Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp đề tài tìm hiểu truyền hình cáp catv tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
KHOA ĐIỆN TỬ- VIỄN THÔNG
BÁO CÁO
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
KHOA : Điện Tử- Viễn Thông
ĐỀ TÀI :
TÌM HIỂU TRUYỀN HÌNH CÁP CATV TẠI VIỆT NAM
GVHD: ThS.Trần Trọng Thắng
Sinh Viên: Nguyễn Văn Toan
Lớp: D6- ĐTVT
HÀ NỘI
Ngày 10, tháng 6, năm 2014
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Ngày… ,tháng… ,năm 2014
Giao viên hướng dẫn
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………… 3
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TRUYỀN HÌNH CÁP……………………… 5
1.1.Lịch sử ra đời và phát triển….…………………………………………… 5
1.2.Khái quát công nghệ truyền hình cáp CATV…………………………… 7
1.2.1.Truyền hình tương tự……………………………………………………7
1.2.2.Truyền hình cáp………………………………………………………….8
1.2.3.Hệ thống thiết bị trung tâm…………………………………………… 8
1.2.4.Mạng phân phối tín hiệu truyền hình cáp…………………………… 9
Chương 2: CẤU TRÚC MẠNG CATV……………………………………… 9
2.1.Các thông số kỹ thuật chính của CATV……………………………… 9
2.2.Cấu trúc mạng CATV truyền thống (mạng cáp toàn đồng trục)……11
2.3.Ưu ,nhược điểm của truyền hình cápCATV…………………………13
Chương 3:KIẾN TRÚC MẠNG HFC……………………………………… 18
3.1.Kiến trúc mạng HFC……………………………………………………18
3.2.Các đặc trưng cơ bản của mạng HFC…………………………………19
3.3.Ưu và nhược điểm của mạng HFC…………………………………….25
Chương 4: CÁC THÀNH PHẦN CỦA HỆ THỐNG MẠNG CATV-HFC

4.1. Cáp sợi quang………………………………………………………… 26
4.1.1.Cấu tạo……………………………………………………………… 26
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[2]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
4.1.2.Các đặc tính của sợi quang………………………………………….26
4.2.Cáp đồng trục…………………………………………………………….27
4.2.1.Cấu tạo……………………………………………………………… 27
4.2.2. Các thông số cơ bản của cáp đồng trục…………………………….27
4.3.Các bộ khuếch đại RF……………………………………………………30
4.3.1.Đặc điểm của các bộ khuếch đại …………………………………….30
4.3.2.Bộ chia và rẽ tiến hiệu……………………………………………… 33
Chương 5: TRUYỀN HÌNH CÁP HÀ NỘI…………………………………34
5.1.Truyền hình cáp HÀ NỘI (HCTV)…………………………………….34
5.2.Một số yêu cầu cho các thiết bị………………………………… 36
5.3.Các thiết bị thường gặp trong quá trình thực tập…………………… 41
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….49
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….50
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đều biết công nghệ truyền thanh, truyền hình đã ra đời từ rất lâu
đời.Nó đã cung cấp nhiều thông tin thiết thực cho cuộc sóng nhân dân.
Truyền hình là cơ quan thông tin, ngôn luận của quần chúng.Công nghệ truyền
hình ra đời đã góp phần đem lại nhiều thông tin bổ ích, cần thiết cho xã hội về
mặt văn hóa cũng như kinh tế.Ngoài ra truyền hình còn đem lại nhiều chương
trình phong phú và hấp dẫn người xem.
Trước nay, truyền hình chỉ phục vụ khán giả trong không gian hạn hẹp và thời
gian phát sóng có hạn với thời lượng phát sóng rất ít. Dần dần về sau, trước
những đòi hỏi ngày càng nhiều về thông tin kinh tế, khoa học kỹ thuật và giải trí,
các đài truyền hình đã tăng cường lượng thời gian phát sóng và mở rộng vùng
phủ sóng để phục vụ khán giả hâm mộ nhiều hơn, nhưng các đài truyền hình

trong nước chỉ phát sóng được một vài kênh truyền hình tổng hợp ít ỏi cho nên
không thể thỏa mãn được nhu cầu về truyền hình của đông đảo khán giả, mặt
khác việc thu sóng truyền hình tại các vùng lõm, các chung cư và cao ốc thường
rất khó khăn vì cao ốc đã trở thành vật cản sóng truyền hình đối với các căn hộ
bên trong cao ốc đó, tín hiệu thu được thường rất xấu gây bóng và nhiễu.
Bước sang thế kỉ 21, đòi hỏi của người xem không những các chương trình
truyền hình quảng bá mà còn có nhu cầu được thông tin tức thời (ngay lập tức)
các diễn biến, biến cố xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi trên thế giới, kể cả những đòi hỏi
được học tập, giải trí giao dich mua sắm ngay trên thiết bị truyền hình của mình.
Ngoài ra, trong từng khán giả còn có những nhu cầu khác nhau, thời gian khác
nhau và yêu cầu được đáp ứng các nhu cầu riêng lẻ. Hiện nay chỉ có truyền hình
cáp là có thể thỏa mãn được nhu cầu như trên.
Khả năng của truyền hình cáp, nhất là truyền hình cáp hữu tuyến HFC
(Hybrid-Fiber-Coaxial Cable) là hệ thống truyền hình mà tín hiệu truyền hình
được truyền dẫn bằng cáp đến từng hộ thuê bao. Càng ngày có nhiều nhu cầu về
công nghệ truyền hình như: Có những khán giả thì thích xem phim, ca nhạc,
khám phá thế giới…Nhưng các đài truyền hình trong nước chỉ phát sóng được
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[3]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
một vài kênh truyền hình tổng hợp ít ỏi, cho nên không thể thỏa mãi được nhu
cầu về truyền hình của đông đảo khán giả.
Chính vì vậy, trước tình hình này, với những đòi hỏi như trên, đã thôi thúc
nhiều công nghệ, dịch vụ truyền hình ra đời với nhiều chủng loại khác nhau,
nhiều phương pháp khác nhau. Cung cấp ngày càng nhiều chương trình hấp dẫn
và phong phú nhằm phục vụ cho mọi nhu cầu đòi hỏi của các tầng lớp khán giả.
Ngày nay, nói đến công nghệ truyền hình là nói đến những đòi hỏi về khả năng
cung cấp chương trình, vùng phủ sóng rộng; chất lượng âm thanh hình ảnh
cao.Điều quan trọng là giá thành phục vụ và chi phí lắp đặt thấp.
Hiện nay trên thế giới hoặc một số thành phố trong nước ta như thủ đô Hà

Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nha Trang, thành phố Cần
Thơ…đã sử dụng phương thức truyền hình cáp (CATV). Đồng thời những năm
gần đây do đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội nên đời sống của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện nhiều, các dịch
vụ thông tin, dịch vụ truyền hình và dịch vụ giải trí cũng đòi hỏi ngày càng cao.
Đây thực sự là động lực thúc đẩy sự ra đời của hệ thống truyền hình cáp, nhằm
đáp ứng nhu cầu thích đáng của nhân dân cũng như các nhà đầu tư và du khách.
Trong thời gian thực hiện báo cáo, em đã có thời gian thực tế tìm hiểu và nghiên
cứu quá trình lắp đặt truyền hình cáp tại một số khu vực tại thủ đô Hà Nội.Với
những hiểu biết còn hết sức là hạn chế em đã cố gắng để hoàn thành bài báo cáo
với đề tài :’’ Tìm Hiểu Truyền Hình Cáp CATV Tại Việt Nam’’.Nhân đây em
cũng xin gửi lời cảm ơn đến thầy Trần Trọng Thắng cùng toàn thể cán bộ công
nhân viên Cty CP dịch vụ truyền thanh – truyền hình Hà Nội, đã tận tình giúp đỡ,
chỉ bảo và hướng dẫn em rất nhiều điều bổ ích để em có thể hoàn thành tốt quá
trình thực tập của mình cũng như hoàn thành tốt bản báo cáo này , em xin chân
thành cảm ơn!
Chương 1 : TỔNG QUAN VỀ TRUYỀN HÌNH CÁP
1.1.Lịch sử ra đời và phát triển.
Hệ thống truyền hình cáp (CATV) xuất hiện vào những năm cuối của thập niên
40.Thuật ngữ CATV xuất hiện đầu tiên vào năm 1948 tại Mỹ khi thực hiện thành
công hệ thống truyền hình cáp hữu tuyến (Cable Television). Một năm sau, cũng
tại Mỹ hệ thống truyền hình anten chung (CATV – Community Antena
Television) cung cấp dịch vụ thuê bao bằng đường truyền vô tuyến đã được lắp
đặt thành công. Từ đó, thuật ngữ CATV được dùng để chỉ chung cho các hệ
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[4]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
thống truyền hình cáp vô tuyến và hữu tuyến. Mục tiêu ban đầu của truyền hình
cáp là phân phát các chương trình quảng bá tới những khu vực do các điều kiện
khó khăn về địa hình mà không thể thu được bằng các anten thông thường, gọi là

vùng lõm sóng.
Một hệ thống cáp đơn giản nối những tín hiệu truyền hình thu được từ anten
tới những thuê bao được tạo ra bởi cáp đồng trục và những bộ khuếch đại băng
rộng. Tầng khuếch đại cáp rất dễ bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ, sự điều chỉnh liên
tục của nhân viên kỹ thuật thì cần thiết đảm bảo bảo độ lợi và đáp ứng tần số. Sự
suy giảm cáp ban đầu chỉ có thể mang từ kênh 2 đến kênh 6, và hệ thống này gọi
là hệ thống năm kênh. Những trạm truyền hình nhận tín hiệu ở tần số siêu cao
(UHF) hoặc trên kênh 7 đến 13 và sau đó tại thiết bị đầu cuối nó được biến đổi
thành những kênh trong băng tần từ 2 đến 6. Tại thời điểm đó, vào đầu những
năm 1950, năm kênh đã là nhiều và những người thuê bao phải chịu đựng nhiều
sự lỗi thời và những vấn đền kỹ thuật của hệ thống hơn chúng ta ngày nay.
Khi mà dây cáp trở nên khan hiếm và có thêm nhiều hệ thống được xây dựng,
những nhà sản xuất đã đáp lại bằng việc cải thiện lại bộ khuếch đại và dây
cáp.Cáp với vỏ bọc bằng nhôm bên trong được đổ đầy bột polyethelence và dây
dẫn nhôm phủ đồng ở giữa, sớm trở thành tiêu chuẩn công nghiệp. Trong suốt
những năm 60 và 70 kiểu dây cáp này có hai loại kích cỡ chính: loại có đường
kính ngoài 0,412 inch và 0,5 inch. Cáp 0,412 inch được sử dụng làm dây fiđơ và
loại 0,5 inch được sử dụng cho những mục đích trung chuyển.
Bên cạnh đó, việc thiết kế hệ thống cũng được cải thiện, thay vì nối những
thuê bao tới một hệ thống khuếch đại cáp đơn thì một sơ đồ vận chuyển tín hiệu
theo dạng hệ thống trunk-fiđơ được phát triển. Tại đây hệ thống cáp chính (trunk)
cho những tín hiệu truyền hình từ thiết bị đầu cuối tới những đầu của hệ thống,
mà những đầu này biến đổi theo khoảng cách và số lượng những đường chia hệ
thống. Những cáp dẫn (fiđơ) nối tới thuê bao được bắt đầu ra từ hệ thống đường
chia cáp chính tại những bộ khuếch đại trung chuyển (trunk amplifier), do vậy nó
cung cấp sự cách ly hệ thống thuê bao với hệ thống cáp chính, Với sự phát triển
của transistor, những bộ khuếch đạu cáp sớm được cải thiện về hiệu suất và tiêu
hao công suất thấp.
Khi hệ thống phát triển hơn thì bộ nối định hướng và bộ chia tín hiệu được cải
thiện, điều này làm xuất hiện thiết bị nối ra nhiều đường thuê bao. Những thiết bị

nối ra này ban đầu chỉ có 2 hoặc 4 cổng thuê bao. Ngày nay thiết bị nối ra có 8
công là thông dụng, đặc biệt là ở những vùng dân cư đông đúc.
Năm 1980 vào thời gian đầu các chương trình giải trí trở nên sẵn có
thông qua các kênh vệ tinh. Các chương trình này đầu tiên được chuyển đổi sang
hệ NTSC để điều chế một số kênh sóng mang hướng lên vệ tinh và hệ thống phát
của vệ tinh chuyển tới trạm anten thu mặt đất của một hệ thống truyền hình cáp
địa phương. Hệ thống thu tại thời điểm này dùng những anten lớn (10m) bởi vì
những bộ khuêch đại anten vi sóng có nhiễu và độ lợi bị hạn chế. Suốt những
năm 1980 đã cải thiện được những bộ khuếch đại anten thu nhiễu thấp hay những
bộ khuếch đại nhiễu thấp (LNAs) có kích thước nhỏ và chi phí thấp. Những
anten thu parabol được xuất hiện nhiều trong thời điểm này. Sự ra đời của những
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[5]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
bộ chuyển đổi nhiễu thấp (LNBC) sau những năm 1980 thì chất lượng được cải
thiện và giá thành thấp.LNBC về bản chất là bộ khuếch đại nhiễu thấp được lắp
trên anten. Tín hiệu tần số 4000 MHz (4 GHz) thấp hơn bao gồm 24 kênh
chương trình được chuyển đổi thành 24 kênh trong băng tần, ví dụ như từ 950
đến 1450 MHz. Vì thê cáp từ anten xuống bộ thu có suy hao thấp hơn tại 950 đến
1450 MHz so với tại 3.7 đến 4.2 GHz.
Bởi vì những kênh truyền hình vệ tinh là các kênh xem phải trả tiền nên một vài
cách thức của việc chia tín hiệu tại đường nối ra tới thuê bao rất cần thiết để ngăn
tín hiệu tới các thuê bao không muốn trả tiền cho dịch vụ. Một mạch gồm các
điện trở, tụ điện và cuộn dây được làm theo dạng ống như một bộ lọc bẫy và
được cài đặt trong một hộp bằng kim loại. Bộ lọc này có ý nghĩa loại bỏ các kênh
không mong muốn từ nhà của thuê bao và nó được gọi là bộ bẫy tín hiệu kiểu
Negative.
Các chương trình vệ tinh xuất hiện ngày càng nhiều, vì vậy những hệ thống
vệ tinh nhiều hơn 24 kênh được dùng , điều này làm cho những nhà khai thách hệ
thống truyền hình cáp đặt kế hoạch tăng dung lượng kênh lên. Dĩ nhiên, loại cáp

chất lượng tốt nhất và những bộ khuếch đại được cải thiện, những hệ thống mới
được thiết kế tới 30 kênh (55 đến 270 MHz), 35 kênh (55 đến 300Mhz) , 40 kênh
(55 đến 450 MHz), 52 kênh (55 đến 400 MHz), 62 kênh (55 đến 450 MHz), cho
đến 78 kênh (55 đến 550 MHz).
Theo thời gian cùng với sự phát triển của công nghệ điện tử-viễn thông
truyền hình cáp đã phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới vỡi hàng trăm triệu thuê
bao. Phát triển nhất là Mỹ, Châu Âu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại
Châu Á, từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Singapore, Thái
Lan, và ngay cả Băngladesh, Campuchia cũng phát triển mạnh mẽ loại truyền
hình cáp.
Tại Việt Nam chúng ta đã có công ty truyền hình cáp Hà nội và Thành phố
Hồ Chí Minh từ hơn 5 năm nay và cũng đã có số lượng thuê bao lớn và phát triển
mạnh mẽ. Trong năm 2002 đã có thêm các công ty truyền hình cáp Đã Nẵng,
Nha Trang, Quy Nhơn, Nghệ An do liên doanh giữa các đài truyền hình và các
công ty đầu tư truyền hình cáp đang phát triển tốt.
Như vậy, truyền hình cáp được hiểu một cách đơn giản là hệ thống truyền hình
mà tín hiệu được truyền đến từng điểm bằng cáp có thể là cáp đồng trục, cáp
quang. Nội dung chương trình hết sức phong phú vì phát được nhiều kênh: tin
tức, thể thao, giải trí, phim ảnh, giáo dục, và phát các kênh của các đài truyền
hình địa phương, trung ương…Đồng thời khắc phục các nhược điểm của truyền
hình bằng sóng vô tuyến như: không thu được sóng tại các điểm khuất, chất
lượng thu sóng không đồng đều, tại các điểm thu không còn các trụ anten tua tủa
lên trời nữa.
1.2.Khái quát công nghệ truyền hình cáp CATV.
Hiện nay, ở Việt Nam các đài truyền hình và một số nhà cung cấp dịch vụ đã đưa
ra các dịch vụ truyền hình tương tự, truyền hình kỹ thuật số, truyền hình cáp…
Sau đây là cách nhìn tổng quan về các dịch vụ truyền hình.
1.2.1.Truyền hình tương tự.
Là công nghệ truyền hình phổ biến nhất và hiện được sử dụng rộng rãi trước đây.
SVTH : Nguyễn Văn Toan

[6]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
Gọi là truyền hình tương tự vì các trạm thu phát đều là thiết bị tương tự, tín hiệu
thu phát cũng là tín hiệu tương tự. Tín hiệu được truyền dẫn trong không gian
thông qua trạm anten phát, vệ tinh mặt đất hoặc lên vệ tinh địa tĩnh rồi phát
xuống trở lại. Thiết bị đầu cuối để thu được có thể là anten.
• Đặc điểm: Chất lượng hình ảnh và âm thanh không cao, phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: chất lượng của thiết bị đầu cuối, yếu tố thời tiết (nắng,
mưa…). Và đặc biệt là chi phí rất rẻ do chỉ cần có anten thu và tivi có thể
xem được vài chương trình.
1.2.2.Truyền hình cáp.
Hiện nay cả nước đã có nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ trả tiền bằng nhiều loại
hình thức công nghệ khác nhau gồm truyền hình cáp CATV, MMDS, DTH,
truyền hình số mặt đất.
CATV là dịch vụ phân phối kênh truyền hình của các nhà khai thác cáp tới
các thuê bao qua hệ thống cáp quang hay cáp đồng trục. CÁc nhà cung cấp dịch
vụ CATV ở Việt Nam đang dùng công nghệ tương tự để cung cấp các chương
trình truyền hình trả tiền chủ yếu là qua đường cáp đồng trục.
Là công nghệ truyền dẫn vô tuyến thông qua cáp, cáp được sử dụng ở đây có
thể là cáp quang hay cáp đồng trục. Đồng thời tín hiệu truyền dẫn là tín hiệu kỹ
thuật số, do đó ở đầu cuối cần có bộ thu và giải mã. Thường tín hiệu thu tại đầu
thuê bao lớn hơn tín hiệu truyền từ vệ tinh và tương đối ổn định, nhưng do truyền
trong môi trường đồng nhất (trong lõi cáp), nên cũng chịu những sóng phản xạ
tương đối mạnh do hiện tượng không phối hợp trở kháng hoàn toàn.
Hình 1: Sơ đồ tổng quát của truyền hình cáp
• Đặc điểm: Băng thông lớn, chất lượng tín hiệu rất tốt, chất lượng còn tùy
thuộc vào từng loại cáp để truyền tín hiệu (trên đường truyền bị suy hao).
Ngoài ra có thể tận dụng đường truyền cho các mục đích truyền dữ liệu,
Internet…Hiện nay truyền hình cáp có 2 loại: Truyền tín hiệu bằng dây
dẫn, truyền hình cáp hữu tuyến (CATV) và loại truyền vô tuyến.

Nhược điểm: lại phụ thuộc rất lớn vào mạng truyền dẫn, nếu mạng truyền dẫn
không tốt thì chất lượng các chương trình cũng bị xấu đi
1.2.3.Hệ thống thiết bị trung tâm.
Hệ thống thiết bị trung tâm (Headend System) là nơi cung cấp, quản lý chương
trình hệ thống mạng truyền hình cáp. Đây cũng chính là nơi thu thập các thông
tin quan sát trạng thái kiểm tra hoạt động mạng và cung cấp các tín hiệu điều
khiển.
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[7]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
Với các hệ thống mạng hiện đại có khả năng cung cấp các dịch vụ truyền
tương tác, truyền số liệu, hệ thống thiết bị trung tâm còn có thêm các nhiệm vụ
như: mã hóa tín hiệu quản lý truy nhập, tính cước truy nhập, giao tiếp với các
mạng viễn thông như internet…
1.2.4.Mạng phân phối tín hiệu truyền hình cáp.
Mạng phân phối tín hiệu truyền hình cáp là môi trường truyền dẫn tín hiệu từ
trung tâm mạng đến các thuê bao. Tùy theo đặc trưng của mỗi hệ thống truyền
hình cáp, môi trường truyền dẫn tín hiệu thay đổi: với hệ thống truyền hình cáp
như MMDS môi trường truyền dẫn tín hiệu sẽ là sóng vô tuyến. Ngược lại, đối
với hệ thống truyền hình cáp hữu tuyến (Cable TV) môi trường truyền dẫn sẽ là
các hệ thống cáp hữu tuyến (cáp quang, cáp đồng trục, cáp đồng xoắn…). Mạng
phân phối tín hiệu truyền hình cáp hữu tuyến có nhiệm vụ nhận tín hiệu phát ra
từ các thiết bị trung tâm, điều chế, khếch đại và truyền vào mạng cáp.Các thiết bị
khác trong mạng có nhiệm vụ khếch đại, cấp nguồn và phân phối tín hiệu hình
đến tận thiết bị thuê bao.Hệ thống mạng phân phối tín hiệu truyền hình cáp là bộ
phận quyết định đến đối tượng dịch vụ, khoảng cách phục vụ, số lượng thuê bao
và khả năng mở rộng cung cấp mạng.
Chương 2 : CẤU TRÚC MẠNG CATV
2.1.Các thông số kỹ thuật chính của CATV.
SVTH : Nguyễn Văn Toan

[8]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
Hình 2:cácthông số kĩ thuật chính của mạng CATV
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[9]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
2.2.Cấu trúc mạng CATV truyền thống.
Hình 3 là sơ đồ đơn giản của một mạng cáp toàn đồng trục. Các chương
trình thu được từ vệ tinh hoặc viba tại headend, headend làm nhiệm vụ sau
− Thu các chương trình (ví dụ từ NBC, CBS, và các mạng cáp như MTV và
ESPN).
− Chuyển đổi từng kênh tới kênh tần số RF mong muốn, ngẫu nhiên hóa các
kênh khi có yêu cầu.
− Kết hợp tất cả các tần số vào một kênh đơn tương tự băng rộng (ghép
FDM).
− Phát quảng bá kênh tương tự tổng hợp này xuống cho các thuê bao.
Hình 3: Cấu trúc mạng CATV truyền thống (mạng cáp toàn đồng trục)
Hệ thống mạng truyền dẫn bao gồm:
− Cáp trung kế (Trunk Cable)
− Fidơ cáp: Cáp rẽ ra từ các cáp trung kế
− Cáp thuê bao (Drop Cable): Phần cáp kết nối từ cáp nhánh fidơ đến
thuê bao hộ gia đình.
Lưu lượng Video tổng đường xuống phát từ Headend và được đưa tới cá cáp
trung kế.Để cung cấp cho toàn một vùng, các bộ chia tín hiệu (Spliter) sẽ chia
lưu lượng tới các cáp nhánh fidơ từ cáp trung kế.Tín hiệu đưa đến thuê bao được
trích ra từ các cáp nhánh (fidơ cáp) nhờ bộ trích tín hiệu Tap.
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[10]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
Mức tín hiệu suy hao tỷ lệ với bình phương tần số trung tâm khi truyền qua cáp

trục (cáp trung kế, cáp fidơ và cáp thuê bao). Do vậy tín hiệu ở tần số càng cao
suy hao càng nhanh so với tần số thấp. Đó là lý do tại sao các nhà cung cấp mong
muốn ít kênh. Mức tín hiệu cũng bị suy giảm khi đi qua các bộ chia và bộ trích
tín hiệu.
Trên đường đi của tín hiệu, các bộ khuếch đại tín hiệu được đặt ở các khoảng
cách phù hợp để khôi phục tín hiệu bị suy hao.Các bộ khuếch đại được cấp
nguồn nhờ các bộ cấp nguồn đặt rải rác trên đường đi của cáp, các bộ nguồn này
được nuôi từ mạng điện sở tại. Các bộ khuếch đại xa nguồn được cấp nguồn cũng
chính bằng cáp đồng trục: dòng điện một chiều được cộng chung với tín hiệu nhờ
bộ cộng. Đến các bộ khuếch đại, dòng một chiều sẽ được tách riêng để cấp nguồn
cho bộ khuếch đại.
Vì các kênh tần số cao tín hiệu suy hao nhanh hơn, nhất là trên khoảng cách
truyền dẫn dài, các kênh tấn số cao cần có mức khuếch đại cao hơn so với các
kênh tần số thấp. Do đó cần phải cân bằng công suất trong dải tần phát tại những
điểm cuối để giảm méo. Để phủ cho một vùng, một bộ khuếch đại có thể đặt ở
mức cao, kết quả là mức tín hiệu và méo đều lớn. Do vậy tại nhà thuê bao gần
Headend cần một thiết bị thụ động làm suy giảm bớt mức tín hiệu gọi là Pad.
Các hệ thống cáp đồng trục cải thiện đáng kể chất lượng tín hiệu thu của TV.
Mặc dù nhiều vùng tín hiệu truyền hình vô tuyến quảng bá thu được có chất
lượng khá tốt nhưng CATV vẫn được lựa chọn phổ biến vì khả năng lựa chọn
nhiều chương trình. Tuy nhiên mạng toàn cáp đồng trục có một số nhược điểm
sau:
• Mặc dù đạt được một số thành công về cung cấp dịch vụ truyền hình, các hệ
thống thuần túy cáp trục không thể thỏa mãn các dịch vụ băng thông tốc độ
cao.
• Dung lượng kênh của hệ thống không đủ để đáp ứng cho phát vệ tinh quảng
bá trực tiếp DSB. Hệ thống cáp đồng trục có thể cung cấp hơn 40 kênh nhưng
cá thuê bao DSB có thể thu được gấp 2 lần số kênh trên, đủ cho họ lựa chọn
chương trình. Các mạng cáp yêu cầu cần thêm dung lượng kênh để tăng cạnh
tranh.

• Truyền dẫn tín hiệu bằng cáp đồng trục có suy hao rất lướn, nên cần phải đặt
nhiều bộ khuếch đại tín hiệu trên đường truyền. Do vậy phải có cá chi phí
khác kèm theo: nguồn cấp cho bộ khuếch đại, công suất tiêu thụ của mạng
tăng lên…dẫn đến chi phí chi mạng lớn.
• Các hệ thống cáp đồng trục thiếu độ tin cậy. Nếu một bộ khuếch đại ở gần
Headend không hoạt động (ví dụ mất nguồn nuôi), tất cả các thuê bao do bộ
khuếch đại cung cấp sẽ mất các dịch vụ.
• Mức tín hiệu (chất lượng tín hiệu) sẽ không đủ đáp ứng cho số lượng lớn các
thuê bao. Do sử dụng các bộ khuếch đại để bù suy hao cáp, nhiễu đường
truyền tác động vào tín hiệu và nhiễu nội bộ của bộ khuếch đại được loại bỏ
không hết và tích tụ trên đường truyền, nên càng xa trung tâm, chất lượng tín
hiệu càng giảm, dẫn đến hạn chế bán kính phục vụ của mạng.
• Các hệ thống cáp đồng trục rất phức tạp khi thiết kế và vận hàn hoạt
động.
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[11]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
Việc giữ cho công suất cân bằng cho tất cả các thuê bao là vẫn đền rất khó.
Để giải quyết cá nhược điểm trên, các nhà cung cấp cùng đi tới ý tưởng sử dụng
cáp quang thay cho cáp trung kế đồng trục.Toàn bộ hệ thống sẽ có cả cáp quang
và cáp đồng trục gọi là mạng lai giữa cáp quang và cáp đồng trục (mạng lai
HFC). Yêu cầu đối với hệ thống quang tương tự là duy trì sự tương thích với các
thiết bị cáp kim loại hiện có.
2.3.Ưu nhược điểm của truyền hình cáp CATV.
Ưu điểm:
Không bị ảnh hưởng bởi địa hình là ưu điểm phải kể đến trước tiên. Người
ta đã khai sinh ra CATV cũng chính từ khả năng này. CATV đặc biệt thích hợp
cho đô thị nhiều nhà cao tầng, nơi không thể thu được sóng truyền hình phát từ
các tháp anten vô tuyến.
- Không cần sử dụng anten, dù là anten trong nhà. Thay vào đó là đường dây nối

vào nhà và một ổ cắm tín hiệu.Chỉ cần nối với ổ cắm anten ở TV và ổ cấp tín
hiệu là sẽ có hàng vài chục, thậm chí vài trăm chương trình truyền hình để
xem.Hệ quả của ưu điểm này không chỉ là sự tiện lợi mà nó còn giá trị ở nhiều
mặt. Trong thực tế, có nhiều nơi không thể lắp đặt anten do điều kiện kiến trúc,
yêu cầu thẩm mỹ đô thị hoặc do điều kiện thời tiết (như ở Canada có những vùng
băng giá gió rét, rất khó lắp đặt và bảo trì anten xương cá). CATV giúp khán giả
vẫn có thể xem truyền hình trong những hoàn cảnh thu sóng truyền hình phức tạp
nhất. Không có anten, cũng có nghĩa là, không có nhiều vấn đề phiền toái, như
chống sét, bảo trì anten…
- Không bị ảnh hưởng bởi thời tiết: chịu sự tác động lớn của thời tiết là một trong
những nhược điểm của truyền hình vô tuyến. Khi trời ẩm, không khí nhiều hơi
nước, việc truyền sóng truyền hình VHF, UHF có phần thuận lợi hơn so với khi
trời nắng ráo khô hanh. Thời điểm lúc trời vừa mưa xong là thời gian vàng để thu
các đài truyền hình ở xa tín hiệu yếu: Hình ảnh rõ hơn, số kênh xem được nhiều
lên hẳn…Ban đêm thu sóng được dễ hơn ban ngày, lúc trời sương gió thì thu
sóng khó hơn những ngày quang đãng…
Ở vùng nhiệt đới như nước ta, áp lực thời tiết đối với việc xem chương trình
truyền hình có thể nói nhẹ hơn nhiều so với những xứ lạnh, nơi mà băng tuyết tác
động mạnh đến việc thu tín hiệu qua anten ngoài trời.
CATV đã giúp cho việc thu xem chương trình truyền hình thoát khỏi sự “quậy
phá” của thời tiết. Ở một hệ thống CATV hoàn hảo, chất lượng chương trình
truyền hình là như nhau 24/24 giờ, 7 ngày/tuần và 365 ngày/năm (tuy vậy, nếu
thi công không hoàn hảo, tín hiệu truyền hình qua dây dẫn vẫn giảm sút nghiêm
trọng trong khi trời mưa, vì có thể các tiếp điểm trong hệ thống dây không tiếp
xúc tốt, hình ành thu được sẽ phủ hạt).
- Khả năng tăng số kênh sóng ở CATV lớn hơn nhiều so với truyền hình vô tuyến
VHF-UHF. 12 kênh VHF và gần 50 kênh UHF đã là giới hạn cuối cùng cho việc
phát sóng truyền hình vô tuyến mặt đất (analog).Tuy nhiên, trong thực tế, số
kênh khai thác chỉ khoảng 1/3 số lượng trên. Để tránh nguy cơ can nhiễu, theo kỹ
thuật trước đây, người ta không thể sử dụng những kênh sóng lân cận nhau tại

cùng một địa điểm (thí dụ Đài Truyền hình TPHCM không thể phát trên 2 kênh
kế tiếp nhau như 7, 8 mà phải cách quảng một kênh). Khi một kênh sóng đã sử
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[12]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
dụng thì trong một bán kính nhất định không thể sử dụng kênh sóng đó, tuỳ thuộc
vào địa hình, công suất phát, độ cao anten phát… (thí dụ Đài truyền hình
TPHCM phát kênh 9 công suất 20kW từ tháp 120m thì trong điều kiện đồng
bằng, không thể sử dụng kênh 9 trong bán kính 200km cách TPHCM). Thực tế
cho thấy, tại khu vực đã sử dụng cạn kiệt quỹ tần số phát sóng truyền hình mặt
đất như Nam bộ, số đài thu được tại những điểm trung tâm cũng khoảng 20 kênh.
Trong giới hạn ít ỏi như vậy, việc nhiễu sóng cũng đã xảy ra, nói chi đến tình
huống gia tăng hơn nữa số kênh sóng.
- CATV có chất lượng hình ảnh hơn hẳn truyền hình phát sóng vô tuyến analog:
Chúng ta đều biết rằng tín hiệu truyền hình chỉ cho hình ảnh tối ưu nếu nó không
quá mạnh và cũng không quá yếu. Nếu tín hiệu truyền hình đến được TV quá
yếu, hình ảnh trên TV sẽ bị hạt, âm thanh sôi…Nếu tín hiệu truyền hình đến TV
quá mạnh, hình ảnh sẽ bị uốn éo, nhảy giật, xé ngang xé dọc, âm thanh ù. Trong
điều kiện thu được nhiều đài lý tưởng nhất, sự khác biệt cường độ trường trước
hết sẽ loại trừ một số kênh nếu dùng cùng một loại anten. Nếu dùng anten có độ
lợi cao, tín hiệu những đài truyền hình có công suất lớn và ở gần sẽ mạnh quá, có
thể đến mức không xem được. Nếu điều chỉnh sử dụng anten độ lợi thấp, thì tín
hiệu thu được từ những đài xa, công suất phát thấp sẽ yếu đi, và có thể cũng
không xem được. Cân đối tín hiệu các kênh sóng thu được ở mức độ tối ưu để có
được chất lượng hình ảnh tốt nhất cho các kênh là một bài toán khó và rất nhiều
trường hợp không thể giải được một cách trọn vẹn. Thường thì kỹ thuật viên phải
“hy sinh” chất lượng một số kênh nếu muốn bảo đảm chất lượng tối ưu một số
kênh hoặc muốn bảo đảm số kênh tối đa.
Vấn đề trên được giải quyết bằng CATV. Với một mạng dây dẫn hoàn chỉnh,
người ta có thể đảm bảo cường độ tín hiệu tất cả các kênh tại điểm thu trong mức

độ tối ưu cho TV, hình ảnh mọi kênh rõ đẹp hầu như đồng đều.
Tín hiệu truyền qua CATV đạt chất lượng cao vì nó không có tín hiệu phản xạ do
sóng điện từ trên đường lan truyền gặp chướng ngại vật như ở truyền hình vô
tuyến mặt đất analog. Xem truyền hình CATV, khán giả hầu như không bực mình
vì hiện tượng bóng ma như ở truyền hình vô tuyến mặt đất analog (trừ một số
trường hợp thu phát lại kênh truyền hình phát sóng mặt đất trong điều kiện khó
khăn, khiến tín hiệu có bóng ma ngay tại trung tâm CATV). Ưu điểm này có ý
nghĩa rất lớn trong bối cảnh sóng truyền hình thu ở trung tâm các thành phố lớn
hầu như đều bị hiện tượng sóng phản xạ, gây bóng ma phá nát hình ảnh.
Ưu thế chất lượng hình ảnh của CATV còn là khả năng hạn chế nhiễu rất tốt khi
tín hiệu truyền trong dây dẫn.So với truyền hình phát sóng vệ tinh mặt đất VHF –
UHF, tỷ lệ và mức độ nhiễu xâm nhập được vào đùơng dây CATV là thấp hơn rất
nhiều. Các nguồn phát sóng vô tuyến, tia lửa điện ở bugi, môtơ…không dễ vượt
qua lớp vỏ bọc của cáp đồng trục của CATV để tạo nên những màng vân đen,
hay những chấm trắng như truyền hình phát sóng vô tuyến mặt đất.
- CATV rất thuận lợi để khai thác truyền hình trả tiền.Ưu điểm này thể hiện ở
những điểm đã được phân tích là đơn giản, rẻ tiền, nhiều kênh và chất lượng cao.
Các nhà kỹ thuật vẫn có thể khai thác truyền hình trả tiền qua sóng truyền hình
vô tuyến mặt đất VHF-UHF bằng cách mã hoá tín hiệu analog và giải mã cho
thuê bao bằng thiết bị giải mã đặt cạnh TV. Tuy nhiên, chi phí khai thác sẽ tăng,
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[13]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
vì cần đến thiết bị giải mã với bộ thu sóng độc lập. Bên cạnh đó, nhà kinh doanh
truyền hình trả tiền chỉ có thể bán được một số ít chương trình truyền hình, vì
không còn tần số đề truyền kênh sóng (dẫn đến giá thuê bao cho mỗi kênh sẽ vọt
lên).Ngoài ra, các chương trình được bán không thể có chất lượng tốt trong một
số điều kiện phát sóng vô tuyến mặt đất (có thể bị bóng, bị hạt, bị nhiễu). Bảo trì
hệ thống anten thu của khách hàng luôn ở mức hoàn hảo để đảm bảo chất lượng
của các chương trình truyền hình cũng là một vấn đề khi khai thác. Trước đây, ở

Mỹ và châu Âu, người ta chỉ có thể mã hoá để bán một phần chương trình truyền
hình (vàigiờ/ngày) do không có kênh sóng. Các chương trình bán theo kiểu này
phải là chương trình hấp dẫn “đặc biệt”. Các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình
trả tiền theo phương thức phát sóng vô tuyến mặt đất phần lớn cũng chính là các
đài truyền hình. Giá cao, sản phẩm nghèo nàn, khách hàng chắc chắn hạn chế.
Đối với CATV, việc khai thác truyền hình trả tiền sẽ đơn giản như bán điện,
nước, điện thoại. Công ty truyền hình cáp câu dây tín hiệu vào nhà khán giảthuê
bao và cắt đường dây đó nếu họ không thu được tiền. Do đó giá thành sẽ
hạ.CATV có thể truyền rất nhiều kênh truyền hình chất lượng ổn định, đồng đều
nên giá thành cho mỗi kênh hạ hơn nữa. Với CATV, nhà cung cấp dịch vụ không
còn phải chính là đài truyền hình , mà chỉ là các công ty trung gian, mua đi bán
lại các chương trình. Các công ty truyền hình cáp sẽ mua tín hiệu từ nhiều đài
truyền hình và nhiều nguồn (vệ tinh, từ các đài phát mặt đất, từ băng đĩa hình),
cũng có thề tự sản xuất , tập hợp lại , phát qua đường day dẫn.
Nếu như trong các thập niên 50,60 thế kỷ XX, mạng CATV được xây dựng chủ
yếu do các ưu điểm đáp ứng việc truyền tín hiệu không phụ thuộc vào địa hình
thời tiết, mối dài hệ thống truyền hình vô tuyến mặt đất, thì trong các thập niên
gần đây, nhu cầu CATV phát sinh do ưu điểm thuận lợi để khai thác truyền hình
trả tiền, chất lượng cao, số lượng kênh phong phú…
Nhược điểm:
Việc triển khai CATV tốn rất nhiều chi phí đầu tư, công sức và thời gian.Để có
một mạng CATV hoàn chỉnh cho một thành phố vài triệu dân, từ khi xây dựng
đến khi hoàn tất có thể mất hàng chục năm.
Mạng CATV chỉ thích hợp cho các thành phố nơi có mật độ dân cư cao, không
thích hợp với đại đa số lãnh thổ (vùng đồng ruộng, rừng núi, dân cư thưa
thớt).Mật độ dân cư cáng thấp, chi phí triển khai CATV càng cao, vì dây dẫn,
thiết bị khuếch đại…phải dùng nhiều, nhưng số người sử dụng lại không
nhiều.Từ đó, CATV tỏ ra bất lợi so với các công nghệ khác.
Triển khai mạng CATV ở thành phố cũng có nhiều khó khăn, dây cáp chằng chịt
sẽ làm mất mỹ quan thành phố (nếu đi nổi mà không đi ngầm dưới đất), việc bảo

trì sửa chữa cũng rất phức tạp.Ở Mỹ, nơi CATV phát triển đầu tiên và mạnh hơn
cả, người ta cũng phải lúng túng khi giải quyết vấn đề này. Thường có tình trạng
nhiều công ty truyền hình cáp cùng muốn khai thác CATV ở một địa phương,
nhưng vì khó khăn kể trên, thông thường chính quyền chỉ cho phép một đơn vị
truyền hình cáp CATV hoạt động mà thôi. Do đó, việc đấu thầu rất căng thằng.
Mạng cáp cũng không phải giăng mắc ở đâu cũng được, quá trình thi công phải
qua rất nhiều va chạm, vướng mắc. Chi phí đầu tư càng trở nên nặng nề hơn.
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[14]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
So với truyền hình cáp vô tuyến, CATV có phạm vi phục vụ hoạt động hẹp hơn,
số lượng thuê bao giới hạn hơn, tốc độ phát triển thuê bao chậm hơn. Do vậy chi
phí cho việc mua bản quyền truyền hình tính trên mỗi thuê bao sẽ lớn hơn.
Nhược điểm này có thể làm CATV trở nên đắt đỏ hơn so với các phương tiện
truyền hình cap vô tuyến (có khả năng lớn hơn trong mở rộng thuê bao). Trong
khi đó, thuê bao càng nhiều, lợi nhuận công ty truyền hình cáp càng cao, giá thuê
bao càng hạ. Ở Mỹ, nhiều hãng CATV đã lao đao vì nhược điểm này. Họ bị các
công ty truyền hình vệ tinh lấy đi khá nhiều khán giả, vì với số lượng thuê bao
đông hơn, các công ty truyền hình cáp vệ tinh sẵn sàng mua độc quyền phát sóng
nhiều kênh truyền hình với giá rất cao. Từ đó, các chương trình CATV trở nên
nghèo nàn và đắt tiền hơn so với truyền hình cap vệ tinh DTH.
Chất lượng hình ảnh của công nghệ CATV analog tuy cao, nhưng vẫn kém hơn
so với công nghệ truyền hình số đang được sử dụng ở truyền hình vệ tinh.Từ cuối
thập niên 90, CATV analog dần dần mất đi ưu thế về chất lượng trước các công
nghệ truyền hình vệ tinh kỹ thuật số.Khán giả truyền hình có thể dễ dàng nhận ra
bằng mắt thường sự yếu kém chất lượng hình ảnh của CATV analog so với công
nghệ số.
Ưu điểm đơn giản của CATV chỉ cần kết nối là có tín hiệu, trong nhiều trường
hợp, lại là nhược điểm của công nghệ này. CATV rất dễ bị lấy “trộm” tín hiệu.
Công ty truyền hình cáp rất dễ bị thất thu vì nạn xem “trộm”. Đây là vấn đề

thường xảy ra trong giai đoạn triển khai CATV ở các nước đang phát triển. Tại
Trung Quốc, Thái lan, Campuchia…tín hiệu một thuê bao có thể cung cấp nối dài
cho hàng trăm TV xem “chùa”. Chìo cần kết nối đúng kỹ thuật vào đầu nối đến
TV của một thuê bao, lắp thiết bị khuếch đại nếu cần thiết và chi phí ít ỏi cho bộ
chia, là đã có thể hình thành một mạng cáp mối dài ngoài sự kiểm soát của công
ty truyền hình cáp. Chẳng hạn như trường hợp chúng tôi đã từng gặp ở Quảng
Châu, Trung Quốc, một nhà tập thể dùng chung tín hiệu truyền hình cáp từ một
thuê bao và mấy chục TV chỉ trả chung chi phí một thuê bao (tính ra chỉ hơn
20.000đ VN/tháng, mỗi TV chỉ trả chưa đến 500đ VN/tháng). Còn ở Phnômpênh,
Campuchia, công ty truyền hình cáp thường xuyên phải nhờ đến công an để giải
quyết tình trạng xem lậu, nhưng xem ra không hiệu quả. Tín hiệu bị câu ngoài
kiểm soát không gây tổn hại như câu trộm điện, nên rất khó phát hiện. Hơn nữa,
tín hiệu có thể lấy bất kỳ nơi đâu từ đường dây trong nhà, như câu điện thoại
song song, thời gian thực hiện chỉ vài chục phút, thiết bị sử dụng rẻ tiền, có sẵn
trên thị trường. Để đối phó, các công ty truyền hình cáp phải mã hoá tín hiệu.Như
vậy sẽ tốn thêm cho mỗi thuê bao một bộ giải mã. Do đó, CATV không còn rẻ
tiền và đơn giản nữa.
Do những nhược điểm trên, đến cuối thế kỷ trước, sự phát triển của CATV tại các
nước công nghệ truyền hình phát triển (Bắc Mỹ, châu Âu) đã chậm lại. Ở Mỹ,
Direct TV, một hãng truyền hình vệ tinh, đã vượt qua các hãng truyền hình
CATV, đọat ngôi vị dẫn đầu số lượng thuê bao. Các công ty truyền hình vệ tinh
châu Âu trở thành tập đoàn khổng lồ xuyên quốc gia, trong khi các hãng truyền
hình CATV chỉ có vai trò khiêm tốn ở từng thành phố, thị trấn. Còn ở Thái Lan,
một nước đang phát triển, CATV phút chốc trở nên lép vế trước DTH do Công ty
UBC triển khai, thủ đô Bangkok nằm giữa một rừng chảo. Ở Hongkong, nơi đã
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[15]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
có mạng CATV hoàn chỉnh, khán giả đã lại bắt đầu sử dụng phương tiện truyền
hình vệ tinh nhỏ gọn.

Chương 3 : KIẾN TRÚC MẠNG HFC
3.1.Kiến trúc mạng HFC.
Khái niệm: Mạng HFC (Hybrid Fiber Coaxial network) là mạng lai giữa cáp
quang và cáp đồng trục, sử dụng đồng thời cáp quang và cáp đồng trục để truyền
và phân phối tín hiệu. Việc truyền tín hiệu từ trung tâm đến các node quang là
cáp quang, còn từ các node quang đến thuê bao là cáp đồng trục.
Cấu trúc mạng:
Một mạng truyền hình cáp có cấu trúc cơ bản như sau:
.Hệ thống trung tâm Headend.
• Mạng truyền dẫn và phân phối tín hiệu.
• Mạng truy cập.
Thông thường cấu trúc mạng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố: địa lý, mật độ dân
cư, liên quan đến việc nâng cấp và nhiều yếu tố khác nữa, Tuy nhiên hầu hết
chúng đều có cấu trúc theo kiểu vòng-sao-chuỗi như hình 2.
3.2.Các đặc trưng cơ bản của mạng HFC.
3.2.1.Hệ thống trung tâm headend.
Là nơi thu nhận tín hiệu từ nhiều nguồn khác nhau: tín hiệu quảng bá, vệ
tinh sản xuất chương trình tại chỗ, chèn tín hiệu sản xuất nội bộ…Sau khi qua
các bước xử lý như điều chế, phân kênh, mã hóa, trộn…tín hiệu được đưa ra
ngoài mạng truyền dẫn và phân phối tới khách hàng thuê bao.
Đối với Headend phát triển các dịch vụ tương tác như: Internet, VOD, điện
thoại…Headend sẽ nhận tín hiệu ngược dòng tuwd các hộ thuê bao sau đó đưa
tới các hệ thống bộ phận liên quan như CMTS, Telephone Switch…để kết nối
với mạng viễn thông bên ngoài. Trong quá trinhd này, bộ phận tín cước (Billing)
tính các dung lượng trao đổi của khách hàng để xác định phí sử dụng hàng tháng.
Hình 4: Cấu trúc mạng HFC
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[16]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
3.2.2.Mạng truyền dẫn và phân phối.

Là môi trường truyền dẫn tín hiệu từ Headend đến nhà thuê bao.Trong truyền
hình cáp hữu tuyến HFC, môi trường truyền dẫn là cáp quang. Điển hình là một
hay nhiều mạch vòng cáp quang kết nối giữa HE và HUB thứ cấp, trong một số
trường hợp khác thì các vòng thứ cấp lại liên kết giữa các HUB sơ cấp và HUB
thứ cấp. Từ đây các Node quang FN được liên kết với các HUB hoặc HEtheo
cấu trúc hình sao.
Hình 5
Cấu trúc mạch vòng có dự phòng 1+1 cho độ tin cậy của hệ thống cao hơn. Vì
khi trên đường truyền có xảy ra sự cố thì sẽ thực hiện chuyển mạch tự động sang
hệ thống dự phòng để đảm bảo tín hiệu truyền được thông suốt.
Sơ đồ cấu trúc mạng truyền dẫn tín hiệu quang (hình 3) cho biết sơ đồ chi tiết
một số thiết bị quang trong mạng quang.Tín hiệu sau khi được xử lý tại Headend
được đưa ra ngoài mạng thông qua cáp sợi quang, đến các trạm lặp HUB. Tại
đây tín hiệu được đưa vào máy thu, máy phát quang, các bộ chia quang theo tỷ số
để cấp đến các node quang Fn.
Cũng có trường hợp máy phát quang RX được đặt ngay tại “Hệ thống trung tâm”
Headend để cấp đến các node quang FN (tùy thuộc vào địa hình, địa bàn, phân
bố dân cư…mà quyết định có cần đặt trạm lặp quang hay không).
3.2.3.Mạng truy nhập.
Thông thường chia ra làm 2 kiểu: HFPC VÀ HFC
a: Mạng truy nhập kiểu HFPC:
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[17]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
Là mạng lai giữa cáp quang và cáp đồng trục mà trong đó chỉ dùng các thiết bị
thụ động chia tín hiệu mà không có bất cứ một thiết bị tích cực nào trên mạng
đồng trục.
* Đặc điểm của mạng HFPC:
• Đáp ứng được các yêu cầu xây dựng theo mạng 1 chiều hay 2 chiều.
• Sử dụng Node quang có công suất lớn.

• Mạng quang chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ mạng tổng thể.
• Mạng đồng trục chỉ có các tuyến trục chính và tuyến cáp thuê bao với các
thiết bị chia thụ động.
• Khả năng phục vụ từ 400-600 thuê bao/Node quang.
* Ưu điểm:
• Chất lượng tín hiệu tốt do không sử dụng cá bộ khuếch đại.
• Do không sử dụng các bộ khuếch đại cao tần nên việc thi công lắp đặt,
vận hành dễ dàng.
• Các thiết bị thụ động có khả năng truyền 2 chiều nên độ ổn định mạng vẫn
cao khi triển khai mạng 2 chiều.
• Số lượng thuê bao/Node quang nhỏ nên có khả năng cung cấp tốt dịch vụ
2 chiều với tốc độ cao.
• Giảm chi phí cấp nguồn công tơ điện, bảo dưỡng, thay thế các thiết bị tích
cực.
Hình 6: Cấu trúc mạng FHPC
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[18]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
* Nhược điểm:
• Khả năng bao phủ của 1 Node quang nhỏ do không sử dụng khuếch đại.
• Yêu cầu Node quang sử dụng phải có công suất lớn, chất lượng cao, ổn
định.
b: Mạng truy cập kiểu HFC:
Là mạng lai giữa cáp quang và cáp đồng trục trong đó có dùng các thiết bị tích
cực (các bộ khuếch đại cao tần) trên mạng đồng trục.
* Đặc điểm của mạng HFC:
• Đáp ứng được các yêu cầu xây dựng theo mạng 1 chiều hay 2 chiều.
• Mạng đồng trục chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ mạng tổng thể.
• Mạng đồng trục được chia thành 3 cấp:
 Cấp trục chính: bao gồm cáp đồng trục trục chính, khuếch đại trục, bộ

chia tín hiệu đường trục.
 Cấp trục nhánh: bao gồm cáp đồng trục trục nhánh, khuếch đại nhánh,
bộ chia tín hiệu đường nhánh.
 Cấp mạng thuê bao: bao gồm cáp đồng trục thuê bao, TV.
• Khả năng phục vụ từ 1500-2000 thuê bao/Node quang
Hình 7: Cấu trúc mạng HFC
* Ưu điểm:
• Phạm vi bao phủ của 1 node quang lớn nhờ kéo dài mạng đồng trục bởi sử
dụng các khuếch đại cao tần
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[19]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
• Chi phí ban đầu thấp nhờ sử dụng ít node quang.
*Nhược điểm:
• Chất lượng tín hiệu thấp hơn kiểu mạng HFPC
• Không thuận lợi khi triển khai thành mạng 2 chiều.
• Yêu cầu chặt chẽ về nguồn cấp tín hiệu. Nếu điểm cấp nguồn nào đó mất
điện thì toàn bộ tuyến phía sau cũng mất tín hiệu.
• Cơ chế thi công, vận hành, bảo dưỡng phức tạp
3.2.4.Hoạt động của mạng.
Tín hiệu Video tương tự cũng như số từ các nguồn khác nhau như : các bộ
phát đáp vệ tinh, nguồn quảng bá mặt đất, Video sever được đưa tới Headend
trung tâm. Tại đây tín hiệu được ghép kênh và truyền đi qua Ring sợi đơn
mode (SMF). Tín hiệu được truyền từ Headend trung tâm tới thông thường là 4
hoặc 5 Hub sơ cấp.Mỗi Hub sơ cấp cung cấp tín hiệu cho khoảng 150000 thuê
bao.Có khoảng 4 hoặc 5 Hub thứ cấp và Headend nội hạt, mỗi Hub sơ cấp chỉ
cung cấp cho khoảng 25000 thuê bao.Hub thứ cấp được sử dụng để phân phối
phụ thêm các tín hiệu Video tương tự hoặc số đã ghép kênh với mục đích giảm
việc phát cùng kênh Video tại các Headedn sơ cấp và thứ cấp khác nhau.Các
kếnh số và tương tự của Headend trung tâm có thể cùng được chia sẻ sử dụng

trên mạng backbone. Mạng backbone được xây dựng theo kiến trúc Ring sử dụng
công nghệ SONET/SDH hoặc một số công nghệ độc quyền.
Các đặc điểm của SONET/SDH được định nghĩa cấp tốc độ số liệu chuẩn từ
tốc độ OC-1 (52,84 Mb/s)/STM-1 (155,52 Mb/s) tới cá tốc độ gấp nguyên lần tốc
độ này.
Trong mạng SONET/SDH, tín hiệu Video tương tự được số hóa, điều chế,
ghép kênh TDM và được truyền ở các tốc độ khác nhau từ OC-12/STM-4 (622
Mb/s) tới OC-48/STM-16 (2448 Mb/s). Ở đây sử dụng kỹ thuật ghép kênh thống
kê TDM để tăng độ rộng băng tần sử dụng. Ghép kênh thống kê TDM thực hiện
cấp phát động các khe thời gian theo yêu cầu để thực hiện các dịch vụ có tốc độ
bit thay đôit qua mạng SONET/SDH. Để giảm chi phí lắp đặt, phần lớn cá nhà
điều hành CATV lựa chọn sử dụng thiết bị tương thích với chuẩn SONET/SDH,
tùy theo các giao diện mạng. Dung lượng node quang được xác định bởi số lượng
thuê bao mà nó cung cấp tín hiệu.Node quang có thể là node cỡ nhỏ với khoảng
100 thuê bao hoặc cỡ lớn hơn với khoảng 2000 thuê bao.
3.3.Ưu nhược điểm của mạng HFC.
Sử dụng cáp quang để truyền tải tín hiệu, mạng HFC sẽ sử dụng các ưu điểm
vượt trội của cáp quang so với các phương tiện truyền dẫn khác:Dải thong lớn,
suy hao tín hiệu thấp, ít bị nhiễu điện từ, chống lão hóa và ăn mòn hóa học
tốt.Với các sợi quang được sản xuất với công nghệ hiện đại như ngày nay, các sợi
quang cho phép truyền tín hiệu với các tần số lên tới hang trăn THz.Tín hiệu
quang truyền trong sợi quang hiện nay chủ yếu có 2 bước song chính là 1310nm
và 1550nm.Đây là hai bước song mà ở đó người ta đo được tín hiệu có độ suy
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[20]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
hao rất nhỏ và hầu như là không đáng kể, 0,3dB/km với bước song 1310nm và
0,2dB/km với bước song 1550nm.Trong khi đó với một sợi cáp đồng trục loại
suy hao thấp nhất cũng phải mất 43dB/km tại tần số 1GHz.
Tín hiệu truyền trên sợi cáp là tín hiệu quang , do đó không bị ảnh hưởng bởi các

nhiễu điện từ từ môi trường dẫn đến đảm bảo chất lượng tín hiệu trên đường
truyền.
Mặc dù mạng HFC đã cải thiện khá tốt chất lượng tín hiệu truyền hình,nhưng các
mạng con truy nhập vẫn sử dụng các thiết bị tích cực là các bộ khuếch đại nhầm
bù suy hao để truyền tín hiệu đi được xa hơn.Theo kinh nghiệm của các nhà điều
hành mạng cáp của châu Âu và châu Mỹ thì trục trặc của mạng truyền hình cáp
phần lớn xảy ra ở các bộ khuếch đại và các thiết bị ghép nguồn cho chúng, các
thiết bị này nằm dải rác trên mạng vì thế việc định vị và sửa chữa cho chúng khó
mà có thể tiến hành một cách nhanh chóng được nên ảnh hưởng rất nhiều tới chất
lượng tín hiệu của các khách hang tại khu vực đó.Với các mạng truy nhập đồng
trục,khi cung cấp dịch vụ hai chiều, các bộ khuếch đại cần tích hợp các phần tử
khuếch đại tín hiệu cho các tín hiệu ngược dòng đã đến độ ổn định của mạng
giảm.Do vậy xu hướng phát triển trên thế giới đang chuyển dần qua sử dụng
mạng truy nhập thụ động.
Chương 4 :CÁC THÀNH PHẦN CỦA HỆ THỐNG MẠNG CATV-HFC
4.1.Cáp sợi quang
Hình 8: cấu tạo của sợi quang
4.1.1.Cấu tạo
Để truyền lan được ánh sáng, một sợi quang cơ bản có cấu tạo như hình7. Mặc
dù trên thực tế, sợi quang có thể có nhiều lớp nhưng chỉ có hai lớp cơ bản là lớp
lõi (core) và lớp vỏ (cladding) đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền lan
ánh sáng. Cả lớp lõi và lớp vỏ được chế tạo từ thủy tinh Silic, tuy nhiên chúng có
chiết xuất khác nhau, lõi có chiết xuất lớn hơn vỏ để đảm bảo điều kiện phản xạ
để có thể duy trì việc truyền lan ánh sáng bên trong lõi sợ quang. Chênh lệch
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[21]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
chiết xuất giữa lớp lõi và lớp vỏ thường khoảng một vài phần trăm.Hầu hết các
loại sợi quang đề có đường kính lớp vỏ khoảng 125µ.Bên ngoài lớp vỏ này
thường là một vài lớp bọc bảo vệ để tránh sự tác động cơ học vào sợi gây điến

đổi cá đặc tính cơ lý của sợi.
4.1.2.Các đặc tính của sợi quang
Suy hao:
Công suất quang truyền trên sợi giảm theo quy luật hàm số mũ.
P(z) = P(0)x10
(-a/10)z
-Trong đó:
P(0) : là công suất quang đầu sợi.
P(z) : công suất quang ở cựu ly z.
a : hệ số suy hao.
* Độ suy hao của sợi quang được tính bằng công thức:
A(dB) = -10log(P2/P1)
-Trong đó:
P1 : công suất đầu vào.
P2 : công suất đầu ra.
* Hệ số suy hao trung bình(suy hao trên một đơn vị chiều dài):
a(dB/km) = A(dB)/L(km)
-Trong đó:
A(dB): độ suy hao sợi quang.
L(km): chiều dài của sợi quang.
* Các nguyên nhân gây lên suy hao trong tín hiệu quang:
-Suy hao do hấp thụ vật liệu:sự có mặt của các tạp chất kim loại và ion OH
-

trong sợi quang là nguồn điểm hấp thụ ánh sang.Mức độ hấp thụ tùy thuộc vào
bước sóng ánh sang truyền qua nó và tùy thuộc vào nồng độ tạp chất của vật liệu.
-Suy hao do tán xạ Rayleigh:ánh sang khi truyền trong sợi quang gặp những chỗ
không đồng nhất sẽ bị tán xạ.Tia sang truyền qua những chỗ không đồng nhất sẽ
bị tỏa đi nhiều hướng.Chỉ có một phần ánh sang tiếp tục truyền theo hướng cũ,
do đó năng lượng bị mất mát.Độ suy hao do tán xạ Rayleigh tỉ lệ nghịch với lũy

thừa bậc 4 của bước sóng , nên độ suy hao giảm rất nhanh về phía bước sóng dài.
-Ngoài tians xạ Rayleigh ánh snags truyền trong sợi còn bị tán xạ khi gặp những
chỗ không hoàn hảo giữa lớp vỏ và lớp lõi.Một tia tới sẽ có nhiều tia phản xạ
khác nhau.Những tia có góc phản xạ nhỏ hơn góc tới hạn sẽ bị khúc xạ ra lớp vỏ
và bị suy hao dần.
-Suy hao do sợi bị uốn cong:với những chỗ uốn cong nhỏ tia sang truyền bị lệch
trục làm cho sự phân bố thường bị sáo trộn và năng lượng bị phát xạ ra ngoài và
suy hao dần.
* Tán sắc:
Một xung ánh sáng được đưa vào làm truyền dẫn trong sợi quang thì ở đầu ra
xung ánh sang sẽ bị biến dạng so với xung đầu vào.Sự biến dạng này được gọi là
tán sắc.
Tán sắc làm cho biên độ tín hiệu tương tự bị giảm và bị lệch pha, còn tín hiệu
số sữ bị mở rộng xung và bị chồng lấn nhau.Sự tán sắc làm hạn chế dải thong của
sợi quang.
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[22]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
-Các nguyên nhân gây ra tán sắc:
.Tán sắc mode: với sợi đa mode, ánh snags truyền trong sợi phân thành nhiều
mode, mỗi mode có một đường truyền khác nhau, nên thời gian truyền của các
tia sáng trên các mode là khác nhau.Điều này dẫn tới các tia sang không ra đồng
thời khỏi sợi quang mặc dù công suất phát tại cùng một thời diểm, gây nên tán
sắc.
. Tán sắc nội mode:tán sắc không những chỉ do hiệu ứng trễ giữa các mode gây
ra mà nó còn do chính nội tại của các mode riêng rẽ.Có 2 loại tán sắc nội mode.
Tán sắc vật liệu:do sự thay đổi chỉ số chiết suất của vật liệu lõi theo bước
sóng.Tán sắc vật liệu là một hàm bước sóng.
Tán sắc dẫn sóng:do sợi đơn mode chỉ giữ 80% năng lượng ở trong lõi, còn
20% ánh sang truyền trong vỏ nhanh hơn ở trong lõi.

4.2.Cáp đồng trục
4.2.1.Cấu tạo
Cáp đồng trục được sử dụng rộng rãi cho việc phân phối tín hiệu các
trương trình truyền hình. Hình 11 vẽ sơ đồ cấu trúc cáp đồng trục sử sụng trong
CATV
Hình 9: Cấu tạo cáp đồng trục
Phần lõi của dây dẫn trong thường làm bằng đồng với điện trở nhỏ thuận lợi cho
việc truyền dòng điện cường độ cao.Lớp vỏ ngoài cáp và phần lõi trong thường
bằng nhôm.Vật liệu giữa hai lớp nhôm thường là nhựa.Giữa lõi và phần ngoài có
các túi không khí để giảm khối lượng và tránh thấm nước.Ngoài cùng là một lớp
vỏ bọc chống các tác động cơ học.
Đường kính tiêu chuẩn của cáp là 0.5; 0.75; 0.85 và 1 inch, trở khánh đặc tính
của cáp thường là 75 Ω. Tín hiệu sẽ bị suy giảm khi truyền theo chiều dài của
cáp. Lượng suy giảm phụ thuộc và đường kính cáp, tần số, hệ số sóng đứng và
nhiệt độ.
4.2.2.Các thông số của cáp đồng trục
Suy hao do phản xạ:
Suy hao do phản xạ là đại lượng được đo bằng nhiệt độ khác biệt của trở kháng
đặc tính cáp so với giá trị danh định. Nó bằng tỉ số giữa công suất tới trên công
suất phản xạ:
L
ι
[dB]=10log[dB]
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[23]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
Khi trở kháng thực hiện càng gần với giá trị danh định, công suất phản xạ càng
nhỏ và suy hao phản xạ càng nhiều. Khi phối hợp lí tưởng ta có L
ι
= 0. Tuy nhiên,

trong thực tế giá trị L
ι
vào khoảng 28dB ÷ 32dB. Nếu suy hao phản xạ quá nhỏ,
phản hồi sẽ xuất hiện trên đường dây và sẽ tạo nên tín hiệu có tiếng ù.
• Trở kháng vòng
Công suất từ các bộ khuếch đại bù lại suy giảm trên đường truyền thường
được cung cấp bởi dòng một chiều/xoay chiều điện áp thấp truyền trong cáp theo
tần số RF. Do mức điện áp thấp, thông thường khoảng 45V, trở kháng vòng (trở
kháng phối hợp của dây dẫn trong và ngoài của cáp) là một đặc tính quan trọng.
Dòng điện này chảy qua trong toàn bộ thiết diện của cáp.Và vì vậy trở khàng của
dây dẫn trong đối với nó sẽ cao.
Có ba loại cáp đồng trục khác nhau được sử dụng trong mạng cáp phân
phối:
• Cáp trung kế: đường kính từ 0.5 ÷ 1 inch dùng truyền tín hiệu bắt đàu từ
node quang. Tổn hao truyền dẫn đối với loại cáp 1 inch là 0.89dB/100m ở
tần số 50MHz và 3.97dB/100m ở 750MHz.
• Cáp fidơ: được sử dụng nối giữa các bộ khuếch đại đường dây và các bộ
chia tín hiệu
• Cáp thuê bao: có đường kính nhỏ hơn cáp fidơ dùng để kết nối từ các bộ
chia tới thiết bị thuê bao.
Vị trí lắp đặt trong mạng được chỉ trong hình 10
Hình10: Phần cáp đồng trục trong kiến trúc cây và nhánh trong mạng HFC
4.3.Các bộ khuếch đại RF
4.3.1.Đặc điểm của các bộ khuếch đại RF
* Đặc điểm các bộ khuếch đại
Các bộ khuếch đại đường truyền bù lại suy giảm tín hiệu, chúng đóng vai trò
quan trọng khi thiết kế hệ thống.Mỗi bộ khuếch đại có chứa một bộ ổn định để
bù lại suy giảm ở các tần số khác nhau.Trong hệ thống truyền hình cáp thường sử
dụng bộ khuếch đại cầu.Với trở kháng lớn, tín hiệu từ đường truyền trung chuyển
SVTH : Nguyễn Văn Toan

[24]
KHOA ĐIỆN TỬ-VIỄN THÔNG BÁO CÁO THỰC TẬP
có thể được lấy ra mà không ảnh hưởng đến chất lượng toàn bộ kênh truyền. Yêu
cầu đối với bộ khuếch đại là ổn định phải cao do có sự tích lũy độ suy hao của
nhiều thành phần mắc nối tiếp:
• Chúng phải làm việc được trên mọi phạm vi dải tần rộng, hệ số khuếch đại
phải đạt được giá trị phù hợp tại các miền tần số cao.
• Bộ ổn định có khả năng bù lại suy giảm theo tần số một cách phù hợp.
• Bộ khuếch đại có đặc tuyến tuyến tính cao để tránh xuyên âm.
• Tự động điều chỉnh hệ số khuếch đại và đặc tuyến tấn số để bù lại sự thay
đổi do nhiệt độ.
• Tỷ số CNR của riêng một bộ khuếch đại được sử dụng phải đủ lớn để
chống được mức nhiễu tầng của các bộ khuếch đại.
Có ba loại bộ khuếch đại được sử dụng trong mạng CATV HFC tùy thuộc
vào vị trí của chúng:
• Bộ khuếch đại trung kế.
• Bộ khuếch đại fi-dơ.
• Bộ khuếch đại đường dây.
a) Bộ khuếch đại trung kế
Được đặt tại điểm suy hao lên tới 20÷22dB tính từ bộ khuếch đại trước đó, mức
đầu ra thường khoảng 30÷36dBmV.
*Ưu điểm:
Mức CNR cao (<80dB) đặc biệt là đối với kênh truyền hình tần số cao
(>300MHz). Vì cáp đồng trục khi truyền dẫn tổn hao phụ thuộc nhiều vào tần số
nên biên độ tín hiệu Video phát đi cần phải được giữ cân bằng nhằm duy trì sự
đồng đều trong toàn vùng phổ tín hiệu RF đã phát. Các bộ giữ cân bằng đường
xuống được thiết kế để bù cho các đoạn cáp đồng trục có độ dài ổn định. Bằng
cách tăng suy hao ở tần số thấp, bộ cân bằng cho phép các bộ khuếch đại trung
kế duy trì mức khuếch đại thích hợp với từng khoảng tần số trong phổ tín hiệu
truyền dẫn. Ngoài ra, một số bộ khuếch đại trung kế còn được trang bị bộ cân

bằng dự đoán trước (Bode Equalizer) để bù tổn hao cáp gây ra do sự thay đổi
nhiệt độ.
Hình 11: Sơ đồ đơn giản bộ khuếch đại trung kế
Các bộ khuếch đại trung kế thường dùng mạch tự điều chỉnh hệ số khuếch đại
(AGC).Khoảng điều chỉnh chênh lệch mức khuếch đại thường trong khoảng
6÷10dB. Các khối AGC trong bộ khuếch đại trung kế tách tín hiệu mẫu của các
SVTH : Nguyễn Văn Toan
[25]

×