Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

nghiên cứu chiến lược hợp tác thương mại của việt nam với các nước mỹ latinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.19 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
I- GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC NƯỚC MỸ LATINH. TỔNG QUAN MỐI QUAN
HỆ GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC MỸ LATINH 4
1. Giới thiệu chung về các nước Mỹ Latinh 4
2. Tổng quan mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh 5
II- NỘI DUNG CHIẾN LƯỢC HỢP TÁC THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ
CÁC NƯỚC MỸ LATINH 7
1. Chiến lược phát triển Ngoại thương của Việt Nam 7
1.1. Quan điểm chiến lược 9
1.2. Mục tiêu phát triển 9
1.3. Định hướng xuất khẩu 9
1.4. Định hướng nhập khẩu 11
2. Chiến lược hợp tác thương mại của Việt Nam và các nước Mỹ Latinh 11
a) Định hướng xuất khẩu 11
b) Định hướng nhập khẩu 14
III- GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC HỢP TÁC THƯƠNG MẠI GIỮA
VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC MỸ LATINH TRONG GIAI ĐOẠN 2011- 2020 14
1. Phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế 14
2. Phát triển thị trường 15
3. Chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu 17
4. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao nhận kho vận và đẩy nhanh xã hội hóa hoạt
động dịch vụ logistics 17
5. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực 17
6. Kiểm soát nhập khẩu 17
KẾT LUẬN 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
1
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những nhiệm vụ then chốt của Chương trình hành động Chiến lược phát
triển xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011- 2020 định hướng đến năm 2030 mà Đảng và


Nhà nước ta đề ra là tiếp tục mở rộng thị trường, trong đó có một quan điểm chủ đạo là đẩy
mạnh tìm kiếm các thị trường mới, xây dựng đề án phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu đối với
từng khu vực thị trường nhằm đa dạng hóa mặt hàng và thị trường xuất nhập khẩu, khai thác
tốt tiềm năng và đặc thù của từng khu vực thị trường. Trong số những thị trường mới đó
được xác định, các nước Mỹ Latinh nổi lên như một thị trường thật sự nhiều tiềm năng.
Mỹ Latinh là khu vực rộng lớn với tổng diện tích trên 21 triệu km2 bao gồm 33 quốc
gia với dân số gần 600 triệu người và GDP đạt trên 5.500 tỷ USD tương đương với hơn 10%
tổng tổng sản lượng quốc nội thế giới. Khu vực này, đặc biệt các nước trong G20 là Bra-xin,
Chile, Mê-hi-cô và Ac-hen-ti-na, có thế mạnh trên hầu khắp các lĩnh vực kinh tế như hàng
không vũ trụ, thiết bị công nghiệp nặng, ô tô, linh kiện điện tử, xây dựng, khai khoáng, lọc
hóa dầu, công nghệ sinh học, may mặc, nông lâm ngư nghiệp, tài chính ngân hàng, năng
lượng, truyền thông, du lịch và dịch vụ Với quan hệ chính trị, ngoại giao tốt đẹp, Việt
Nam và Mỹ Latinh có nhiều thuận lợi để phát triển quan hệ kinh tế do cơ cấu ngành nghề có
thể bổ trợ tốt cho nhau như khai thác, chế biến dầu khí, khai khoáng, thuỷ điện, phong điện,
năng lượng nguyên tử, sản phẩm sinh học, nông nghiệp và chế biến nông sản. Việt Nam có
thể tranh thủ khai thác các thế mạnh của khu vực để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế
trong nước và bổ sung cho quan hệ kinh tế của ta với các nước khác, nhất là khi một số thị
trường truyền thống đã có dấu hiệu bão hòa; nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng
thị trường cho hàng hoá dịch vụ Việt Nam. Đặc biệt, Mỹ Latinh có thể trở thành thị trường
xuất khẩu đầy tiềm năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam bởi đây là một thị
trường rộng lớn, đa dạng và khá dễ tính.
Trong khoảng 15 năm trở lại đây, quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam
và khu vực Mỹ Latinh đã có những bước phát triển tương đối nhanh và ngày càng mở rộng,
thương mại song phương tăng khoảng 30% trong 10 năm và đạt mức 4,9 tỷ USD vào năm
2011. Tuy nhiên, cho đến nay quan hệ giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh chưa phát triển
đồng đều, chủ yếu mới tập trung vào các bạn truyền thống (Cuba) và một số nước lớn
(Brazin, Agentina ) và gần đây mở rộng sang Chile và Venezuela . Quan hệ kinh tế thương
mại tuy tăng nhưng vẫn ở mức thấp so với tiềm năng, hiệu quả chưa cao, đầu tư của khu vực
2
vào Việt Nam chưa đang kể. Mặc dầu tốc độ tăng trưởng cao (đạt gần 30% năm), thị phần

hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ở thị trường Mỹ Latinh còn nhỏ (0,3%), chưa có tăng
trưởng đột biến, giá trị xuất khẩu sang khu vực chỉ chiếm 2,3% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước năm 2011. Trong cán cân thương mại, tình trạng nhập siêu còn kéo dài và chậm
được khắc phục.
Nguyên nhân của những hạn chế trong quan hệ thương mại Việt Nam- Mỹ Latinh có kể
kể đến: Thứ nhất, chính sách thương mại chặt chẽ, quyết liệt bảo hộ thị trường nội địa bằng
hàng rào kỹ thuật và thuế quan của các nước Mỹ Latinh; Thứ hai, sự cạnh tranh gay gắt của
các sản phẩm của nước sở tại và các khu vực nội khối Mercosur và hàng hóa giá thấp đến từ
các nước Châu Á khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan; Các
nguyên nhân khác như rào cản về ngôn ngữ, khoảng cách địa lý, thông tin hiểu biết về thị
trường đối tác, sự thiếu hiệu quả của các hoạt động xúc tiến thương mại, thiếu hiệp định hỗ
trợ tư pháp,… cũng dẫn đến những hạn chế trong quan hệ thương mại giữa hai bên.
Thực trạng đó làm cho việc đẩy mạnh phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với
các Mỹ Latinh trở nên đặc biệt cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế thương
mại, cũng như mong muốn của lãnh đạo Việt Nam và các nước, của giới doanh nghiệp và
nhân dân hai bên.
Để tăng cường quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước Mỹ Latinh, đẩy mạnh
tốc độ tăng trưởng buôn bán hai chiều, chúng ta cần phải tìm hiểu thị trường Mỹ Latinh, nắm
bắt thực trạng mối quan hệ thương mại hiện nay giữa Việt Nam với thị trường này, từ đó đề
ra những kiến nghị, giải pháp thiết thực.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, nhóm chúng tôi tôi đã chọn đề tài “Nghiên cứu chiến
lược hợp tác thương mại của Việt Nam với các nước Mỹ Latinh”.
Nội dung tiểu luận gồm 3 phần chính:
I- Giới thiệu chung về khu vực Mỹ Latinh và quan hệ giữa Việt Nam và các nước
Mỹ Latinh
II- Nội dung chiến lược hợp tác thương mại của Việt Nam và các nước Mỹ Latinh
III- Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước
Mỹ Latinh
3
I- GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC NƯỚC MỸ LATINH. TỔNG QUAN MỐI QUAN

HỆ GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC MỸ LATINH
1. Giới thiệu chung về các nước Mỹ Latinh
Các quốc gia Mỹ Latinh có rất nhiều điểm tương đồng, gắn kết với nhau về truyền thống
lịch sử, văn hóa, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ (phần lớn nói tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha và tiếng Anh)…, tạo thuận lợi rất lớn cho sự giao lưu, hợp tác, hội nhập giữa các nước
trong nội khối với nhau cũng như giữa khu vực với quốc tế.
Tuy chỉ chiếm hơn 8% dân số (577,2 triệu người) và 14,7% diện tích của thế giới (21,5
triệu km2), nhưng Mỹ Latinh có nguồn tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản đa dạng, chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng trữ lượng của thế giới như: Bạc (31%), đồng (28%), than đá (27%), diện
tích rừng (25%), dầu lửa (24%), ni-kên (24%), bô-xít (17%), thiếc (16%), sắt (14%), u-ra-ni-
um (5%) … Nhiều nước Mỹ Latinh, với ba nền kinh tế đầu tàu là Bra-xin, Mê-hi-cô và Ác-
hen-ti-na - thành viên Nhóm G20, đạt trình độ khá cao trong nhiều lĩnh vực như: Khai thác,
chế biến dầu khí, năng lượng (thủy điện, phong điện…), khai thác khoáng sản, công nghệ
cao, công nghệ và nhiên liệu sinh học, nông nghiệp, chế biến nông-lâm-hải sản …
Những năm gần đây, kinh tế Mỹ Latinh đã có sự bứt phá, phát triển mạnh mẽ về mọi
mặt, cùng với Châu Á, được đánh giá là những điểm sáng về tăng trưởng của kinh tế thế giới.
Các nước Mỹ Latinh đã lựa chọn đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, thu được những
thành tựu ấn tượng, đáng khâm phục. GDP của toàn khu vực đạt mức tăng trưởng bình quân
5,3% năm giai đoạn 2006-2010 so với mức 2,4% của giai đoạn 2000-2005, đặc biệt mức tăng
trưởng của một số nước như Ác-hen-ti-na đạt 9% (2010), Cô-lôm-bi-a 5% (2010) và Chile
5,3% (2010). Riêng năm 2011 vừa qua, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn
cầu, kinh tế Mỹ Latinh vẫn đạt mức tăng trưởng GDP khá cao 4,3%, tổng giá trị GDP lên
đến hơn 6.006 tỷ USD, GDP đầu người đạt 9.308 USD; kim ngạch xuất khẩu trên 1.000 tỷ,
thu hút FDI đạt mức kỷ lục 130 tỷ USD, tăng 73% so với năm 2010. Cùng với sự phát triển
đi lên của toàn khu vực, một số nền kinh tế lớn ở Mỹ Latinh như: Ác-hen-ti-na, Chi-lê, Bra-
xin, Mê-hi-cô, U-ru-goay… đã có sự vươn lên mạnh mẽ, trong đó nổi bật là Bra-xin trở
thành nền kinh tế lớn thứ 6 và Mê-hi-cô thành nền kinh tế thứ 13 của thế giới với tổng giá trị
GDP năm 2011 tương ứng là 2.294 tỷ USD và 1.661 tỷ USD. Ngân hàng Thế giới dự báo,
trong 5-10 năm tới, kinh tế Mỹ Latinh sẽ duy trì mức tăng trưởng GDP 4 - 6% năm, lạm phát
và thất nghiệp được duy trì ở mức một con số.

Song song với quá trình phát triển trong từng nước, Mỹ Latinh ngày càng quan tâm đẩy
mạnh liên kết và hội nhập khu vực và quốc tế. Những năm gần đây, một loạt tổ chức hội
4
nhập chính trị-kinh tế cấp tiểu vùng và cấp vùng được củng cố hoặc thành lập mới như: Liên
minh các Quốc gia Nam Mỹ (UNASUR), Cộng đồng các Quốc gia An-đết (CAN), Khối thị
trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), Khối thị trường chung Trung Mỹ và Ca-ri-bê
(CARICOM), Liên minh Bô-li-va cho Mỹ Latinh (ALBA)…. Xu hướng này đã biến Mỹ
Latinh thành một thị trường rộng lớn và ngày càng đồng nhất, tạo thuận lợi cho các đối tác
bên ngoài khu vực tiếp cận và hoạt động kinh doanh, đầu tư.
Nhằm phục vụ mục tiêu phát triển, hầu hết các nước Mỹ Latinh đã có những điều chỉnh
quan trọng trong chính sách đối ngoại nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng, từ
chỗ tập trung vào các đối tác Tây bán cầu, các nước Mỹ Latinh đã chủ động mở rộng quan hệ
với các đối tác ngoài khu vực, đặc biệt là hướng mạnh sang Châu Á-Thái Bình Dương. Theo
hướng đó, nhiều nước Mỹ Latinh ngày càng tích cực tham gia các tổ chức hội nhập liên khu
vực như: Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Đông Á –
Mỹ Latinh (FEALAC), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP), quan tâm thiết lập
quan hệ với ASEAN. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển quan hệ Việt Nam và các nước
Mỹ Latinh theo hướng gắn kết, hiệu quả hơn.
2. Tổng quan mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh
a) Về chính trị, ngoại giao
Giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh vốn có quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống
tốt đẹp, bắt nguồn từ sự tương đồng trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc.
José Marti, nhà cách mạng và nhà văn hoá của Cuba và Mỹ Latinh đã đề cập tới truyền
thống anh hùng chống xâm lược của nhân dân Việt Nam trong truyện ngắn “Cuộc dạo chơi
trên đất nước của người An Nam” đăng trong tác phẩm “Tuổi vàng”, xuất bản tại Mỹ vào
năm 1889. Ông được Lãnh tụ Cuba Fidel Castro coi là “người Cuba, người Mỹ Latinh đầu
tiên phát hiện ra Việt Nam”. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước cũng
đã từng tới đảo Martinique thuộc vùng Ca-ri-bê, U-ru-goay và Ác-hen-ti-na vào năm 1912 và
sau này cũng chính là người gieo mầm cho quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác của Việt
Nam với các nước Mỹ Latinh. Chính tư tưởng độc lập, tự do là sợi dây tinh thần gắn bó nhân

dân Việt Nam và Mỹ Latinh từ các thế hệ của José Marti, Hồ Chí Minh cho đến ngày nay.
Sau thắng lợi lịch sử của Việt Nam năm 1975, quan hệ chính trị-ngoại giao giữa Việt
Nam và các nước Mỹ Latinh được mở rộng. Trong 5 năm (1975-1980), Việt Nam thiết lập
thêm quan hệ ngoại giao với 10 nước Mỹ Latinh. Việt Nam cũng đã sát cánh cùng các nước
bạn bè Mỹ Latinh trong cuộc đấu tranh vì độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nước Mỹ
Latinh đã ủng hộ mạnh mẽ việc Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc năm 1977, hỗ trợ Việt
5
Nam khắc phục hậu quả chiến tranh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chống lại các biện pháp bao
vây, cấm vận.
Kể từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới vào năm 1986, quan hệ với các nước
Mỹ Latinh bước vào một giai đoạn phát triển mới, mạnh mẽ hơn và toàn diện hơn. Từ 1986
đến nay, Việt Nam đã thiết lập thêm quan hệ ngoại giao với 14 nước ở khu vực này. Việc
trao đổi các chuyến thăm và tiếp xúc giữa Lãnh đạo cấp cao Việt Nam và các nước Mỹ
Latinh được thực hiện thường xuyên, qua đó, thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện
giữa Việt Nam với một số nước. Hàng chục hiệp định, thoả thuận hợp tác đã được ký kết, tạo
cơ chế và hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa
Việt Nam với các nước Mỹ Latinh. Sự phối hợp và ủng hộ lẫn nhau tại các tổ chức quốc tế
và diễn đàn đa phương ngày càng chặt chẽ. Các hoạt động giao lưu, trao đổi giữa các đoàn
thể, tổ chức hữu nghị nhân dân không ngừng phát triển.
Cho đến năm 2012, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 27 nước Mỹ Latinh, thiết
lập các Uỷ ban hợp tác hỗn hợp liên chính phủ với 5 nước, thiết lập các cơ chế tham khảo
chính trị với 15 nước Mỹ Latinh. Trong 10 năm qua, đã có 9 chuyến thăm của lãnh đạo cấp
cao nhất của Việt Nam tới các nước Mỹ Latinh, 10 chuyến thăm của Lãnh đạo cấp cao nhất
của các nước Mỹ Latinh tới Việt Nam. Việt Nam hiện có 7 Đại sứ quán tại khu vực; 8 nước
Mỹ Latinh đã mở Đại sứ quán tại Hà Nội.
Tại Diễn đàn cấp bộ trưởng Việt Nam- Mỹ Latinh diễn ra tại Hà Nội tháng 7/2012, thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu:
“Trong chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế, Việt Nam luôn mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các

quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Việt Nam luôn coi trọng và quyết
tâm phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước Mỹ La-tinh,
đưa các mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu
quả, phục vụ tích cực cho công cuộc phát triển của Việt Nam cũng
như các nước Mỹ La-tinh, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác
và phát triển của khu vực và thế giới.”
b) Về thương mại
Quan hệ chính trị, hữu nghị truyền thống tốt đẹp và không ngừng phát triển đã tạo tiền đề và
nền tảng vững chắc cho việc mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa Việt
Nam và các nước Mỹ Latinh, nhất là trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư. Kim ngạch
6
thương mại hai chiều liên tục tăng cao, trên dưới 30% năm, từ 300 triệu USD năm 2000 lên
5,1 tỷ USD năm 2011, gấp 17 lần. Riêng với ba nền kinh tế lớn nhất của khu vực là Bra-xin,
Mê-hi-cô và Ác-hen-ti-na, kim ngạch thương mại hai chiều đã vượt ngưỡng 1 tỷ USD với
mỗi nước.
* Những hiệp định thương mại đã ký kết giữa 2 bên:
Đến nay, Việt Nam đã ký 5 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước
Venezuela, Ac-hen-tina, Chile, Cuba và Uruguay cũng như 2 Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần với Cuba và Venezuela.
Tuy có bước phát triển nhanh và khá ấn tượng, nhưng quan hệ hợp tác thương giữa Việt
Nam và Mỹ Latinh đến nay còn nhiều hạn chế: Kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này chỉ
chiếm tỷ trọng 2,3 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2009. Thị phần xuất khẩu
của Việt Nam ở Mỹ Latinh còn nhỏ, chỉ chiếm 0,18 % tổng kim ngạch nhập khẩu của cả Mỹ
Latinh từ tất cả các nước (1,3/695,4 tỷ USD). Đặc biệt ở một số nước có tiềm năng lớn và
quy mô kinh tế hàng trăm tỷ USD nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu và thị phần của ta còn ít
(Colombia, Veneduela, Peru, Panama).
Những trở ngại căn bản là khoảng cách xa về địa lý, các doanh nghiệp hai bên còn thiếu
thông tin về nhau và do đó chưa quan tâm đúng mức đến phát triển quan hệ kinh doanh với
nhau. Tại một số thị trường nhiều tiềm năng này, Thương vụ mới được thành lập hoặc chưa
có nên chưa hỗ trợ được nhiều cho các doanh nghiệp trong khâu tìm hiểu thị trường và tìm

kiếm đối tác kinh doanh. Việc thâm nhập hàng hóa, mở rộng thị trường còn gặp phải sự cạnh
tranh gay gắt với hàng hóa đến từ các nước châu Á khác có giá thấp hơn nhưng thu hút thị
hiếu và sức mua của đại bộ phận nhân dân lao động có thu nhập chưa cao. Gần đây, các đoàn
XTTM có xu hướng thưa dần, còn chưa hướng đích tới thị trường Mỹ Latinh. Công tác thông
tin tuyên truyền, phối hợp vận động, đấu tranh bảo vệ uy tín hàng hóa của ta còn chưa đủ
mạnh.
II- NỘI DUNG CHIẾN LƯỢC HỢP TÁC THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC
NƯỚC MỸ LATINH
1. Chiến lược phát triển Ngoại thương của Việt Nam
Thực hiện chính sách “mở cửa” và hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại những kết quả rất
quan trọng trong lĩnh vực ngoại thương. Trong 10 năm gần đây kim ngạch xuất khẩu tăng
gấp 5,6 lần; nhịp độ tăng trưởng bình quân 18,4% năm, nhanh hơn tốc độ tăng trường GDP
khoảng 2,6 lần (GDP tăng bình quan 7.6%/năm). Cơ cấu xuất khẩu đã được cải thiện theo
7
hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỉ trọng các sản phẩm thô, tạo được một số mặt hàng
có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Thương mại dịch vụ, đặc biệt là ngành du
lịch có nhiều tiến bộ. Nhập khẩu về cơ bản đã phục vụ có hiệu quả phát triển sản xuất và đổi
mới công nghệ, thức đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của đời sống nhân dân. Thị trường xuất, nhập khẩu được mở rộng theo hương
đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa quan hệ kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động ngoại thương cũng còn gặp nhiều hạn chế:
- Quy mô xuất khẩu còn quá nhỏ bé
- Sản xuất chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới; khả năng cạnh tranh của nhiều
hàng hóa còn thấp; tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao còn rất nhỏ.
Xuất khẩu dịch vụ còn thấp.
- Nhập khẩu chưa cải thiện được tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành; ít tiếp
cận được với công nghệ nguồn.
- Sự hiểu biết về thị trường ngoài nước còn hạn chế.
Trên bình diện quốc tế, khoa học và công nghệ phát triển như vũ bảo và đang trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp , đưa thế giới vào thời kỳ phát triển mới – thời kỳ kinh tế tri thức

và xã hội thông tin. Các ngành dịch vụ và các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát
triển mạnh. Thương mại quốc tế ngày càng mở rộng.
Xu hướng toàn cầu hóa khu vực hóa với các mặt hàng tích cực và tiêu cực của nó sẽ tiếp
tục diễn biến thông qua sự hợp tác – đấu tranh phức tạp giữa các đối tác. Các mâu thuẫn cơ
bản trên thế giới biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau vẫn tồn tài và phát triển, có mặt
sâu sắc hơn. Thế giới đang đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ
nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương.
Trong nền kinh tế thế giới, các nước công nghiệp phát triển vẫn giữ vị trí áp đảo, Cuộc
đấu tranh duy trì ảnh hưởng và phân chia thị trường sẽ diễn ra gay gắt giữa Mỹ, Tây Âu và
Nhật Bản, Nga , Trung Quốc và chừng mực nào đó Ấn Độ sẽ có vị trí ngày càng lớn trong
nền kinh tế và thương mại thế giới. Châu Á – Thái Bình Dương sau khủng hoảng tài chính
kinh tế, tiếp tục là một thị trường rộng lớn và cùng Châu Âu hình thành không gian kinh tế Á
– Âu
Căn cứ đường lối kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 ,
xu hướng phát triển nền kinh tế và thị trường thế giới thập niên đầu thế kỷ XXI, cũng như từ
thực tiễn của các nước, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng
hóa thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030 với những nội dung chủ yếu sau:
8
1.1. Quan điểm chiến lược
a) Phát triển sản xuất để tăng nhanh xuất khẩu, đồng thời đáp ứng nhu cầu trong nước;
khai thác tốt lợi thế so sánh của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh xuất
nhập khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải
quyết việc làm và tiến tới cân bằng cán cân thương mại.
b) Xây dựng, củng cố các đối tác hợp tác chiến lược để phát triển thị trường bền vững;
kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quốc gia, lợi ích kinh tế và lợi ích
chính trị - đối ngoại, chủ động và độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế.
c) Đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu. Tích cực và chủ động tham gia vào mạng
lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; chú trọng xây dựng và phát triển hàng hóa có giá trị
gia tăng cao, có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước.
1.2. Mục tiêu phát triển

a) Mục tiêu tổng quát
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đến năm 2020 tăng gấp trên 3 lần năm 2010, bình quân
đầu người đạt trên 2.000 USD, cán cân thương mại được cân bằng.
b) Mục tiêu cụ thể
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 11 – 12%/năm trong thời kỳ 2011 –
2020, trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng trưởng bình quân 12%/năm; giai đoạn 2016 –
2020 tăng trưởng bình quân 11%/năm. Duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 10% thời kỳ 2021
– 2030.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thấp hơn tăng trưởng xuất khẩu; tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu hàng hóa bình quân 10 – 11%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020, trong đó giai đoạn 2011
– 2015 tăng trưởng bình quân dưới 11%/năm; giai đoạn 2016 – 2020 tăng trưởng bình quân
dưới 10%/năm.
- Giảm dần thâm hụt thương mại, kiểm soát nhập siêu ở mức dưới 10% kim ngạch xuất khẩu
vào năm 2015 và tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào năm 2020; thặng dư thương mại
thời kỳ 2021 – 2030.
1.3. Định hướng xuất khẩu
a) Định hướng chung
- Phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý giữa chiều rộng và chiều
sâu, vừa mở rộng quy mô xuất khẩu, vừa chú trọng nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu.
9
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, tập trung nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản
phẩm chế biến sâu, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm thân thiện với môi
trường trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu.
b) Định hướng phát triển ngành hàng
- Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản (là nhóm hàng có lợi thế về tài nguyên nhưng bị giới
hạn nguồn cung): Có lộ trình giảm dần xuất khẩu khoáng sản thô; đầu tư công nghệ để tăng
xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng các cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng
giá trị xuất khẩu. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ
11,2% năm 2010 xuống còn 4,4% vào năm 2020.

- Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản (là nhóm hàng có lợi thế và năng lực cạnh tranh dài hạn
nhưng giá trị gia tăng còn thấp): Nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; chuyển
dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm xuất khẩu
có ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu
hàng hóa xuất khẩu từ 21,2% năm 2010 xuống còn 13,5% vào năm 2020.
- Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo (là nhóm hàng có tiềm năng phát triển và thị
trường thế giới có nhu cầu): Phát triển sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao;
phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tỷ lệ giá trị trong nước, giảm phụ thuộc vào nguyên
phụ liệu nhập khẩu. Định hướng tỷ trọng nhóm hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ
40,1% năm 2010 tăng lên 62,9% vào năm 2020.
- Nhóm hàng mới (nằm trong nhóm hàng hóa khác): Rà soát các mặt hàng mới có kim ngạch
hiện nay còn thấp nhưng có tiềm năng tăng trưởng cao trong thời gian tới để có các chính
sách khuyến khích phát triển, tạo sự đột phá trong xuất khẩu. Định hướng tỷ trọng trong cơ
cấu hàng hóa xuất khẩu từ 12% năm 2010 tăng lên 19,2% vào năm 2020.
c) Định hướng phát triển thị trường
- Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị
trường truyền thống; tạo bước đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng.
- Phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế, khu vực và tăng cường
hoạt động ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường xuất khẩu; phát triển hệ thống cơ quan
xúc tiến thương mại tại các khu vực thị trường lớn và tiềm năng; tăng cường bảo vệ hàng hóa
và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới.
10
- Tận dụng tốt các cơ hội mở cửa thị trường của nước ngoài và lộ trình cắt giảm thuế quan để
đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang các thị trường
đã ký FTA.
- Tổ chức xây dựng và từng bước phát triển hệ thống phân phối hàng Việt Nam tại thị trường
nước ngoài.
- Định hướng về cơ cấu thị trường đến năm 2020: châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 46%, châu
Âu khoảng 20%, châu Mỹ khoảng 25%, châu Đại Dương khoảng 4% và châu Phi khoảng
5%.

1.4. Định hướng nhập khẩu
- Chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa, đồng thời phát triển sản xuất
nguyên, nhiên, phụ liệu phục vụ các ngành hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước và
phát triển công nghiệp hỗ trợ, kiểm soát chặt việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến
khích nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu trong dài hạn.
- Đáp ứng yêu cầu nhập khẩu nhóm hàng máy móc thiết bị và công nghệ cao phù hợp với
nguồn lực, trình độ sản xuất trong nước và tiết kiệm năng lượng, vật tư; định hướng nhập
khẩu ổn định cho các ngành sản xuất sử dụng các nguyên, nhiên, vật liệu mà khai thác, sản
xuất trong nước kém hiệu quả hoặc có tác động xấu đến môi trường.
- Đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, cải thiện thâm hụt thương mại với các thị trường Việt
Nam nhập siêu.
2. Chiến lược hợp tác thương mại của Việt Nam và các nước Mỹ Latinh
a) Định hướng xuất khẩu
Sau khi tiến hành khảo sát, nghiên cứu tình hình kinh tế tại Mỹ Latinh, các doanh nghiệp
Việt Nam đã tập trung vào những thị trường có dân số đông, sức tiêu thụ khá như Mehico,
Achentina, Braxin Tại đây, Việt Nam tiếp tục tập trung vào những hàng hóa trọng điểm như
hàng dệt may, giày dép và gạo. Do nhanh nhạy trong việc phân tích thị trường và sáng suốt
trong việc thực hiện các chính sách xuất khẩu đúng đắn, kết quả thương mại của Việt Nam
với Mỹ Latinh thực sự ấn tượng và có kết quả tăng trưởng cao.
Phân tích mặt hàng xuất khẩu chính trong năm 2009 thấy 10 mặt hàng có kim ngạch cao
gồm giày dép đạt 325,5 triệu USD, chiếm 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào
Mỹ Latinh. Hàng năm cả khu vực phải nhập khẩu giày dép với kim ngạch hơn 2 tỷ USD/
năm. Một số thị trường có nhu cầu nhập khẩu giày dép với số lượng lớn là Mexico, Panama,
Chile, Braxin, Argentina, Cuba, Peru. Mặt hàng xuất khẩu đứng thứ hai là gạo, đạt giá trị
11
kim ngạch 205,5 triệu USD, chiếm tỷ trọng 15,3%. Riêng Cuba hàng năm nhập khẩu gạo của
Việt Nam đạt hơn 200 triệu USD, ngoài ra một số thị trường khác ở Nam Mỹ và Caribe đã
nêu nhu cầu nhập khẩu gạo của ta cho những năm tới. Tiếp theo là mặt hàng dệt may có giá
trị xuất khẩu hàng năm trên 100 triệu USD, chiếm tỷ trọng 9,4%. Một số thị trường xuất
khẩu chính hàng dệt may của ta với giá trị kim ngạch hàng chục triệu USD là Mexico,

Braxin, Panama, Argentina, Chile, Peru.
Bên cạnh các mặt hàng dệt may, giày dép và gạo, Việt Nam cũng đẩy mạnh xuất khẩu các
mặt hàng thủy sản, chủ yếu là cá tra và basa. Tại thị trường như Mexico, Braxin, Colombia
sản lượng xuất khẩu cá tra và cá basa tăng nhanh, đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng chục
triệu USD ở mỗi nước.
Một số mặt hàng xuất khẩu chính sang Mỹ Latinh năm 2009
(Đơn vị: triệu USD).
TT Mặt hàng Kim
ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Thị trường xuất khẩu chính
(Số trong ngoặc: giá trị XK, tr.USD)
1 Giày dép 325,5 24,4 Mexico (138,3); Panama (64,2); Braxin
(45,9); Chile (30,6); Achentina (22,9);
Cuba (4,2); Peru (3,1); Nước khác
(15,9)
2 Gạo 205,5 15,3 Cuba (190,5); ); Nước khác (15,5).
3 Dệt may 126,0 9,4 Mexico (52,8); Braxin (8,6); Panama
(7,7);
Achentina (4,5); Chile (6,9); Peru
(0,17)
4 Thuỷ sản 108,0 8,3 Mexico (73,4); Braxin (7,7 ); Peru
( 0,2)
Nguồn: Tổng cục Hải Quan VN
Không những thế, Việt Nam còn tích cực xuất khẩu một số mặt hàng khác như vali, túi
xách, sản phẩm nhựa, cao su và sản phẩm từ cao su, cà phê vào thị trường Mỹ Latinh. Các
mặt hàng này đã có chỗ đứng tại Mỹ Latinh trong nhiều năm và vẫn tiếp tục tăng trưởng. Các
mặt hàng điện, điện tử, tin học, cơ khí, thiết bị, máy, động cơ điện, vật liệu xây dựng, gốm

sứ, xi măng, sắt thép, sản phẩm gỗ cũng đang thâm nhập trong thời gian gần đây và đạt giá
trị kim ngạch hàng chục triệu USD. Có thể thấy cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã có xu thế tăng
dần sang các sản phẩm công nghiệp. Đây cũng là phương hướng phát triển thị trường xuất
12
khẩu của nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 và tầm nhìn
2020.
Kết quả xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2010:
Biểu đồ: Xuất khẩu Việt Nam sang một số thị trường chủ yếu của Mỹ Latinh, 9 tháng đầu
năm 2010 (Đơn vị: triệu USD).
Nguồn: Tổng cục Hải quan VN.
Theo biểu đồ trên có thể thấy trong 9 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu sang thị trường
Mỹ Latinh đạt 1.365,4 triệu USD, cao hơn tổng kim ngạch xuất khẩu của cả năm 2009
(1.333,1 tr.USD). Ước tính cả năm 2010, xuất khẩu sang Mỹ Latinh đạt 1.820,3 triệu USD.
Riêng xuất khẩu sang 10 thị trường chủ yếu nói trên đạt hơn 1.655,4 tr.USD chiếm khoảng
91,7% trong tổng giá trị xuất khẩu của ta sang khu vực này. Trong số 10 thị trường chủ yếu
nói trên, xuất khẩu của ta giữ được quy mô và tốc độ tăng trưởng khá là Braxin, Mexico,
Cuba, Panama, Chilê. Ước năm 2010, thị trường Braxin, Mexico có quy mô kim ngạch xuất
khẩu vượt trên mốc 400 triệu USD/ năm, có tốc độ tăng trưởng khá vững chắc, sau đến Cuba
và Panama đạt trên dưới 200 triệu USD/năm. Gần đây, có nhiều tín hiệu đổi mới về chính
sách thương mại đầu tư Cuba. Về lâu dài, Cuba vẫn là thị trường xuất khẩu tiềm năng về gạo
và hàng nhu yếu phẩm kể cả tiềm năng về đầu tư của Việt Nam. Ngoài 10 thị trường xuất
khẩu chính nói trên, 23 thị trường khác thuộc Mỹ Latinh nhập khẩu từ Việt Nam, tuy có tăng
trưởng nhưng chỉ đạt kim ngạch 112,4 triệu USD trong 9 tháng đầu năm 2010, chiếm 8,3%
giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ Latinh. Vì vậy, cần nỗ lực vượt bậc trong công tác
xúc tiến thương mại sang 23 thị trường còn lại để tạo bước đột trong những năm tới.
13
b) Định hướng nhập khẩu
Phần lớn các mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ Latinh là để phục vụ cho sản xuất trong nước và
tái xuất khẩu.
Hiệp hội Chế biến gỗ và lâm sản của Việt Nam đã nhìn thấy kho

"gỗ“ dồi dào từ các nước Mỹ Latinh để làm nguyên liệu sản xuất, sau đó chế tác thành phẩm
để xuất trở lại vào thị trường này. Vì vậy một khối lượng lớn gỗ nguyên liệu đã được nhập
khẩu từ khu vực Mỹ Latinh.
Khu vực Mỹ Latinh cũng đã cung ứng nhiều nguyên liệu, vật tư cho sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu của ta, như bông, da, sắt thép, đồng, bột mỳ, thịt sữa, dầu mỡ động
thực vật, tân dược, chất dẻo, hoá chất
Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ các nước trong khu vực Mỹ Latinh năm
2006 ước đạt 627,5 triệu USD, tăng 17,61% so với năm 2005. Như vậy, Việt Nam nhập siêu
khoảng 83 triệu USD. Trong đó các mặt hàng nhập khẩu như thức ăn và chế biến gia súc
chiếm tới hơn 80% tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu. Xu hướng nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam từ Mỹ Latinh ngày càng tăng, đặc biệt là vào năm 2011 kim ngạch nhập khẩu này đạt
2.778,5 triệu KUSD, tăng 39,3% so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và khu vực Mỹ Latinh ngày càng được tăng cường và mở rộng.
III- GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC HỢP TÁC THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT
NAM VÀ CÁC NƯỚC MỸ LATINH TRONG GIAI ĐOẠN 2011- 2020
1. Phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Phát triển sản xuất công nghiệp:
+ Tiếp tục đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động các ngành sản xuất có tỷ trọng
kim ngạch xuất khẩu lớn như cơ khí, đồ gỗ, dệt may, da giày; phát triển sản xuất các mặt
hàng xuất khẩu có tiềm năng, có tốc độ tăng trưởng và giá trị gia tăng cao như vật liệu xây
dựng, sản phẩm hóa dầu, sản phẩm cao su, sản phẩm công nghệ cao.
+ Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển, thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp
hỗ trợ nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu đối với
các ngành cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, linh kiện ô tô, dệt may, da giày và công nghệ cao.
+ Khuyến khích phát triển các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu là đầu mối cung ứng cho
các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may, da giày, đồ gỗ, sản phẩm nhựa, điện tử, cơ khí.
+ Có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp xử lý môi trường trong sản xuất phù hợp với cam kết
quốc tế.
14
- Phát triển sản xuất nông nghiệp:

+ Tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các ngành nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh để
định hướng cho doanh nghiệp tập trung đầu tư vào các ngành hàng này.
+ Ban hành chính sách, biện pháp nhằm tổ chức lại sản xuất nông lâm ngư nghiệp theo
hướng liên kết về lực lượng, tư liệu sản xuất để tạo điều kiện đưa khoa học kỹ thuật, công
nghệ mới, giống mới vào sản xuất. Giảm các khâu trung gian trong việc cung ứng vật tư,
thiết bị cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
+ Xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn các mặt hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu để nâng
cao chất lượng, hiệu quả xuất khẩu và bảo vệ uy tín, thương hiệu hàng hóa Việt Nam.
+ Ban hành cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích gắn kết việc phát triển vùng nguyên liệu
với sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Triển khai các chương trình hợp tác,
liên kết giữa các địa phương trong cả nước để đầu tư phát triển vùng nguyên liệu; liên kết sản
xuất, chế biến tại chỗ phục vụ xuất khẩu.
+ Chủ động có đối sách phù hợp với các chính sách bảo hộ mậu dịch dưới mọi hình thức nói
chung và đối với hàng nông, lâm, thủy sản Việt Nam nói riêng.
2. Phát triển thị trường
a) Đẩy mạnh hợp tác song phương, đa phương
- Tăng cường hợp tác sâu rộng hơn với các nước đối tác lâu năm như Braxin, Ac-hen-ti-na,
Cuba,… đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia khác trong khu vực.
- Đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương; rà soát các cơ chế, chính sách
và cam kết quốc tế để bảo đảm sự đồng bộ trong quá trình thực hiện các cam kết; phát huy
vai trò các Ủy ban liên Chính phủ và Ủy ban Hỗn hợp nhằm xác định cơ hội, xây dựng
chương trình, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ và thúc đẩy hợp tác giữa hai bên.
- Tiến hành rà soát, đàm phán, ký mới và bổ sung các hiệp định đã ký về sự phù hợp và công
nhận lẫn nhau về chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện lưu thông thuận lợi, ổn định cho hàng
hóa xuất khẩu.
- Tổ chức hiệu quả, đồng bộ hoạt động thông tin, dự báo tình hình thị trường hàng hóa trong
nước và thế giới, luật pháp, chính sách và tập quán buôn bán của các thị trường để giúp
doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, thâm nhập thị trường hiệu quả.
- Tạo điều kiện thuận lợi, công bằng, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển và mở
rộng quan hệ hợp tác với nhau. Quan hệ thương mại, đầu tư của Việt Nam với khu vực mới

tập trung chủ yếu vào một số ít đối tác như Cuba, Chile, Mexico cần mở rộng hợp tác và
15
khai phá tiềm năng với nhiều đối tác khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp,
công ty tham gia vào hoạt dộng thương mại dựa trên những chiến lược, chính sách dài hạn
mang tính lan tỏa ở tầm quốc gia
b) Xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại tại các khu vực cửa khẩu biên giới;
cung cấp, cập nhật thông tin về thị trường, cơ chế, chính sách biên mậu của nước láng giềng;
hướng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính để đảm
bảo ổn định và phòng tránh được những rủi ro trong hoạt động thương mại biên giới.
c) Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại
- Đổi mới mô hình tổ chức, tăng cường hoạt động của các thương vụ, cơ quan xúc tiến
thương mại ở nước ngoài; đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại theo
hướng tập trung phát triển sản phẩm xuất khẩu mới có lợi thế cạnh tranh, không bị hạn chế
về thị trường hoặc vào các thị trường còn nhiều tiềm năng; đẩy mạnh hoạt động xây dựng và
bảo vệ thương hiệu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
- Tổ chức các cuộc tiếp xúc, xúc tiến hợp tác về các lĩnh vực đã đạt được hiệu quả trong quan
hệ thương mại song phương, đồng thời cung cấp thêm nhiều thông tin mới cho chính phủ và
doanh nghiệp hai bên thông qua những buổi gặp gỡ, tọa đàm, hội chợ thương mại , diễn đàn
hợp tác thương mại
- Tăng cường cung cấp thông tin và quảng bá về môi trường và cơ hội kinh doanh, và du lịch
tại Việt Nam đến các doanh nghiệp và người dân Mỹ Latinh, nhất là bằng tiếng Tây Ban Nha
và Bồ Đào Nha và ngược lại bằng tiếng Việt.
- Theo bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, Việt Nam và các nước Mỹ Latinh có thể hợp tác xuất bản
và tăng thời lượng giới thiệu về nhau trên các phương tiện thông tin đại chúng của mình.
Khuyến khích và hỗ trợ trao đổi các đoàn thương mại, tổ chức các hội nghị hội thảo về kinh
doanh, giới thiệu và hỗ trợ thiết lập quan hệ kinh doanh giữa các doanh nghiệp hai bên
- Để làm được điều này, không thể không nhắc đến vai trò của các doanh nghiệp trong việc
chủ động tìm hiểu, nắm bắt môi trường và cơ hội kinh doanh của nhau, xác định và tập trung
vào những lĩnh vực có tiềm năng hợp tác, tận dụng triệt để những ưu đãi thương mại, đầu tư

đã ký kết và kịp thời phản ánh những khó khăn, trở ngại để Chính phủ hai bên tìm cách tháo
gỡ.
- Đề xuất thành lập Quỹ Xúc tiến Thương mại- Đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt
động xúc tiến đầu tư thông qua việc tổ chức có khoa học và có hệ thống.
16
3. Chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu
- Tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất, nông nghiệp, xuất khẩu, công
nghiệp hỗ trợ.
- Rà soát, điều chỉnh các chính sách về thu hút đầu tư nhằm thu hút mạnh đầu tư trong nước
và ngoài nước vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu.
- Đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm bảo hiểm rủi ro cho doanh nghiệp
xuất khẩu; tạo sự thuận lợi trong việc đi vay từ các tổ chức tín dụng để tăng lượng hàng hóa
xuất khẩu, tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế.
- Điều hành chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, cân
đối hài hòa giữa yêu cầu xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu.
4. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao nhận kho vận và đẩy nhanh xã hội hóa hoạt
động dịch vụ logistics
Khoảng cách địa lý là một trong những rào cản đối với hoạt động thương mại hai chiều
giữa Việt Nam và các nước Mỹ Latinh. Giải pháp đối với vấn đề này là:
- Rà soát đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, luồng lạch, kho tàng bến bãi tại
các cảng biển và các địa điểm thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu.
- Xây dựng chính sách phát triển các dịch vụ logistics; thu hút đầu tư phát triển hạ tầng kỹ
thuật cho dịch vụ logistics và năng lực thực hiện các dịch vụ này.
5. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực
- Đổi mới hệ thống đào tạo nguồn nhân lực theo hướng: Đào tạo gắn với yêu cầu, mục tiêu
phát triển của từng ngành hàng và có chất lượng, tay nghề cao, trước hết là đối với sản xuất
hàng dệt may, da giày, đồ gỗ, sản phẩm nhựa, điện tử, cơ khí.
- Đa dạng hóa và mở rộng các hình thức hợp tác trong đào tạo nguồn nhân lực theo hướng
gắn kết giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, từng bước thực hiện đào tạo theo yêu cầu định
hướng của cộng đồng doanh nghiệp.

- Bổ sung cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng đầu tư, tham gia
vào lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực phục vụ các ngành hàng sản xuất, xuất khẩu.
6. Kiểm soát nhập khẩu
Một trong những hạn chế trong quan hệ thương mại Việt Nam- Mỹ Latinh là cán cân
thương mại luôn nghiêng về chiều bất lợi cho Việt Nam. Nhập siêu của Việt Nam từ thị
trường Mỹ Latinh năm 2011 vào khoảng 500 triệu USD và có xu hướng tăng. Điều đó cho
17
thấy cần thiết phải có các biện pháp để kiểm soát nhập siêu nhằm cải thiện cán cân thương
mại:
- Nâng cao hiệu quả đầu tư và sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam; có chính sách khuyến
khích hơn nữa việc đầu tư sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu trong nước, hạn chế đầu tư vào
khu vực phi sản xuất; đẩy mạnh đầu tư sản xuất những mặt hàng Việt Nam có lợi thế cạnh
tranh.
- Đàm phán, thỏa thuận về trao đổi thương mại cấp Chính phủ nhằm cải thiện cán cân thương
mại với các đối tác thương mại một cách hợp lý, phù hợp với nhu cầu, trình độ sản xuất trong
nước và các cam kết quốc tế.
- Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại trong nước nhằm tạo cơ hội kết nối giữa các
doanh nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên phụ liệu với các doanh nghiệp sử
dụng các loại máy móc, thiết bị và hàng hóa này; có cơ chế bổ sung việc sử dụng vật tư, hàng
hóa sản xuất trong nước trong đấu thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
- Ban hành các quy chuẩn kỹ thuật hàng hóa phù hợp với các cam kết quốc tế để kiểm soát
nhập khẩu hàng hóa kém chất lượng, ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe người dân.
- Tăng cường các biện pháp quản lý nhập khẩu phù hợp các cam kết quốc tế và các nguyên
tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
18
KẾT LUẬN
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dung. 2012. QUYẾT ĐỊNH Số: 950/QĐ-TTg: BAN HÀNH
CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG

HÓA THỜI KỲ 2011-2020, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030. Hà Nội
2. TS Bùi Xuân Lưu. 2006. Giáo trình kinh tế Ngoại thương. Hà Nội. NXB Lao động xã hội
3. Mỹ Latinh, tiềm năng và thách thức. 08/11/2012. Xem
20

×