng hoá. Đó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản
xuất của doanh nghiệp. Các công nghệ tiên tiến hiện đại cho ra đời những sản
phẩm có chất lượng cao, mẫu mã bao bì đẹp, nhiều tính năng ưu việt, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của khách hàng và tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn so với các đối
thủ.
• Nguồn lực con người
Nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sản xuất kinh doanh bao gồm ba
cấp: lực lượng đội ngũ quản trị viên cao cấp, lực lượng đội ngũ quản trị viên
điều hành và công nhân. Trình độ quản lý chiến lược và trình độ chuyên môn
của người lao động ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm hàng hoá.
• Văn hoá kinh doanh
Ngày nay, cạnh tranh trên thương trường quốc tế, vấn đề không chỉ còn là
chất lượng và giá cả đơn thuần nữa. Văn hoá kinh doanh đã xuất hiện và đã trở
thành phương châm cho bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại, phát triển lâu dài
và bền vững. Văn hoá trong kinh doanh có thể hiểu là việc kinh doanh tuân thủ

pháp luật và tôn trọng chữ "tín" với khách hàng. Sự tín nhiệm của khách hàng là
tài sản vô hình có giá trị nhất của doanh nghiệp. Nó là nền tảng cho việc nâng
cao uy tín và thương hiệu nhà sản xuất, điều này gắn liền với khả năng nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá.
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA SẢN
PHẨM GỖ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
Khu vực hoá, quốc tế hoá là khuynh hướng chủ yếu của thế kỷ XXI, chấp
16
nhận mở hoà nhập vào thị trường quốc tế là chấp nhận xu hướng cạnh tranh
ngày càng khốc liệt. Chúng ta sống trong nền kinh tế thị trường, điều đó cũng
đồng nghĩa với việc luôn phải đối mặt với cạnh tranh, thách thức và rủi ro. Cạnh
tranh là một quy luật tất yếu và không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, cạnh tranh là
động lực như Adam. Smith gọi là "bàn tay vô hình" thúc đẩy lực lượng sản xuất
xã hội phát triển. Cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực nhưng nó là động
lực phát triển cơ bản kết hợp một cách hợp lý giữa lợi ích của doanh nghiệp, lợi
ích của người tiêu dùng với lợi ích của xã hội. Đối với toàn bộ nền kinh tế xã
hội, cạnh tranh không chỉ là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao năng
suất lao động xã hội, nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân mà còn là
yếu tố quan trọng trong việc làm lành mạnh các quan hệ kinh tế xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới, các quốc
gia ngày càng liên hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau. Các hàng rào mậu dịch
dần được dỡ bỏ thay vào đó là chế độ mậu dịch tự do, các lợi thế về cạnh tranh
ban đầu về lao động và nguyên liệu giảm dần và đi đến triệt tiêu. Trên thương
trường quốc tế, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn giữa các đối
thủ. Các doanh nghiệp sẽ phải chấp nhận cạnh tranh ngang ngửa với nước ngoài
để tồn tại và phát triển. Vì vậy, việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nói
chung là hết sức cần thiết đối với Việt Nam trong điều kiện hội nhập như hiện
nay.
Trong thời gian qua, với nhiều lợi thế về lao động, vị trí địa lý và tài
nguyên thiên nhiên ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã không ngừng

tăng cả về quy mô và năng lực sản xuất, ngày một tăng nhanh cả về số lượng và
chất lượng sản phẩm, vươn lên vị trí thứ 5 trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của đất nước. Thị trường sản phẩm gỗ ngày càng mở rộng do nhu cầu tăng cao
và trong thời gian tới vẫn tiếp tục sôi động trên quy mô toàn cầu. Điều đó mở ra
cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam đi khai phá thị trường mới mẻ này.
Bên cạnh đó thách thức cũng không hề nhỏ. Một điều đáng quan tâm là các mặt
17
hàng mà chúng ta có lợi thế thì cũng chính là những mặt hàng các nước bạn có
thế mạnh. Thực tế cho thấy, hoạt động xuất khẩu và cạnh tranh sản phẩm gỗ
Việt Nam chưa xứng với tiềm năng của ngành, chưa phát huy được lợi thế so
sánh của mình so với đối thủ để chiếm lĩnh được chỗ đứng trên thị trường. Vì
vậy, tất yếu phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam.
Thực tế trong thời gian qua sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất
vào 3 thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản. Sự gần gũi về địa lý, nét tương đồng về
văn hoá và sức tiêu thụ khổng lồ tại Á Châu là những yếu tố để chúng ta quan
tâm đến thị trường Nhật Bản. Nhật Bản là nước phát triển, thu nhập bình quân
người dân cao, nhu cầu tiêu dùng đa dạng được đánh giá là thị trường rộng lớn
và đầy tiềm năng. Hàng năm, tiêu dùng riêng cho đồ gỗ tại nước này xấp xỉ
100USD/hộ/tháng. Tuy nhiên tỷ trọng sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường
Nhật Bản còn chưa lớn, chỉ chiếm 20% (2010), còn rất nhiều tiềm năng. Bên
cạnh đó, người tiêu dùng Nhật Bản yêu cầu rất cao đối với sản phẩm gỗ. Cạnh
tranh trên thị trường này là vô cùng gay gắt với hàng loạt đối thủ mạnh như
Trung Quốc, Đài Loan, các nước Đông Nam Á và cả các nước xuất khẩu gỗ cao
cấp từ châu Âu. Vì vậy, việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt
Nam trên thị trường Nhật Bản là vô cùng cần thiết trong bối cảnh như hiện nay.
Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật
Bản có vai trò sau:
• Góp phần quan trọng trong việc phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế.
• Củng cố và nâng cao uy tín của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường thế
giới. Nhật Bản là một thị trường rất khó tính và yêu cầu rất khắt khe về chất

lượng sản phẩm. Khi sản phẩm gỗ của nước ta cạnh tranh được trên thị trường
Nhật Bản thì đương nhiên được các thị trường khác công nhận, từ đó uy tín
được nâng cao.
• Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu, gia tăng doanh số cho xuất khẩu
18
từ đó thu được nhiều ngoại tệ về cho đất nước. Từ đó tạo nguồn vốn cho Nhà
nước nhập khẩu công nghệ, máy móc, nguồn nguyên vật liệu cần thiết phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nước nhà. Hiện nay hoạt động xuất
khẩu sản phẩm gỗ của nước ta bị ảnh hưởng bởi một thực tế là nhập khẩu nguồn
nguyên liệu quá lớn nên sau khi trừ đi mọi chi phí thì kim ngạch ròng còn lại
không nhiều.
• Tận dụng được những lợi thế so sánh: Việt Nam có đội ngũ lao động rất
dồi dào, giá nhân công rẻ, có khả năng đem lại sức cạnh tranh rất cao trên thị
trường sản xuất đồ gỗ xuất khẩu. Hơn nữa, với tài nghệ của người thợ kết hợp
với những bí quyết sản xuất đồ gỗ mang tính đặc sắc chỉ có ở Việt Nam như
chạm trổ đồ gỗ có khảm trai - mặt hàng được các khách nước ngoài rất ưa
chuộng.
• Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác động dây chuyền đến sự phát
triển các ngành sản xuất hàng hoá trong nước phục vụ cho xuất khẩu và các
ngành có liên quan như vận tải, bảo hiểm, ngân hàng
• Tác động tích cực trong việc giải quyết việc làm và cải thiện đời sống
nhân dân, góp phần nâng cao thu nhập cho một số lượng lớn lao động liên quan
đến ngành chế biến gỗ xuất khẩu từ đó tạo động lực cho phát triển kinh tế.
19
Chương 2
THỰC TRẠNG CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO SỨC CẠNH
TRANH CỦA SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM TRÊN
THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
2.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU CỦA
NGÀNH GỖ VIỆT NAM

2.1.1. Đặc điểm ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam
Những đặc điểm cơ bản của ngành chế biến gỗ xuất khẩu nói chung và
ngành chế gỗ xuất khẩu Việt Nam nói riêng là một trong những vấn đề quan
trọng trong việc phân tích thực trạng cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. Trước hết phải kể đến những
đặc điểm cơ bản chủ yếu của ngành chế biến gỗ xuất khẩu:
- Nhu cầu về sản phẩm gỗ rất đa dạng. Rừng từ lâu đã gắn bó với con người
và sản phẩm gỗ từ rừng lại càng không hề xa lạ đối với cuộc sống của chúng ta.
Với đặc tính đặc biệt của mình, sản phẩm gỗ vẫn có nhu cầu tiêu thụ rất lớn hiện
tại cũng như trong tương lai.
- Sản xuất: Các nước và khu vực sản xuất và xuất khẩu gỗ lớn nhất thế giới
là khu vực châu Âu, Bắc Mỹ, một số nước đang phát triển và chậm phát triển ở
châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, Đông Á
- Tiêu thụ: Gỗ là mặt hàng nguyên liệu có quy mô buôn bán lớn thứ ba trên
thế giới chỉ sau dầu lửa và than đá. Có khoảng 12.000 dạng sản phẩm gỗ được
trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới. Sản phẩm gỗ được sử dụng trong rất
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn nữa, thị trường gỗ thế giới vẫn còn
nhiều tiềm năng phát triển do nhu cầu về gỗ rất lớn và vẫn tiếp tục sôi động ở
quy mô toàn cầu.
Một số đặc điểm riêng của sản phẩm gỗ ảnh hưởng đến công tác chế biến
20
và xuất khẩu:
- Gỗ là sản phẩm của núi rừng, phân tán rải rác khắp nơi: Vùng núi cao, địa
hình hiểm trở đã gây khó khăn trong vận chuyển sản phẩm khai thác, tăng chi
phí kinh doanh, cản trở đối với thông tin liên lạc và sự chỉ đạo hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Gỗ là tài nguyên quý giá của quốc gia đòi hỏi khai thác phải gắn bó với bảo
vệ và phát triển rừng. Gỗ là tài nguyên không thể tái sinh được, phải mất nhiều
năm mới có thể có được cây gỗ hàng chục hàng trăm tuổi mà một thế hệ đời
người không đủ điều kiện để tái tạo ra.

- Sản phẩm gỗ liên quan đến chính sách của Chính phủ và các quốc gia khác
khi kinh doanh xuất nhập khẩu Nhà nước ban hành chế độ, qui định bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên đòi hỏi các doanh nghiệp tuân thủ.
- Nguyên liệu gỗ phụ thuộc nhiều vào địa hình, khí hậu từng vùng khai thác
khác nhau nên khó đảm bảo tính đồng nhất về chất lượng theo nhu cầu khách hàng.
Bên cạnh những đặc điểm chung của ngành chế biến gỗ xuất khẩu vốn có, ngành
chế biến gỗ Việt Nam còn có những đặc điểm riêng thể hiện qua các lợi thế:
- Ngành gỗ Việt Nam có truyền thống lâu đời:
Lịch sử cho thấy người dân Việt Nam có truyền thống làm nghề mộc. Từ
xưa tay nghề của từng nhóm thợ mộc và chạm khắc đã tự truyền cho nhau đạt
đến mức điêu luyện thể hiện qua các tác phẩm mộc điêu khắc trong đình
chùa Cả nước hiện có khoảng gần 500 làng nghề mộc truyền thống. Các làng
nghề này cho ra đời những tác phẩm cực kì tinh xảo, thẩm mỹ cao, đậm chất dân
tộc từ đôi bàn tay tài hoa, tỉ mỉ của các nghệ nhân. Yếu tố truyền thống là một
lợi thế trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến gỗ giai đoạn hiện nay.
- Ngành gỗ Việt Nam có lợi thế về lao động
Trình độ công nghệ sản xuất của Việt Nam trong lĩnh vực này ở mức
21
trung bình, tuy nhiên có lợi thế về nguồn lao động dồi dào, khéo léo, chăm chỉ
và rẻ. Trung bình 1 giờ làm việc của công nhân Việt Nam trong lĩnh vực này là
0,4-1,2 USD, trong khi đó của Indonesia là 0,6-0,8 USD, Trung Quốc là 1,0-1,5
USD, Malaysia là 2,5-2,8 USD, Thái Lan là 3 USD và Đài Loan là 9 USD. Việc
tăng cường sử dụng lao động có thể thay thế được những thiết bị tự động và các
dây chuyền sản xuất phức tạp. Tất cả những con số này cho thấy rằng, Giá cả
sức lao động khá thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, điều này
cũng tạo ra cho sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu một lợi thế cạnh tranh tốt trên
thị trường Nhật Bản.
- Số các doanh nghiệp tham gia vào ngành chế biến gỗ ngày càng nhiều
Tính đến tháng 4 năm 2011, cả nước đã có trên 3.000 doanh nghiệp chế
biến gỗ, trong đó khoảng 50% là số cơ sở chế biến gỗ quy mô nhỏ làm ra sản

phẩm chủ yếu tiêu thụ nội địa hoặc gia công, sơ chế theo đặt hàng của các doanh
nghiệp lớn. Hiện có 1.200 doanh nghiệp chuyên chế biến xuất khẩu đồ gỗ, nhiều
doanh nghiệp đã phát triển thành các tập đoàn lớn. Trong đó, chỉ với hơn 420
doanh nghiệp FDI đã tạo ra khoảng hơn 55% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Bên
cạnh đó là gần 500 làng nghề mộc truyền thống và nổi tiếng, góp vào kim ngạch
xuất khẩu cả ngành gỗ hàng năm là 70 triệu USD. Những con số đó cho thấy sự
lớn mạnh của ngành này trong những năm gần đây. (Nguồn: Bản tin kinh tế số 5
– Vụ Tổng hợp Kinh tế - Bộ Ngoại giao)
2.1.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu gỗ Việt Nam
2.1.2.1. Vài nét về ngành chế biến gỗ của Việt Nam
Nguồn nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu từ chỗ dựa chủ
yếu vào rừng tự nhiên là chính đã chuyển sang nguồn gỗ nhập khẩu và gỗ rừng
trồng là chính. Theo số liệu thống kê, để bù đắp sự thiếu hụt về nguyên liệu gỗ
rừng tự nhiên, năm 2010 cả nước đã nhập khẩu 1,1 tỷ USD gỗ và sản phẩm gỗ
từ 23 thị trường trên thế giới. Bên cạnh đó chúng ta cũng tăng cường sử dụng gỗ
22
rừng trồng để sản xuất xuất khẩu.
Đến nay, ngành chế biến gỗ đã hình thành mạng lưới toàn quốc có nhiều
thành phần kinh tế tham gia với tổng công suất chế biến khoảng 3 triệu m
3
gỗ
quy tròn/năm phân bố theo các thành phần kinh tế: 374 xí nghiệp quốc doanh
Trung ương và địa phương (lớn nhất là Tổng công ty VINAFOR) chiếm 31%
năng lực chế biến. Còn lại là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. (Nguồn: ).
2.1.2.2. Thực trạng công nghệ và năng lực ngành chế biến và xuất khẩu sản
phẩm gỗ
Nhìn chung các doanh nghiệp chế biến hiện nay đang dừng ở mức độ chế
biến bán cơ giới, quy mô vừa và nhỏ (khoảng từ 500 công nhân, sản xuất kết
hợp kỹ thuật thủ công với cơ khí, sản xuất và xuất khẩu vài chục container 40

feet đồ gỗ/ tháng). Đặc biệt ngành công nghiệp chế biến gỗ đã thu hút được trên
420 công ty có vốn đầu tư nước ngoài, chuyên sản xuất đồ gỗ xuất khẩu với tổng
số vốn đăng ký lên tới hàng trăm triệu USD, trong đó có những xí nghiệp quy
mô lớn trên 5000 công nhân.
Tuy nhiên các cơ sở chế biến nhỏ thường phân tán. Do tình trạng này mà
khả năng cơ giới hoá và hiện đại hoá ngành chế biến cũng rất hạn chế.
2.1.2.3. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ
 Tình hình sản xuất chế biến sản phẩm gỗ
Ngành chế biến gỗ trong thời gian qua đã tạo ra được các sản phẩm phục vụ
trong nước và xuất khẩu như gỗ xẻ, gỗ xây dựng, đồ mộc thông dụng, đóng tàu
thuyền, giao thông vận tải, hàng thủ công mỹ nghệ, ván dảm mảnh và các sản
phẩm, song mây xuất khẩu. Cơ cấu sản phẩm trên cơ sở giá trị hàng hoá chiếm
tỷ trọng cao nhất là đồ mộc (60%), tiếp đến là gỗ xẻ và hàng thủ công mỹ nghệ
(13%) và thấp nhất là dăm mảnh (0,4%).
23
Cơ cấu sản phẩm và khối lượng sản phẩm giữa các vùng cũng có sự khác
nhau. Mặt hàng sản phẩm gỗ nội thất chiếm tỷ trọng cao, khoảng 71%, tiếp đến
là sản phẩm gỗ ngoài trời chiếm 17% và sản phẩm mỹ nghệ 8%.
 Tình hình xuất khẩu sản phẩm gỗ
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia nước ngoài, Việt Nam đang nổi lên và là
một trong những quốc gia có thế mạnh trong xuất khẩu các sản phẩm gỗ chế
biến và nội thất. Nhờ hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới một cách chủ
động và hợp lý, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành chế biến gỗ và nội
thất nói riêng đã được hưởng lợi từ tiến trình này.
 Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Sản phẩm gỗ xuất khẩu từ chỗ chỉ là sản phẩm thô (gỗ tròn, gỗ xẻ) đã phát
triển lên một trình độ gia công cao hơn, áp dụng công nghệ tẩm sấy, trang trí bề
mặt xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh, sản phẩm có giá trị tăng thêm về công
nghệ và lao động. Các mặt hàng xuất khẩu chính như sau:
Bảng 2.1: Cơ cấu sản phẩm gỗ xuất khẩu năm 2005

TT Loại sản phẩm Tỷ lệ %
1 Đồ gỗ nội thất cao cấp 21,7
2 Đồ gỗ nội thất trung bình 25,6
3 Đồ gỗ trang trí ngoài trời 21,5
4 Đồ gỗ mỹ nghệ 16,4
5 Đồ gỗ xây dựng 8,5
6 Đồ gỗ khác 0,9
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam
 Về kim ngạch xuất khẩu
Với cơ cấu và khối lượng sản phẩm nêu trên, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của
Việt Nam từ năm 2000 trở lại đây không ngừng tăng lên: Giá trị kim ngạch xuất
24
khẩu gỗ năm 2000 mới chỉ là 219 triệu USD, năm 2005 đã đạt đến 1,517 tỷ
USD, năm 2007 đạt 2,4 tỷ USD, đến năm 2010 đã đạt 3,4 tỷ USD, và tính riêng
9 tháng đầu năm 2011 đã đạt 2,9 tỷ USD tăng 18% so với cùng kỳ năm 2010
(xem bảng 2.2). Sản phẩm gỗ xuất khẩu đã vươn lên vị trí thứ 5 trong nhóm các
mặt hàng chủ lực của Việt Nam chỉ xếp sau dầu thô, giày dép, thuỷ sản và dệt
may. Nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ đứng thứ 2 sau dầu thô. Mà dầu thô tăng chủ
yếu do tăng giá dầu còn lượng xuất khẩu thì không những không tăng mà còn bị
giảm sút.
Bảng 2.2: Kim ngạch XK sản phẩm gỗ Việt Nam giai đoạn 2005-2010
(Đơn vị: tỷ USD)
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010 8T-2011
Giá trị 1,52 1,93 2,4 2,8 2,55 3,4 2,9
% tăng - 22,2 24,4 16,6 -8,9 33,3 -
Nguồn: Hải quan Việt Nam
Nhìn vào bảng số liệu, cho thấy ngành gỗ đã tăng trưởng vượt bậc thể hiện ở
sự tăng trưởng và phát triển không ngừng về kim ngạch qua các năm trong suốt
6 năm qua (không kể năm 2009, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới).
Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam mới chỉ đạt giá trị

hơn 1,5 tỷ USD mà đến năm 2010 giá trị kim ngạch đã lên tới con số 3,4 tỷ
USD, tăng 220%. (Xem biểu đồ 2.1)
25

×