Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

việt nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.73 KB, 55 trang )

1. Tìm hiểu chung về quan hệ kinh tế quốc tế:
1.1 Khái niệm:
Các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng kinh tế đơn thuần mà
luôn gắn liền với một hệ thống chính trị là nền tảng của nó. Về mặt thực tiễn rõ
rằng ở quốc gia nào cũng vậy, người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế
một khi lợi ích của quốc gia đó cả về kinh tế, chính trị xã hội được đảm bảo. Với
cách tiếp cận này có thể hiểu hội nhập kính tế quốc tế không chỉ là quá trình
tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được biểu hiện trong bản thân
hệ thống chính sách thương mại, chính sách phát triển kinh tế của mỗi nước.
Như vậy có thể xác định hội nhập kính tế quốc tế là việc các nước đi tìm kiếm
một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau, kể cả dành cho
nhau nhưng ưu đãi, tạo ra nhưng điều kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ
hợp tác với nhau nhằm khai thác các khả năng lẫn nhau phục vụ cho nhu cầu
phát triển kinh tế của mình.
1.2 Nguyên tắc hoạt động:
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, các điều kiện chung được quy định
đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ
ràng. Cụ thể, các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế hay khu vực nói chung đều hoạt
động theo 4 nguyên tắc cơ bản sau:
- Công bằng: các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của mình và chung
cho mọi nước (nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các công ty các nước đối
tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung); đồng thời không phân biệt
chính sách thương mại giữa các công ty: mọi chế độ chính sách liên quan đến
thương mại và đầu tư trong mỗi nước đều phải bình đẳng giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài nước, giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa.
- Tự do hoá thương mại: các nước chỉ được sử dụng thuế làm công cụ bảo hộ cho
nền sản xuất của mình, các biện pháp phi thuế quan như giấy phép, quota, hạn
ngạch xuất nhập khâu đều không được sử dụng, các biểu thuế này đều phải có
lộ trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do hoá hoàn toàn (thuế suất
bằng 0%).
- Làm ăn hay thương lượng với nhâu phải trên cơ sở có đi có lại: khi nền kinh tế


thị trường của một nước thành viên bị hàng nhập khẩu đe doạ thái quá hoạc bị
những biện pháp phận biệt đối xử gây hại, thì nước đó có quyền khước từ một
nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn cấp cần thiết, được các
nước thành viên khác thừa nhận, đề bảo vệ quyền lợi cua nền kinh tế trong nước.
- Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư.
Với các điều kiện và nguyên tắc trên, nước “đi sau” như nước ta có nhiều
thuận lợi, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng phải
chịu rất nhiều khó khăn thách thức, mà quan trọng hàng đầu là bảo hộ nền sản
xuất trong nước và các doanh nghiệp việt nam, nhất là các doanh nghiệp mới
“chân ướt chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Đây khong chỉ đơn thuần
là việc bảo hộ thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng doanh nghiệp, mà còn là vấn
đề của yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự
do hoá. Không thể có hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá kinh tế, đây là
một đặc điểm mới của xu thế toàn cầu hoá ngày nay. Vấn đề quan trọng trong
việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do
hoá như thế nào cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế để có thể phát huy
được các thế mạnh của đất nước, tận dụng được những ưu thế của hợp tác quốc
tế, tạo ra sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia, nâng cao vị thế của
mình trong phân công lao động quốc tế.
Ngoài ra còn một số nguyên tắc như: dành ưu đãi cho các nước đang và
chậm phát triển, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết…
1.3 Nội dung:
Nội dung của hội nhâp kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, thực
hiện thuận lợi hóa, tự do hóa thương mại và đầu tư:
Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan
như QUOTA, giấy phép xuất khẩu , biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và
giảm dần theo lịch trình thoả thuận
Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn

Về phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ,
thông qua liên doanh, hiện diện
Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về
tỉ lệ nội địa hóa, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ,
khuyến khích tự do hóa đầu tư…
2. Các lợi thế phát triển quan hệ kinh tế quốc tế:
2.1 Vị trí địa lý:
Nước ta nằm ở rìa phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm của
khu vực Đông Nam Á. Trên đất liền giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia; trên
biển giáp Malaixia, Brunây, Philippin, Trung Quốc, Campuchia.
- Phần trên đất liền nằm trong khung hệ tọa độ địa lí sau:
+ Điểm cực Bắc ở vĩ độ 23023’B tại xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang,
+ Điểm cực Nam ở vĩ độ 8034’B tại xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà
Mau.
+ Điểm cực Tây ở kinh độ 102009’Đ tại xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh
Điện Biên.
+ Điểm cực Đông ở kinh độ 109024’Đ tại xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa.
- Ở ngoài khơi, các đảo kéo dài tới tận khoảng vĩ độ 6050’B, và từ khoảng kinh độ
1010Đ đến trên 117020’Đ tại Biển Đông.
- Đại bộ phận nước ta nằm trọn trong khu vực múi giờ thứ 7.
Lãnh thổ VN gồm 2 bộ phận :
- Đất liền : 330991 km2, hình chữ S.
- Biển rộng gấp nhiều lần so với đất liền, thuận lợi phát triển các ngành kinh tế
biển.
- Vị trí địa lí đã quy định đặc điểm cơ bản của thiên nhiên nước ta mang tính chất
nhiệt đới ẩm gió mùa.
- Nước ta nằm ở vị trí tiếp giáp giữa lục địa và đại dương liền kề với vành đai sinh
khoáng Thái Bình Dương và địa trung hải, trên đường di lưu và di cư của nhiều

loài động thực vật nên có nhiều tài nguyên khoáng sản và tài nguyên sinh vật vô
cùng phong phú.
- Vị trí và hình thể nước ta đã tạo nên sự phân hóa đa dạng của tự nhiên thành các
vùng tự nhiên khác nhau giữa miền Bắc với miền Nam, giữa miền núi và đồng
vằng, ven biển, hải đảo.
- Việt Nam nằm trên ngã tư đường hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng, tạo
điều kiện thuận lợi cho nước ta giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
- Nước ta còn là cửa ngõ mở lối ra biển thuận lợi cho các nước Lào, Đông bắc
Thái Lan, Campuchia và khu vực Tây Nam Trung Quốc.
- Vị trí địa lí thuận lợi như vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển các
ngành kinh tế, các vùng lãnh thổ, tạo điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội
nhập với các nước trên thế giới, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
- Vị trí địa lí tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta chung sống hòa bình, hợp tác hữu
nghị và cùng phát triển với các nước, đặc biệt là với các nước láng giềng và các
nước trong khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú như: tài nguyên rừng, tài
nguyên thủy hải sản, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên du
lịch.
2.2 Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên rừng:
Rừng của Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý như: đinh, lim, sến, táu, cẩm
lai, gụ, trắc, pơ mu Tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000 loài.
Cây dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, nấm linh chi, mộc
nhĩ, mật ong Về động vật, ước tính ở Việt Nam có 1.000 loài chim, 300 loài
thú, 300 loài bò sát và ếch nhái, chưa kể các loài côn trùng. Ngoài những loài
động vật thường gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu, khỉ còn có những loài quý
hiếm như tê giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ
Rừng của Việt Nam hiện đang bị thu hẹp diện tích, nhất là rừng nguyên
sinh. Nhiều loài thực vật, động vật quý hiếm đang bị khai thác, săn bắn lén nên

gỗ và chim thú ngày càng cạn kiệt, nhiều loài thú quý đang đứng trước nguy cơ
tuyệt chủng.
Tài nguyên thuỷ hải sản:
Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn là nguồn tài
nguyên phong phú về tôm, cá trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính
riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài cua,
300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, 653 loài rong biển Nhiều loài cá thịt
ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực Có những loài thân
mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc Biển Việt Nam cũng là
tiềm năng khai thác muối phục vụ sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu.
Tài nguyên nước:
Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào.
Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ đầm, kênh
rạch, biển chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông thuỷ; thuỷ điện; cung
cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống Hệ thống suối nước nóng và
nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong phú và phân bố khá đều trong cả nước.
Tài nguyên khoáng sản:
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: than (trữ lượng dự
báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3-4 tỷ thùng và
khí đốt khoảng 50-70 tỷ mét khối); U-ra-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200-300
nghìn tấn, hàm lượng U
3
O
8
trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng gan,
titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì ); khoáng sản phi kim loại
(apatit, pyrit ).
Tài nguyên du lịch:
Việt Nam là đất nước thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình
có núi, có rừng, có sông, có biển, có đồng bằng và có cả cao nguyên. Núi non đã

tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh
thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa Pa (Lào
Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh) ;
động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), Di sản thiên nhiên thế
giới Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) ; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba
Bể (Bắc Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình - Sơn La), hồ thuỷ điện Trị An
(Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Tây Nguyên), hồ Thác Bà (Yên Bái), vịnh Hạ
Long (Quảng Ninh, đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản của thế giới),
Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), đảo Phú Quốc (Kiên Giang) Với 3.260 km bờ
biển có 125 bãi biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy
(Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An),
Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà),
Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu)
Với hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam có trên bảy nghìn di tích (trong đó
khoảng 2.500 di tích được nhà nước xếp hạng bảo vệ) lịch sử, văn hoá, dấu ấn
của quá trình dựng nước và giữ nước, như đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu Đặc
biệt quần thể di tích cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn đã được
UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Hàng nghìn đền, chùa, nhà thờ,
các công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật - văn hoá khác nằm rải rác ở
khắp các địa phương trong cả nước là những điểm tham quan du lịch đầy hấp
dẫn.
Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn
nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt
Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần
đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch
của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày
càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam.
Nguồn suối nước khoáng cũng rất phong phú như: suối khoáng Quang
Hanh (Quảng Ninh), suối khoáng Hội Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh Hảo
(Bình Thuận), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà

Bình)
2.3 Nguồn nhân lực Việt Nam:
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát
triển linh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người
… Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính
chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ
trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc
kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng
khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như
mong muốn.Theo báo cáo Tình hình Dân số Thế giới 2010 của Liên Hiệp Quốc,
dân số Việt Nam hiện là 89 triệu người và sẽ tăng lên 111,7 triệu người vào năm
2050. Việt Nam hiện đứng thứ 14 trong số những nước đông dân nhất thế giới,
có khoảng 58 triệu người trong độ tuổi lao động thực tế (từ 15 đến 64 tuổi).Hàng
năm tốc độ tăng dân số trung bình khoảng 1,5%.Việt Nam có lợi thế rất lớn khi
có nguồn nhân lực trẻ, giá nhân công rẻ(thấp hơn rất nhiều so với các nước trong
khu vực), khả năng tiếp thu trình độ khoa học kĩ thuật cao.Đồng thời người lao
động Việt Nam cũng mang nhiều phẩm chất tốt đẹp như: cần cù, khéo tay, có
nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp,…
Văn hóa ổn định khiến tỷ lệ chuyển việc ở Việt Nam thấp, chỉ 5% –
7%.Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu
người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi
dào. Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân,
trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn
nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân
lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt
nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15%
dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối
doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của giới doanh
nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu biết khai
thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng trong

phát triển kinh tế - xã hội
2.4 Những cơ sở kinh tế - xã hội khác phục vụ cho phát triển các mối quan
hệ kinh tế quốc tế:
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử.
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, khắc
phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm phát 12%
(năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc phục được nạn
thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên tục, đặc biệt là sản
xuất lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên
thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện hóa đất nước
nhằm mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý
đến việc thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể.
Tính riêng trong 5 năm (1993-1998), thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam đã tăng 2,45 lần.Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc
gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230
thị trường của các nước và vùng lãnh thổ[1], ký kết trên 90 Hiệp định thương
mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp
định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế.Việt Nam đang tích cực tham gia và
phát huy vai trò thành viên trong các tổ chức kinh tế quốc tế.Với tư cách là thành
viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC, Việt Nam đã nỗ lực
thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia các hoạt động
trong khuôn khổ các tổ chức này. Về cơ sở hạ tầng “Việt Nam đã thành công lớn
trong việc đảm bảo lợi ích từ các đầu tư vào cơ sở hạ tầng được chia sẻ trên khắp
đất nước, và các đầu tư này đã hỗ trợ cho phát triển nhanh chóng, tăng tiếp cận

đến các dịch vụ cơ bản, và giảm nghèo,” theo lời ông Klaus Rohland, Giám đốc
quốc gia của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam,hàng vạn km đường được xây
dựng và cải tạo, sản lượng điện tăng hơn 15% so với năm 2010,…
Tóm lại, những cơ sở về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực.tiềm năng
kinh tế kể trên đã tạo những điều kiện hết sức thuận lợi cho Việt Nam trên con
đường hôi nhập kinh tế quốc tế. ngày càng vươn xa hơn trên con thuyền ra biển
lớn.
Tuy nhiên chúng ta còn gặp rất nhiều khó khăn cả về tự nhiên và xà
hội.Một số khó khăn mà Việt Nam mắc phải:
Về tự nhiên:bình quân diện tích trên đầu người còn rất thấp chỉ được 0,1
ha vàtính trên lao động là 0,2 ha; khí hậu là một ưu đãi rất lớn tuy nhiên chúng ta
phải thương xuyên đố mặt với thiên tai,dịch bệnh; tài nguyên thiên nhiên rất lớn
tuy nhiên ngày càng cạn kiệt và thu hẹp
Về cơ sở hạ tầng: tuy có được nâng cấp nhưng chưa đáp ứng được nhu
cầu của xã hội
Tóm lại: Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển đất nước.Tuy nhiên
vẫn còn rất nhiều khó khan và thách thức phải đối mặt, cản trở quá trình hội
nhập.Chính vì thế cần phải có một chiến lược phát triển hợp lý nhằm khai thác
tối đa các lơii thế và hạn chế những trở ngại
3. Thực trạng hội nhập ở Việt Nam:
3.1 Quan điểm mục tiêu của đảng về hội nhập:
Ngày Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ: Hội nhập kinh tế quốc tế là
chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình đổi mới đất
nước.14\8, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình, Hà Nội diễn ra Hội nghị
toàn quốc đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 08.
Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Một số
chủ trương lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là
thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới” và Nghị quyết số 16 của Chính
phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 08.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự và phát biểu chỉ đạo hội nghị. Tham dự

hội nghị có Ủy viên Bộ Chính trị - Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh; Phó
Thủ tướng Vũ Văn Ninh - Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
Phát biểu khai mạc hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ: Hội nhập
kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình
đổi mới đất nước.
Chủ trương này ngày càng được cụ thể hóa và triển khai có hiệu quả.
Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, năm 2001, Đảng ta đã đề ra chủ
trương “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”.
Cùng năm đó, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 07 về hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ trương này tiếp tục được Đảng ta khẳng định rõ tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X năm 2006. Bằng việc thực hiện cụ thể các chủ trương về hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đẩy mạnh hợp tác song phương, đa phương, tích
cực tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế để từng bước hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Đến tháng 1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới, đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế, tạo ra những cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh hơn và toàn diện.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, nhìn lại 5 năm thực hiện Nghị quyết
08 và cũng là 5 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới cho thấy:
Chúng ta đã chuyển trọng tâm từ phá bỏ thế cô lập về kinh tế để hội nhập vào
chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu sang việc đẩy mạnh tìm kiếm thị trường, thúc
đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Trên phương diện đa phương, các cam kết trong Tổ chức Thương mại Thế
giới gần như được thực hiện đầy đủ. Ở bình diện khu vực, chúng ta cũng hội
nhập ngày càng sâu rộng với ASEAN, hướng tới hình thành Cộng đồng Kinh tế
ASEAN vào năm 2015; đồng thời tích cực tham gia đàm phán hoặc chuẩn bị
đàm phán một số hiệp định thương mại tự do quan trọng như Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định Thương mại tự do song phương với Liên

minh châu Âu, Hàn Quốc.
Thủ tướng đề nghị, trong bối cảnh này đòi hỏi chúng ta phải có đánh giá
toàn diện việc thực hiện Nghị quyết số 08 và những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra
trong Chương trình hành động của Chính phủ nhằm tìm ra các giải pháp tiếp tục
nâng cao hiệu quả của hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế
nói riêng; nhấn mạnh việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao
trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Những kết quả tại hội nghị này sẽ được tổng kết, làm cơ sở để tiếp tục
hoàn thiện Báo cáo của Ban cán sự Đảng Chính phủ đánh giá 5 năm thực hiện
Nghị quyết số 08 của Trung ương để báo cáo Bộ Chính trị./.
3.2 Chính sách của đảng và nhà nước nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập:
Thứ nhất, đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ mô hình vừa hướng
nội, thay thế nhập khẩu, vừa hướng về xuất khẩu, dựa chủ yếu vào vốn và khai
thác tài nguyên, sang mô hình hướng về xuất khẩu và hội nhập đầy đủ vào nền
kinh tế thế giới, dựa trên lợi thế so sánh và liên tục tạo ra lợi thế so sánh mới. Đó
là mô hình không phải chỉ dựa vào vốn và khai thác tài nguyên để đạt tốc độ
tăng trưởng cao mà ngày càng phải dựa nhiều hơn vào khai thác lợi thế về lao
động và tiềm năng trí tuệ.
Thứ hai, đẩy mạnh tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị
trường. Trong vài năm tới, cần xóa bỏ căn bản các cơ chế kinh tế cũ không còn
phù hợp; tiếp tục đổi mới và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhanh
chóng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, trọng tâm là cổ
phần hóa theo tinh thần Đại hội X và Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 9
(khóa IX).
Thứ ba, điều chỉnh lại định hướng cơ cấu ngành, tạo bước phát triển vượt
bậc của khu vực dịch vụ, khuyến khích phát triển mạnh các ngành công nghiệp
phụ trợ.Hai nhóm ngành cần được quan tâm ưu tiên là các ngành công nghiệp,
công nghệ cao và các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao.

Thứ tư, tập trung giải tỏa các điểm yếu, trọng tâm trước mắt là về năng
lượng điện và hạ tầng giao thông - vận tải.
Thứ năm, chú trọng phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Huy động mạnh mẽ các nguồn lực để phát triển giáo dục - đào tạo, tạo ra một cơ
cấu lao động mới, trong đó lao động có trình độ cao, có kỹ năng, biết ngoại ngữ
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Gấp rút đào tạo đội ngũ luật sư am hiểu luật pháp
quốc tế, đội ngũ chuyên gia tư vấn, kế toán, kiểm toán, quản trị doanh nghiệp đạt
trình độ quốc tế.
Thứ sáu, đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy
nhà nước, đồng thời, với việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, không
ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo với Đảng, thúc đẩy nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh nước ta là thành viên WTO,
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Sáu nhiệm vụ trên đây đang đặt ra một cách cấp bách, mặc dù việc giải
quyết không thể một sớm, một chiều.Để làm được điều đó, chúng ta cần đưa các
nhiệm vụ này vào chương trình hành động ở các cấp, trước hết là ở tầm chiến
lược quốc gia.
3.3 Nhiệm vụ của Việt Nam khi hội nhập:
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Việc nhập
khẩu các sản phẩm trung gian và thu hút đầu tư mà trong nước không thể cung
cấp với giá tương ứng, việc chuyển giao công nghệ và các ý tưởng từ những
nước phát triển hơn, và việc tiếp cận thị trường vốn và hàng hóa quốc tế có thể
giúp chúng ta giải quyết một số hạn chế cố hữu để tăng trưởng và phát triển
nhanh hơn. Nhưng đó là những lợi ích tiềm năng chỉ có thể phát huy đầy đủ tác
dụng khi trong nước chúng ta có nội lực vững mạnh với những chính sách và thể
chế bổ trợ. Kinh nghiệm của những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là phải kết hợp tốt giữa việc mở
cửa tự do hóa với việc duy trì mức tiết kiệm - đầu tư cao, ổn định kinh tế vĩ mô,
phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhà nước tốt.

Chín nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế:
 Tiến hành rộng rãi công tác tư tưởng, tuyên truyền, giải thích trong các tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân
để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập kinh tế
quốc tế, coi đó là nhu cầu vừa bức xúc, vừa cơ bản và lâu dài của nền kinh tế
nước ta, nâng cao niềm tin vào khả năng và quyết tâm của nhân dân ta chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
 Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001-2010 cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta
tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để
các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng
cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả. Trong
khi hình thành chiến lược hội nhập, cần đặc biệt quan tâm đảm bảo sự phát triển
của các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, viễn thông là những lĩnh vực
quan trọng mà ta còn yếu kém.
 Chủ động và khẩn trương trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đổi mới công nghệ
và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so
sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế
giới, tạo ra những ngành, những sản phẩm mũi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của
ta chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, đáp
ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tiến trình điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản
phẩm, từng dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương để có biện pháp thiết
thực nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh. Gắn quá trình
thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba khóa IX về tiếp tục, sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước với quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập cần quan tâm tranh thủ những tiến bộ mới của

khoa học, công nghệ; không nhập khẩu những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm
môi trường.
Đi đôi với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ
của các doanh nghiệp, cần ra sức cải thiện môi trường kinh doanh, khả năng
cạnh tranh quốc gia thông qua việc khẩn trương đổi mới và xây dựng đồng bộ hệ
thống pháp luật phù hợp với đường lối của Đảng, với thông lệ quốc tế, phát triển
mạnh kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng
bộ máy nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững mạnh về chuyên môn.
 Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các
loại hình thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học - công nghệ, vốn, bất
động sản ; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành
phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước đối với
nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.
 Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực , vững vàng về
chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức
trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh
thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung
nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh hiểu biết
sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những
chuyển biến trên thương trường quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm được kỹ năng
thương thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó, cần hết sức coi trọng
việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao.
Cùng với việc đào tạo nguồn nhân lực, cần có chính sách thu hút, bảo vệ
và sử dụng nhân tài; bố trí, sử dụng cán bộ đúng với ngành nghề được đào tạo và
với sở trường năng lực từng người.
 Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại . Cũng như
trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hóa,
đa dạng hóa thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế. Các

hoạt động đối ngoại song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục
vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế.Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế
bình đẳng, công bằng, cùng có lợi, bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển
và chậm phát triển.
Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục vụ công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu.
 Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc
phòngngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá
trình thực hiện, nhằm làm cho hội nhập không ảnh hưởng tiêu cực tới nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia và an toàn xã hội; mặt khác, các cơ quan quốc phòng và
an ninh cần có kế hoạch chủ động hỗ trợ tạo môi trường thuận lợi cho quá trình
hội nhập.
 Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) theo các phương án và lộ trình hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh của nước
ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi
cơ chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với quá trình đổi mới mọi mặt hoạt
động kinh tế ở trong nước.
 Kiện toàn ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền
giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế
quốc tế. ủy ban gồm hai bộ phận: một bộ phận chuyên trách, một bộ phận kiêm
nhiệm bao gồm đại diện có thẩm quyền của các Bộ, Ban, ngành hữu quan.
Bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ trên, chúng ta cũng cần tiến hành
các biện pháp bổ trợ sau đây nhằm tạo khả năng tốt nhất cho việc thực hiện các
cam kết hội nhập của ta và bảo đảm quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thực sự
đưa lại kết quả tích cực đối với sự phát triển của đất nước
Một là: tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế
của Nhà nước
Đổi mới bên trong và hội nhập là hai quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau,
hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau.Đổi mới bên trong tạo tiền đề và điều kiện thúc đẩy

hội nhập kinh tế quốc tế.Ngược lại, hội nhập một mặt đặt ra yêu cầu phải đẩy
mạnh đổi mới, cải cách bên trong, mặt khác cũng tạo điều kiện thuận lợi thúc
đẩy quá trình đổi mới đó. Để hội nhập đạt được kết quả tích
Hai là: cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Về lâu dài, đầu tư và tích tụ vốn có ý nghĩa quyết định đối với đối với sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đối với một nước có trình độ phát triển thấp,
đầu tư tư nhân còn yếu và cơ cấu sản xuất chưa phát triển đa dạng như Việt
Nam, theo kinh nghiệm quốc tế, mức đầu tư trong nước phải cao hơn mức tích
lũy nội bộ 25% GDP của ta hiện nay. Mở cửa hội nhập có tác động thúc đẩy đầu
tư, nhưng một mình nó không quyết định được mức đầu tư và tích tụ vốn. Do đó,
cần phải bổ trợ cho định hướng hội nhập bằng một chiến lược đầu tư đồng bộ
trong nước nhằm làm tăng hiệu suất đầu tư cho các doanh nghiệp, khơi dậy và
phát huy ý thức tự chủ kinh doanh của họ. Các chính sách khuyến khích đầu tư
cần ưu tiên cho việc xóa bỏ các biện pháp, chính sách có tác động làm tăng giá
các tư liệu sản xuất, trong đó có các biện pháp hạn chế thương mại; tăng các biện
pháp trợ cấp cho đầu tư sản xuất được áp dụng theo nguyên tắc không phân biệt
đối xử; đơn giản hóa chế độ khuyến khích đầu tư theo hướng làm rõ các mục
tiêu, công khai hóa và giảm bớt thủ tục hành chính; chú ý hơn đến đầu tư sản
xuất các ngành hàng phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; đa dạng
hóa cơ cấu nền kinh tế; đầu tư nhà nước vào cơ sở hạ tầng, thủy lợi, cảng và các
ngành sản xuất tư liệu sản xuất có tác dụng khuyến khích đầu tư tư nhân phát
triển; kết hợp tốt giữa các biện pháp tăng cường xuất khẩu với thay thế nhập
khẩu ở một số lĩnh vực nhất địn
Ba là : đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng
cao tính chủ động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất
quan trọng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao
khả năng cạnh tranh hội nhập của bản thân các doanh nghiệp nhà nước. Điều này
thể hiện ở các mặt sau:
- Chúng ta không thể hội nhập thực sự nếu cứ duy trì mãi cơ chế quản lý hành

chính, bao cấp đối với các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, vì như vậy
là vi phạm "luật chơi chung" quy định là không phân biệt đối xử, nhất là đối với
những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, đối xử công bằng và bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế, và các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo
nguyên tắc hạch toán kinh doanh.
- Doanh nghiệp nhà nước cũng không thể hội nhập được nếu không được tự chủ
hạch toán kinh doanh và kinh doanh không có hiệu quả, bởi vì hiện nay trong số
5.429 doanh nghiệp nhà nước, tuy 71,1% báo cáo có lãi nhưng chỉ có 40% là có
hiệu quả nếu tính thêm các yếu tố như thời gian kéo dài, lượng lỗ lãi, tỷ lệ khấu
hao.
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng khó có điều kiện để vươn lên dù làm
ăn có hiệu quả vì bị phân biệt đối xử, đặc biệt trong vấn đề tiếp cận các nguồn
vốn, vay tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh
Bốn là: giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của người
lao động
Hội nhập là mở cửa tham gia vào quá trình toàn cầu hóa - cũng có nghĩa là
quá trình cạnh tranh và phân công lao động quốc tế. Việc phá sản hoặc thu hẹp
sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô sử dụng lao động của một bộ phận doanh
nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực, ngành nào đó kéo theo sự mất việc của một
bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp đó là không thể tránh khỏi. Tuy
nhiên, bên cạnh việc có thể một hoặc một số ngành, nghề bị mất hoặc teo đi, sẽ
có những ngành, nghề mới ra đời hoặc được tập trung phát triển hơn, thu hút lao
động làm việc nhiều hơn trong các doanh nghiệp thuộc khu vực ngành, nghề
này. Như vậy, trong xã hội ở những thời điểm nhất định có thể sẽ có tình trạng
một bộ phận người lao động mất việc và phải tìm việc làm mới. Nhà nước cần
chủ động có chính sách và biện pháp thích hợp giải quyết vấn đề này, tránh để
nó trở thành một vấn đề có thể gây bùng nổ xã hội bằng việc hỗ trợ cho sự hình
thành mạng lưới an sinh xã hội nhằm giải quyết các nhu cầu của những người
không có khả năng tự lo cho mình và có các chương trình đầu tư xã hội để giúp
mọi người được đào tạo những kỹ năng cần phải có trong một nền kinh tế hiện

đại. Nhà nước cần sử dụng vai trò điều tiết phân phối lại thu nhập xã hội để hỗ
trợ những người bị thất nghiệp (Qũy bảo hiểm xã hội, Qũy hỗ trợ thất nghiệp )
và có chính sách tái đào tạo nghề nghiệp giúp người lao động bị mất việc có thể
chuyển sang nghề khác.
4. Tiến trình hội nhập ở Việt Nam:
Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Với cương vị là Trưởng ban Ban tổ
chức Hội thảo quốc tế về Việt Nam
học lần thứ IV, GS.TS có đánh giá
như thế nào về chủ đề của Hội thảo
lần này?
Chủ đề của Hội thảo lần thứ IV
được dựa trên sự tiếp tục của 3 kỳ
Hội thảo trước đó. Đã 14 năm trôi
qua kể từ ngày Hội thảo quốc tế Việt
Nam học lần thứ nhất được tổ chức
tại thủ đô Hà Nội vào năm 1998. Cho
đến nay, thực tế đã cho thấy các cuộc
Hội thảo quốc tế về Việt Nam học có
ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc tác động vào việc hình thành và
phát triển mạng lưới quốc tế các nhà
Việt Nam học trên thế giới nhằm
nghiên cứu và giới thiệu về đất nước,
con người, văn hóa, lịch sử và những
thành tựu mà Việt Nam đạt được
trong những thập niên vừa qua cũng
như những vấn đề mới đặt ra trong
quá trình vận động và phát triển. Với
chủ đề: Việt Nam trên con đường hội

nhập và phát triển bền vững, Hội thảo
đã nhận diện và xác định mục tiêu
phát triển bền vững đối với Việt Nam
trong giai đoạn tới rất quan trọng.
Ngày hôm nay, chúng ta đã nhìn thấy
sự tàn phá ghê gớm của thiên tai đối
với môi trường, các vấn đề liên quan
đến xã hội, kinh tế, văn hóa… đang
đặt ra nhiều vấn đề gay gắt cần được
đầu tư nghiên cứu. Trong chiến lược
phát triển của Việt Nam từ nay đến
năm 2020, Đảng và Nhà nước ta cũng
đặc biệt chú trọng đến mục tiêu phát
triển nhanh và bền vững, đổi mới các
mô hình tăng trưởng dựa trên những
chiến lược xanh và mở rộng các quan
hệ hợp tác quốc tế… Vì vậy chủ đề
mà Hội thảo đặt ra có ý nghĩa xã hội
quan trọng, buộc chúng ta phải bàn
đến để nhận diện những cơ hội và
thách thức cần phải đối mặt trong giai
đoạn hiện nay.
Ban Tổ chức cho biết hiện nay
công tác chuẩn bị Hội thảo đã đạt
được những kết quả cơ bản như
thế nào?(PGS.TS. Trần Thị An –
Trưởng ban Ban Thư ký Hội thảo trả
lời)
Cho đến sáng hôm nay, Ban Tổ
chức đã nhận được 1300 đăng ký,

con số này đã vượt qua con số dự
kiến của Ban Tổ chức. Ngày
28/6/2012 họp Ban chỉ đạo Hội thảo,
lượng đăng ký mà chúng tôi nhận
được cũng còn rất hạn chế, nhưng
đến khoảng những ngày từ 27-
30/7/2012 thì mỗi ngày Ban Thư ký
nhận được khoảng 200-300 email
đăng ký của các đại biểu. Điều này đã
làm cho email của Hội thảo bị quá
tải, nhiều lúc không gửi và nhận
email được, khiến cho công việc của
Ban Thư ký gặp rất nhiều khó khăn,
vất vả, công việc dồn dập tạo ra nhiều
áp lực. Tuy vậy, cho đến nay, mọi
việc chuẩn bị đều được diễn ra rất tốt
đẹp. Dự kiến khoảng giữa tháng 10,
chúng tôi sẽ tập hợp khoảng 500 tóm
tắt và cho ra mắt kỷ yếu tóm tắt của
Hội thảo, nhằm quảng bá những
thành tựu nghiên cứu về đất nước,
con người Việt Nam đã thực hiện đến
đông đảo bạn đọc. Ban Tổ chức Hội
thảo cũng dự kiến tổ chức các buổi đi
tham quan các bảo tàng, Hoàng
Thành Thăng Long và nghe hát Ca
trù cho các đại biểu tham dự Hội
thảo, công tác lựa chọn quà tặng cũng
đang được khẩn trương tiến hành.
Chúng tôi hy vọng, thông qua Hội

thảo lần này, Việt Nam trên con
đường hội nhập và phát triển sẽ trở
thành mảng nghiên cứu hấp dẫn đối
với đông đảo các nhà nghiên cứu, các
học giả trong và ngoài nước.
Ban tổ chức có đánh giá như thế
nào về việc tham gia của các nhà
nghiên cứu trẻ trong nước nói
chung đặc biệt là lực lượng nghiên
cứu viên trẻ của Viện Khoa học xã
hội Việt Nam nói riêng tại diễn đàn
của Hội thảo?(PGS.TS.Trần Đức
Cường - Ủy viên Ban chỉ đạo Hội
thảo trả lời)
Hội thảo Việt Nam học lần thứ IV
là một Hội thảo mở, chúng tôi không
hạn chế bất cứ một điều kiện gì về
tiêu chí tham dự Hội thảo. Điều đáng
mừng là trong số các đăng ký nhận
được năm nay, chúng tôi có nhiều bài
viết đăng ký của các thạc sĩ, thậm chí
là của học viên cao học trong và
ngoài Viện Khoa học xã hội Việt
Nam tham gia. Và trong đó, có khá
nhiều tham luận được lựa chọn vì các
hướng đề tài và phương pháp tiếp cận
khoa học rất tốt. Chúng tôi vui mừng
tin tưởng và hy vọng rằng, đây là lực
lượng mới, kế cận, giàu tiềm năng và
sáng tạo trong nghiên cứu khoa học,

là lực lượng trẻ giàu tri thức để tiếp
sức cho hoạt động nghiên cứu của
chúng ta ngày càng phát triển vững
mạnh hơn.
Xin trân trọng cảm ơn và chúc Hội
thảo thành công tốt đẹp.
Theo website Viện Khoa học xã
hội Việt Nam.
/>ewsfolder.2008-11-
21.3438986889/mlnews.2012-09-
11.1624214181/view
Tiến trình hội nhâp ở Việt Nam
Các tô chức Việt Nam hội nhập:
1. 20/9/1977: Liên Hợp Quốc
2. 1994: ARF - Diễn đàn khu vực ASEAN
3. 28/7/1995: ASEAN - Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á.và chính
thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN(AFTA) từ 1/1/1996.
4. 1-2/3/1996: ASEM - Diễnđàn hợp tác Á–Âu, tham gia sáng lập.
5. 11/1997: APEC - Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á–Thái Bình Dương.
6. 1997: Hội nghị cấp cao ASEAN+3. Tới 2005 chuyển thành Hội nghị
Thượng đỉnh Đông Á.
7. 11/1/2007: WTO (chính thức là thành viên, ký quyết định gia nhập
7/11/2006).
Việt Nam đã phát huy vai trò thành viên trong các tổ chức
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC,
Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham
gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể như sau:
 Trong khuôn khổ WTO:

×