Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TỔNG HỢP ÔN TẬP CÁC DẠNG VĂN 11 HỌC KÌ I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.27 KB, 29 trang )

TỔNG HỢP ÔN TẬP CÁC DẠNG ĐỀ VĂN 11 HỌC KÌ I
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam :
I. Kiến thức cơ bản cần nắm vững :
1/Vài nét về nhà văn Thạch Lam:
- Thạch Lam ( 1910 – 1942) ; Ông tên thật là Nguyễn Tường Vinh .Ông là một
trong những cây bút viết truyện ngắn tài hoa của nhóm Tự lực văn đòan.
- Tác phẩm của Thạch Lam đậm cảm hứng lãng mạn nhưng không thoát ly hiện
thực đời sống : thấm đượm lòng nhân ái với một văn phong nhẹ nhàng, man mác chất
thơ.
2/Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”:
a. Về nội dung :
+ “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn hay, mang đậm chất Thạch Lam .Truyện thể hiện
niềm thương cảm sâu xa, thấm thía của nhà văn với cảnh sống quẩn quanh, mòn mỏi, tăm
tối của chị em Liên và những người dân nghèo nơi phố huyện. Qua bức tranh thiên nhiên
và tâm trạng của nhân vật chính ( Liên) trong tác phẩm, nhà văn dẫn người đọc vào thế
giới của tâm trạng, cảm giác, bâng khuâng buồn- vui cùng nhân vật.
+ Tác phẩm cũng là truyện ngắn viết bằng cả ký ức tuổi thơ và tình yêu phố huyện của
Thạch Lam. Tác phẩm thấm được chất thơ bình dị của cảnh vật và tâm hồn
b. Về nghệ thuật : Cốt truyện không đơn giản ( kiểu truyện ngắn trữ tình); giọng
văn nhẹ nhàng , trầm tĩnh; lời văn bình dị,tinh tế.
3/ Các nội dung và nghệ thuật trong từng phần:
a/ Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn:
- Không gian tạo vật:
+ Được hiện lên với nhiều âm thanh, màu sắc, hình ảnh và đường nét ( Tiếng
trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve; phương Tây đỏ rực, đám mây
ánh hồng , dãy tre làng đen lại…)
+ Khung cảnh ấy được nhà văn thể hiện qua những câu văn êm dịu, uyển chuyển,
tinh tế.Mỗi câu như một nét vẽ đơn sơ , không cầu kỳ kiểu cách nhưng lại gợi được cái
hồn của cảnh vật , cái thần thái của thiên nhiên …Mỗi câu văn như mở ra một cảnh : cảnh
trước gọi cảnh sau rất độc đáo và ấn tượng…
 Một bức “họa đồng quê” quen thuộc, gần gũi , bình dị và gợi cảm , không kém


phần thơ mộng, mang cốt cách của hồn quê Việt Nam.Qua đó thể hiện được tình cảm
và gắn bó của nhà văn với một vùng quê nghèo.
- Cuộc sống của người dân:
+ Cảnh chợ tàn : người về hết , tiếng ồn ào không còn, chỉ còn rác rưởi…
+ Hình ảnh người dân xuất hiện với : mấy đứa trẻ con nhà nghèo đang tìm tòi, nhặt
nhạnh rác, mẹ con chị Tý nghèo khổ ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước nhỏ trên
cái chõng tre ; bà cụ Thi , vợ chồng Bác Xẩm…
 Tất cả… đều thể hiện sự tàn lụi ( cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ); sự
nghèo đói, khó khăn, tiêu điều đến thảm hại của người dân nơi phố huyện.
b/ Bức tranh phố huyện lúc về đêm:
- Không gian, tạo vật :
+ Ngập chìm trong bóng tối mênh mông ( đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng
tối; tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà; các ngõ vào
làng lại càng sẫm đen hơn )  gợi nỗi buồn đầy cảm thương về kiếp sống chìm khuất
trong cuộc sống của người dân nghèo quẩn quanh, bế tắc.

+Một vài ánh sáng le lói , yếu ớt lóe lên từ một vài cửa hàng(…với những quầng sáng
từ ngọn đèn dầu của chị Tí, chấm lửa nhỏ từ bếp lửa của Bác Siêu; hột sáng, khe sáng lọt
qua những phên nứa…)
 Thứ ánh sáng nhỏ bé, le lói như chính cuộc đời , số phận của những người dân
phố huyện nghèo.
- Cuộc sống của người dân: với giọng văn đều đều , chậm buồn và tha thiết , Thạch
Lam guíp người đọc cảm nhận rất rõ về cuộc sống lặp đi lặp lại ngày nào cũng như thế
một cách đơn điệu, buồn tẻ của người dân :
+ Vẫn những động tác quen thuộc của : Chị Tí dọn hàng, bác Siêu thổi lửa, gia đình
bác xẩm xuất hiện với cái thau trước mặt…
+ Vẫn “tiếng đàn bầu bần bật” của bác xẩm ế khách
+ Vẫn những mong đợi như mọi ngày : Chờ đợi tàu đi qua…
 Dẫu vậy, họ vẫn không mất hết hy vọng và niềm tin vào cuộc sống : một cái gì tươi
sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày.Điều đó chứng tỏ : trong hòan cảnh nào , con

người vẫn không thôi mơ ước những điều tốt đẹp .Bởi lẽ, sống là phải biết ước mơ và
hy vọng. Qua đó thể hiện niềm xót thương da diết của nhà văn.
c/ Bức tranh phố huyện huyện khi tàu đến và táu đi:
- Lúc tàu đến : phố huyện bừng sáng , náo nhiệt trong cái im lặng mênh mông
của đêm tối. Một phố huyện sáng rực, vui vẻ và huyên náo.
- Khi tàu đi : bóng tối lại dày đặc và để lại bao tiếc nuối của mọi người , đặc biệt
là hai chị em Liên.
 Hình ảnh đòan tàu : là biểu tượng của một thế giới thât đáng sống : sức sống
mạnh mẽ, giàu sang và rực rỡ ánh sáng.Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi , nghèo khổ,
tăm tối của người dân phố huyện. Đồng thời, hình ảnh đòan tàu ( với riêng Liên và An )
còn là hình ảnh của Hà Nội, của hạnh phúc, của những ký ức tuổi thơ êm đềm.
* Tóm lại, tác phẩm là ba bức tranh liên hòan , cảnh mỗi lúc một tối hơn, mỗi lúc một
hiu hắt hơn, có sự tương phản giữa : sáng và tối; giữa động và tĩnh, giữa sinh họat
nhàm chán với khỏanh khắc huyên náo khi đòan tàu đi qua.
4/ Gía trị của tác phẩm :
a. Gía trị hiện thực thể hiện ở :
- Bức tranh phố huyện nghèo nàn, tù túng , như bị bỏ quên.
- Cảnh sống buồn chán lặp lại đơn điệu, tối tăm với những con người lầm than, thiếu
thốn cả vật chất lẫn tinh thần.
b.Gía trị nhân đạo:
- Tấm lòng buồn thương, xót xa của nhà văn với những số phận nhỏ bé của người lao
động nghèo.
- Tác giả cũng đã phản ánh sự thức tỉnh của ý thức cá nhân con người : học không
bằng lòng với hiện thực mà luôn khát khát vươn tới ánh sáng và vượt qua số phận .Cuộc
sống của học dù thiếu thốn tất cả nhưng đầy tình người.
 Đây chính là giá trị nhân văn , nhân bản đáng quý của truyện ngắn này
=> Thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm:
+ Đừng bao giờ để cuộc sống của con người chìm vào cái “ao đời phẳng lặng”. Con
người phải sống cho ra sống , phải không ngừng khát khao xây dựng cho mình một cuộc
sống có ý nghĩa.

+ Những người phải sống một cuộc sống tối tăm , mòn mỏi, tù túng hãy cố vươn ra ánh
sáng , hướng tới một cuộc sống tươi sáng hơn.
* Đề 1 : Phân tích nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vậtqua bức tranh phố huyện khi
chiều xuống, phố huyện lúc đêm về và phố huyện lúc tàu đến và tàu đi trong truyện ngắn
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.
DÀN Ý
I/ Mở bài:
- Thạch Lam ( 1910-1942) ,là người đôn hậu, điềm đạm, rất đỗi tinh tế .Ông là một
cây bút tài hoa, có biệt tài về truyện ngắn - truyện nhưng không có chuyện.Tác phẩm của
ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với biết bao cảm tưởng , cảm giác mơ
hồ , mong manh …làm đọng lại trong lòng người đọc nhiều dư vi.
- Một trong những tác phẩm thể hiện sức hấp dẫn trong nghệ thuật viết văn ấy của
Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của ông. Ở đây, nhà văn đã thật thành công
khi miêu tả nội tâm nhân vật trong sự tương ứng với thế giới ngoại cảnh với bao buồn
vui của bức tranh phố huyện khi chiều xuống, phố huyện lúc đêm về và phố huyện lúc
có chuyến tàu đêm đi qua.
II/ Thân bài :
1/ Bức tranh phố huyện khi chiều xuống :
- Cảnh chiều tàn được hiện lên với :
+ Âm thanh của tiếng trống thu không ; tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ
đưa vào; tiếng muỗi
+ Hình ảnh của phương Tây đỏ rực với những đám mây hồng và dãy tre làng cắt hình
đen kịt trên nền trời…
 thiên nhiên đẹp, gợi buồn… như một “ bức họa đồng quê” quen thuộc, gần gũi và
gợi cảm .Một bức tranh quê hương bình dị mà không kém phần thơ mộng, mang cốt
cách Việt Nam .
- Tâm trạng của Liên :
+ Liên thấy “lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
+ Liên còn cảm nhận được “mùi riêng của đất, của quê hương này”.
+ Liên thấy “động lòng thương” bọn tẻ con nhà nghèo đi nhặt rác…và xót thương cho

mẹ con chị Tí …
 Qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam, Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm ,
tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người.
=>Bằng sự quan sát ,miêu tả tỉ mỉ, tinh tế với nhiều biến đổi tinh vi, phong phú…
nhà văn đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh vật nơi phố huyện lúc chiều
tàn như thấm vào lòng người hay nỗi buồn của tâm hồn Liên lan tỏa nhuốm vào
cảnh vật.
2/Bức tranh phố huyện lúc đêm về:
- Bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hòa trộn đầy dụng ý:
+ Ánh sáng trộn vào bóng tối hay ngựơc lại bóng tối trộn vào ánh sáng ( không
gian phố huyện có nhiều quầng sáng, nhưng cũng có nhiều khoảng tối, đến những hòn áa
trên đường vào làng cũng mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng, một bên
tối…).
+ Nhưng ánh sáng thì le lói, chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng; bóng đêm thì
vừa mênh mông hiu quạnh vừa dày đặc
( tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa, tối
đến mức cả tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống ầcm canh của phố huyện tưởng
chừng như không vang lên được).
 Điều này gợi một nỗi buồn đầy cảm thông, một nhận thức – dù rất mơ hồ- về
những kiếp sống chìm khuất, le lói, những thân phận như “bị bỏ quên’ nơi cái ga xép
của một phố huyện buồn thiu.
3/ Bức tranh phố huyện lúc đoàn tàu đi qua :
- Có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu - chút thế giới khác mà
chuyến tàu đêm mang qua phố huyện trong chốc lát ( rồi mang đi) và hình ảnh trở
về trạng thái sống lặng lẽ, tối tăm không thay đổi nơi phố huyện.
- Cũng có một cảm giác xa xôi không biết của nhân vật Liên sau khi đoàn tàu đêm
đi qua ở cuối truyện: “những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình
ảnh thế giới quanh mình, mờ mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự
xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.,nhưng
Liên không nghĩ đươc lâu, mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh,

cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”.
- Một bên là “sự hoạt động náo nhiệt cuối cùng của đêm” và một bên là “sự im
lặng mênh mông” trong đêm tối, trong giấc ngủ( và cả trong sự lãng quên?). Chuyến
tàu đêm đi qua sáng rực, vui vẻ và huyên náo, đầy vẻ hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua
trong giây lát ngắn ngủi rồi trả phố huyện về cuộc sống mênh mang yên lặng và đầy bóng
tối. Điều đó làm nỗi buồn như càng thấm thía hơn trong lòng hai đứa trẻ.
III/ Kết bài:
- Tóm lại, tương ứng với mỗi cảnh là một sắc thái cảm xúc, tâm trạng. buồn man mác,
mơ hồ khó hiểu trước bức tranh cuộc sống nghèo của phố huyện lúc chiều muộn: buồn
khắc khoải trong cảnh đợi chờ, mong ước một cái gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cuộc sống
nghèo khổ thường ngày; buồn thấm thía sâu sa về một cuộc sống quẩn quanh, không thể
đổi thay và mọi cái tốt đẹp, tươi sáng chỉ là hi vọng mong manh.
- Cũng tương ứng với cảnh vật, con người trong từng thời khắc khác nhau là những tâm
trạng, cảm giác, ý nghĩ khác nhau (đọan đầu: lòng buồn man mác trước thời khắc của
ngày tàn;đoạn giữa: mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống hằng ngày, lặng
theo mơ tưởng; đoạn cuối: thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc
đèn con của chị tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ)
=> Tất cả thể hiện niềm cảm thông sâu sắc cuả nhà văn. Tưởng chừng tác giả đã
hòa nhập vào tâm trạng, cảnh ngộ của nhân vật để diễn tả những gì mong manh,
mơ hồ khó tả nhất của tâm hồn con người
.


* Đề 2: Phân tích hình tượng ánh sáng và bóng tối
trong truyện nắgn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

YÊU CẦU
Bài làm cần phải đạt được yêu cầu sau:
- Bóng tối và ánh sáng trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam có thể đựơc phân
tích khảo sát dưới nhiều góc độ:

+ Ánh sáng và bóng tối như là những hình ảnh vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý
nghĩa biểu tựơng, gắn với cảm xúc vui buồn của con người, đời người, mang ý nghĩa
nhân văn.
+Ánh sáng và bóng tối như là những hình ảnh nói lên đặc điểm kết cấu nghệ thuật
của tác phẩm ( đối lập tương phản);….
 Bài làm có thể tổng hợp, kết hợp các góc độ này. Nhưng dù triển khai theo hướng nào
cũng cần phải lưu ý đến ý nghĩa của mối quan hệ giữa hai loại ánh sáng và bóng tối

DÀN Ý
I/ Mở bài :
- Thạch Lam ( 1910-1942) ,là người đôn hậu, điềm đạm, rất đỗi tinh tế .Ông là một cây
bút tài hoa, có biệt tài về truyện ngắn - truyện nhưng không có chuyện.Tác phẩm của ông
chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với biết bao cảm tưởng , cảm giác mơ hồ ,
mong manh …làm đọng lại trong lòng người đọc nhiều dư vi.
- Một trong những tác phẩm thể hiện sức hấp dẫn trong nghệ thuật viết văn ấy của Thạch
Lam là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” . Ở đây, nhà văn đã thật thành công trong việc tạo nên
sự tương phản giữa hai hình ảnh ánh sáng và bóng tối mang ý nghĩa biểu tượng, gắn với
cảm xúc vui buồn của con người nơi phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám.
II/ Thân bài :
1/Hình tượng bóng tối:
a. Bóng tối của thiên nhiên trong tác phẩm đậm đặc, trở đi, trở lại như một ám ảnh
không dứt : - “Đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối; tối hết cả, con
đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà; các ngõ con vào làng lại càng
sẫm đen hơn nữa” .
 Bóng tối gần như chiếm lĩnh cả không gian bao la , tĩnh mịch nơi phố huyện.
b. Bóng tối cuộc đời và bóng tối của cuộc sống con người:
- Đôi mắt Liên “ngập dần vào cái buồn của buổi chiều quê”
- Hình ảnh của bà cụ Thi và tiếng cười khuất dần trong bóng tối như cảnh đời đen tối,
bức bối , vật vờ của cụ Thi
- Mẹ con chị Tý với cái chõng nước và ngọn đèn dầu leo lét…

 Chừng ấy con người trong bóng tối như những hạt bụi li ti, vô giá trị, bị lãng
quên trong sa mạc của cuộc đời mênh mông, bế tắc.
2/Ánh sáng và niềm khao khát tội nghiệp của người dân nghèo nơi phố huyện:
- Đối lập với bóng tối dày đặc là hình ảnh nhỏ nhoi, mỏng manh của ánh sáng.
- Cái hay, độc đáo trong nghệ thuật thể hiện của Thạch Lam là nhà văn đã dùng ánh
sáng để miêu tả bóng tối:
+ Trên trời : Ánh sáng xuất hiện với sự lấp lánh của những ngôi sao …và những
ánh đom đóm lập lòe.
+ Ở dưới đất : ánh sáng được hiện lên với ngọn đèn của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu,
và những hột sáng lọt ra từ những liếp cửa của những ngôi nhà…
 Giữa cái bóng tối dày đặc của không gian, của cuộc đời, ánh sáng nhỏ nhoi trở
nên cao giá hẳn lên : hầu như mọi thứ làm ra ánh sáng ở cái phố huyện nhỏ đều được tác
giả huy động : các loại đèn ( đèn treo, đèn hoa kỳ, đèn dây, đèn lồng, đèn ghi) ; bếp củi,
tàn lửa, những con đom đóm và dải Ngân hà…
- Có thể nói : Tất cả các ánh sáng dù thiên tạo hay nhân tạo đều như vẽ ra những vạch
đích khát vọng của những nhân vật chính, phụ trong tác phẩm, đều biểu tượng lấp lánh
những cung bậc của mơ ước

III/ Kết bài :
- Truyện kết thúc một cách nhẹ nhàng , nhưng đối với người đọc là cả sự băn khoăn, ray
rứt ,xót thương.Hình ảnh ánh sáng và bóng tối cứ thấp thóang ,cứ ám ảnh người đọc :
không biết bao giờ ánh sáng , tương lai và hạnh phúc mới đến với Liên – An và những
người dân nghèo nơi phố huyện?




* Đề 3 : Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Liên
trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.


I/ Mở bài :
- Thạch Lam là nhà văn có sở trường ở thể loại truyện ngắn.Ông thường viết về những
người dân nghèo sống mòn mỏi, bế tắc ở những phố huyện nghèo nàn xơ xác bằng sự
cảm thương sâu sắc.
- Đọc truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, chúng ta không thể quên nhân vật Liên -
một cô bé nghèo có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con
người.
II/ Thân bài :
1/ Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế :
- Khi chiều về, chứng kiến sự tàn lụi của ánh sáng, nghe tiếng ếch nhái kêu ran ngoài
đồng, nghe tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng tạp hóa…Liên cảm thấy “lòng buồn man
mác”.Trái tim ngây thơ của cô bé chắc chưa hiểu được nỗi buồn của kiếp người nhưng
em đã biết rung động trước những đổi thay của thiên nhiên khi chiều xuống.
- Liên còn cảm nhận được mùi riêng của đất, của quê nghèo qua những mùi vị đơn sơ
nhưng thân thuộc “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen
thuộc quá”.
- Đêm đầy sao, vũ trụ thăm thẳm đầy bí mật đối với Liên.
- Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu nơi xa xôi cô đơn như chiếc đèn con của chị Tí
chỉ chiếu sáng một vùng rất nhỏ
.=> Nỗi buồn, cô đơn của Liên cũng chính là tấm lòng đồng cảm của em với những số
phận nhỏ bé nghèo khổ nhưng vẫn tự khẳng định mình,vẫn phải sống cuộc sống ở
một phố huyện buồn.
2.Liên còn là một cô bé rất đảm đang, tháo vát , lại giàu lòng nhân ái:
- Tuy còn bé, nhưng Liên vừa trông coi em , lại còn thay mẹ trông coi cửa hàng tạp hóa,
góp phần giúp cha mẹ.Có thể nói ; tuổi thơ của một đứa trẻ nghèo như Liên chẳng còn
,thật đáng cảm thông ,thương xót.
- Đáng trân trọng là tình cảm của Liên giành cho những đứa trẻ nghèo ở phố huyện nhặt
rác lúc chợ tàn…, lễ phép với cụ Thi hơi điên ; thông cảm với nỗi vất vả của mẹ con chị
Tí phải kiếm sống mỗi ngày từ sáng sớm đến đêm khuya…
 Liên cảm nhận được cuộc sống vô vị, buồn tẻ, tăm tối của người dân nơi đây.Họ

như những cái bóng âm thầm trong đêm và bóng tối cuộc đời đang bao phủ họ.
3/ Liên còn là một cô bé có ước mơ và khát vọng:
- Việc Liên và em đêm đêm đợi tàu không phải để mong bán được thêm hàng mà là
nỗi háo hức được nhìn một hình ảnh sống động, nhộn nhịp đầy ánh sáng …từ Hà Nội đi
qua.
- Con tàu đối với Liên và em còn là những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm…ở Hà Nội , để từ
đó hướng đến tương lai
III/ Kết bài :
- Có thể nói Liên là một nhân vật vừa đậm chất hiện thực vừa đậm chất trữ tình được
xây dựng qua ngòi bút tài hoa của Thạch Lam.
- Hình ảnh cô gái mới lớn này mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam (
công ,dung, ngôn, hạnh) , để lại trong cảm xúc của người đọc những ấn tượng sâu đậm,
ngọt ngào, dễ thương của một thời Thạch Lam mà hôm nay vẫn còn trân trọng.


*Đề 4: Phân tích bức tranh chiều tàn ở phố huyện nghèo
trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

YÊU CẦU
Căn cứ vào kiến thực cơ bản trong phần nội dung và nghệ thuật của tác phẩm ở phần
1 để làm rõ Bức tranh ở phố huyện ở thời điểm lúc chiều tàn với các ý sau:
(1) Cảnh không gian, tạo vật : đẹp, nên thơ, bình dị, gần gũi, quen thuộc nhưng
đượm buồn.
(2) Cảnh sống của người dân : tiêu điều, nghèo nàn, lam lũ, khổ cực,
(3) Tấm lòng của nhà văn : gắn bó, ân tình ; cảm thông ,thương xót.
DÀN Ý
I/ Mở bài:
- Thạch Lam ( 1910-1942) ,là người đôn hậu, điềm đạm, rất đỗi tinh tế .Ông là một cây
bút tài hoa, có biệt tài về truyện ngắn - truyện nhưng không có chuyện.Tác phẩm của ông
chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với biết bao cảm tưởng , cảm giác mơ hồ ,

mong manh …làm đọng lại trong lòng người đọc nhiều dư vi.
- Một trong những tác phẩm thể hiện sức hấp dẫn trong nghệ thuật viết văn ấy của
Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” . Ở đây, nhà văn đã thật thành công trong việc
ghi lại bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người với bao cảm xúc vui buồn của
con người vào lúc chiều tàn nơi phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám.
II/ Thân bài: Gồm 5 luận điểm
1. Cảnh không gian, tạo vật : đẹp, nên thơ, bình dị, gần gũi, quen thuộc nhưng đượm
buồn.
- Được hiện lên với nhiều âm thanh, màu sắc, hình ảnh và đường nét ( Tiếng
trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve; phương Tây đỏ rực, đám mây
ánh hồng , dãy tre làng đen lại…)
- Khung cảnh ấy được nhà văn thể hiện qua những câu văn êm dịu, uyển chuyển,
tinh tế.Mỗi câu như một nét vẽ đơn sơ , không cầu kỳ kiểu cách nhưng lại gợi được cái
hồn của cảnh vật , cái thần thái của thiên nhiên …Mỗi câu văn như mở ra một cảnh : cảnh
trước gọi cảnh sau rất độc đáo và ấn tượng…
 Một bức “họa đồng quê” quen thuộc, gần gũi , bình dị và gợi cảm , không kém
phần thơ mộng, mang cốt cách của hồn quê Việt Nam.Qua đó thể hiện được tình
cảm và gắn bó của nhà văn với một vùng quê nghèo.
2. Cảnh sống của người dân : tiêu điều, nghèo nàn, lam lũ, khổ cực,
- Cảnh chợ tàn : người về hết , tiếng ồn ào không còn, chỉ còn rác rưởi…
- Hình ảnh người dân xuất hiện với : mấy đứa trẻ con nhà nghèo đang tìm tòi, nhặt
nhạnh rác, mẹ con chị Tý nghèo khổ ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước nhỏ trên
cái chõng tre ; bà cụ Thi , vợ chồng Bác Xẩm…
 Tất cả… đều thể hiện sự tàn lụi ( cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ); sự
nghèo đói, khó khăn, tiêu điều đến thảm hại của người dân nơi phố huyện.
3 Tâm trạng của nhân vật liên : buồn, xúc động , cảm thương…
+ Liên thấy “lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.
+ Liên còn cảm nhận được “mùi riêng của đất, của quê hương này”.
+ Liên thấy “động lòng thương” bọn tẻ con nhà nghèo đi nhặt rác…và xót thương cho
mẹ con chị Tí …

 Qua ngòi bút miêu tả của Thạch Lam, Liên là một cô bé có tâm hồn nhạy cảm ,
tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người.
=>Bằng sự quan sát ,miêu tả tỉ mỉ, tinh tế với nhiều biến đổi tinh vi, phong phú…
nhà văn đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh vật nơi phố huyện lúc chiều
tàn như thấm vào lòng người hay nỗi buồn của tâm hồn Liên lan tỏa nhuốm vào
cảnh vật.
III/ kết bài:
- Đây là một đọan văn hay , bởi lẽ, đọan văn đã thể hiện được :
+ Tấm lòng của nhà văn gắn bó, ân tình ; cảm thông ,thương xót. …
+ Phong cách viết văn đặc sắc của tác giả trong sự kết hợp giữa bút pháp hiện
thực- trữ tình; câu văn mềm mại, giàu chất thơ
TRUYỆN NGẮN “Chí Phèo” của Nam Cao:
I/ Kiến thức cơ bàn cần nắm vững:
1/ Về nhà văn Nam Cao :
- Nam Cao ( 1917- 1951) , là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai
đọan trước và sau Cách mạng tháng Tám.
- Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, có tấm lòng đôn hậu, chan chứa
tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ.
- Tác phẩm của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám thường tập trung viết về hai đề
tài : Người trí thức nghèo và người nông dân nghèo ( Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn;
Chí Phèo, )
2/ Truyện ngắn “Chí Phèo”:
a. Nhan đề :
- “Cái lò gạch cũ” : ( do nhà văn đặt lần 1) .Là một chi tiết nghệ thuật gắn với sự ra
đời của Chí ở đầu tác phẩm và sự tiếp nối của con Chí ở phần cuối tác phẩm ( qua chi tiết
: khi Chí chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và đồng thời nghĩ tới cái lò gạch bỏ
hoang) > thể hiện sự luẩn quẩn, bế tắc của cuộc đời Chí Phèo và số phận của những
người nông dân bị tha hóa trước CMT8.
- “Đôi lứa xứng đôi” : là nhan đề do nhà xuất bản đặt giật gân, gây ấn tượng và sự tò
mò , phù hợp với thị hiếu của người đọc.; nhằm mục đích thương mại, nên nhan đề không

gắn với chủ đề tác phẩm.
- “Chí Phèo” ( do nhà văn đặt lần 2): khái quát súc tích và đầy đủ nhất tư tưởng nghệ
thuật của Nam Cao
b. Cốt truyện: ( tóm tắt theo cuộc đời nhân vật)
+ Trước khi vào tù: mồ côi, được nhặt về từ một lò gạch cũ - Sống và lớn lên như một
loài cây dại (qua tay người đàn bà góa và bác phó cối nghèo).20 tuổi, làm canh điền cho
lý Kiến, được bà Ba để ý > Lý Kiến ghen và đẩy Chí vào tù.
+ Từ khi ra tù đến trước khi gặp Thị Nở : Sau 8 năm ở tù , Chí trở về trong sự biến
dạng cả về nhân hình và nhân tính, bị Bá Kiến lợi dụng , Chí nhanh chóng trở thành
thằng lưu manh, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại.
+ Từ sau khi gặp Thị Nở đến trước khi bị Thị Nở cự tuyệt : Gặp Thị Nở, được Thị
chăm sóc bằng bát cháo hành Chí dần thức tỉnh về nhận thức, về ý thức và khao khát
hòan lương.
+ Bị Thị Nở cự tuyệt : Chí đau đớn, tuyệt vọng.Trong phẫn uất , Chí nhận ra kẻ thù
của mình là Bá Kiến .Chí đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện, rồi đâm chết Bá kiến và tự
sát.
c.Chủ đề :
Tác phẩm miêu tả tình trạng xung đột giai cấp ở nông thôn Vịêt Nam trước
CMT8 và giải quyết mâu thuẫn ấy bằng những biện pháp quyết liệt. Đồng thời , tác
phẩm thể hiện tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn :Phát hiện , miêu tả phẩm chất
tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi họ bị xã hội TDPK thối nát biến thành quỷ dữ.
d. Gía trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
- Gía trị nội dung :
+ Gía trị hiện thực : Tác phẩm ghi lại bức tranh về XHTDPK tàn bạo, vô nhân tính .
Đồng thời cũng tái hiện lại chân thực bức tranh cuộc sống khốn cùng, bế tắc của người
dân lao động bị xã hội cũ đẩy vào con đường tha hóa.
+ Gía trị nhân đạo: Nhà văn miêu tả số phận bất hạnh và cảm thông sâu sắc với bi kịch
của người nông dân của .Đồng thời ông còn khẳng định sức sống bất diệt của thiên
lương.Lương thiện,khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ của con
người. Không thế lực bào tàn nào có thể hủy diệt .Từ đó , nhà văn kêu gọi mọi người hãy

luôn tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mổĩ người và cùng nhau xây đắp
phần Người trong mỗi con người để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
- Gía trị nghệ thuật :
+ Nghệ thuật xây dựng và điển hình hóa nhân vật .
+ Nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật.
+ Nghệ thuật trần thuật.
+ Ngôn ngữ độc đáo ( đối thoại; độc thoại; gián tiếp - trực tiếp) Đặc biệt là ngôn ngữ
độc thoại nội tâm của Chí Phèo, của Bá Kiến ( nhà văn như dùng “kính chiếu yêu” để soi
thấu vào nội tâm đen tối của “con cáo già” lọc lõi, tàn bạo).

II/ Các dạng đề thường gặp :

* Đề 1: Tóm tắt cuộc đời của nhân vật Chí Phèo. Giải thích sự tha hóa và phân tích bi
kịch tinh thần của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam
Cao. ( 2 điềm)
Định hướng trả lời :
1/ Tóm tắt cuộc đời Chí Phèo:
+ Trước khi vào tù: mồ côi, được nhặt về từ một lò gạch cũ - Sống và lớn lên như một
loài cây dại (qua tay người đàn bà góa và bác phó cối nghèo).20 tuổi, làm canh điền cho
lý Kiến, được bà Ba để ý > Lý Kiến ghen và đẩy Chí vào tù.
+ Từ khi ra tù đến trước khi gặp Thị Nở : Sau 8 năm ở tù , Chí trở về trong sự biến
dạng cả về nhân hình và nhân tính, bị Bá Kiến lợi dụng , Chí nhanh chóng trở thành
thằng lưu manh, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại.
+ Từ sau khi gặp Thị Nở đến trước khi bị Thị Nở cự tuyệt : Gặp Thị Nở, được Thị
chăm sóc bằng bát cháo hành Chí dần thức tỉnh về nhận thức, về ý thức và khao khát
hòan lương.
+ Bị Thị Nở cự tuyệt : Chí đau đớn, tuyệt vọng.Trong phẫn uất , Chí nhận ra kẻ thù
của mình là Bá Kiến .Chí đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện, rồi đâm chết Bá kiến và tự
sát.
2/ Sự tha hóa của Chí Phèo:

- Tha hóa : sự biến đổi nhân cách theo chiều hướng xâu.
- Trong tác phẩm, tình trạng tha hóa của Chí Phèo được thể hiện ở 2 phương diện :
+ Không được sống như bản chất làm người của mình.: Chí Phèo vốn là một nông
dân lương thiện mà phải sống như quỷ dữ .
+ Những sản phẩm do mình tạo ra lại trở thành xa lạ, thậm chí lại thù địch với
chính mình : những người nông dân như Chí Phèo đã xây dựng nên làng Vũ Đại, nhưng
cái làng ấy lại không chấp nhận Chí Phèo quay về, thậm chí còn thù ghét, sợ hãi anh ( khi
Chí chết, cả làng thấy mừng rỡ).
3/ Bi kịch tinh thần của Chí:
- Bị tha hóa từ lâu , nhưng trước khi gặp Thị Nở Chí không hề thấy khổ, chưa nhận
thấy đời mình bi kịch.Mãi đến khi bị ốm, gặp Thị Nở , Chí mới tỉnh ra và thấy buồn và cô
độc Chí thèm lương thiện.Chí hy vọng tình thương của Thị Nở sẽ là nhịp cầu đưa Chí
về cuộc sống hòan lương.
- Bị Thị Nở cự tuyệt, Chí rơi vào tuyệt vọng.Anh thấm thía sâu sắc bi kịch tinh thần
của con người sinh ra làm người nhưng lại không được làm người.
- Sau khi đâm chết Bá Kiến, Chí Phèo tìm đến cái chết.Vì chỉ có cái chết mới giúp
anh thoát khỏi kiếp sống của một con vật lạ.Trước đây, để tồn tại, Chí phải bán bộ mặt
người, linh hồn người cho quỷ dữ.Gìơ, linh hồn đã trở về , Chí phải đổi bằng mạng sống
của mình.
 Như thế, rõ ràng với Chí Phèo, niềm khao khát được sống lương thiện cao hơn cả
tính mạng .


* Đề 2 : Tóm tắt những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn “Chí Phèo” của
Nam Cao
( 2 điểm)
Định hướng trả lời

1. Tác phẩm thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ( tiêu biểu là Bá Kiến và
Chí Phèo : Đây là nhưng nhân vật điển hình sắc nét vừa có ý nghĩa tiêu biểu, vừa hết sức

sinh động có cá tính độc đáo, gây ấn tượng mạnh cho người đọc.
2.Tác phẩm có lối kết cấu mới mẻ, phóng túng , thoải mái , đi theo trình tự Hiện tại –
quá khứ - hiện tại.
3. Cốt truyện hấp dẫn, tình tiết đầy kịch tính và luôn biến hóa, càng về cuối càng gay cấn
với những tình tiết quyết liệt, bất ngờ.
4.Ngôn ngữ trong tác phẩm sống động, điêu luyện, gần lời ăn tiếng nói trong đời
sống.Gịong điệu nhà văn phong phú và có khả năng biến hóa, có sự đan xen lẫn nhau.
5. Cách trần thuật cũng rất linh họat.Nhà văn có khả năng nhập vai vào các nhân vật ,
hay chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên , linh họat tạo sự hấp dẫn cho
người đọc

=> Với những đặc sắc về nghệ thuật như trên, truyện ngắnChí Phèo đúng là một
phát hiện về nội dung , một khám phá về nghệ thuật , xứng đáng là một kiệt tác.


* Đề 3 : Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo
trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao

Định hướng làm bài
I/ Mở bài:
- Nam Cao ( 1917- 1951) , là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai
đọan trước và sau Cách mạng tháng Tám.Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật
tiến bộ,có tấm lòng đôn hậu,chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và
những người nông dân nghèo khổ.
- Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”, một trong những truyện ngắn viết về đề
tài người nông dân nghèo trước CMT8 của Nam Cao, chúng ta không thể không cảm
thông và xót xa, đau đớn trước bi kịch trong cuộc đời của nhân vật Chí Phèo bị chế độ
TDPK đẩy vào con đường tha hóa.

II/ Thân bài:

1. Trước hết, Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành , lương thiện trở thành
thằng lưu manh:
a. Trước khi bị bắt đi ở tù:
- Chí là một người nông dân nghèo khổ, lương thiện như nhiều nông dân
khác.Hắn nguyên là một đứa trẻ mồ côi, được người dân làng Vũ Đại đem về nuôi.Năm
20 tuổi ,Chí làm canh điền cho nhà Lý Kiến : Khỏe mạnh nhưng hắn “hiền lành như đất”,
thậm chí còn nhút nhát.Chính Bá Kiến ( khi đó còn là Lý Kiến) đã tận mắt chứng kiến
cảnh Chí “vừa bóp đùi cho bà Ba vừa run run ”
- Chí từng có một mơ ước giản dị và lương thiện như trăm ngàn người dân khác :
“một gia đình nho nhỏ.Chồng cuốc mướn, cày thuê.Vợ dệt vải .Chúng lại bỏ một con lợn
nuôi làm vốn liếng.Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
- Chí còn là người biết tự trọng.Vì tự trọng nên anh nông dân 20 tuổi ấy đã thấy
nhục khi bị bà Ba Bá Kiến sai làm những việc “không chính đáng”.Để rồi, chỉ vì một cơn
ghen của Bá Kiến mà Chí Phèo lập tức phải vào tù.
b.Sau khi ra tù :
- Chí trở về làng sau 7,8 năm ở nhà tù thực dân.Cái nhà tù tàn bạo ấy đã biến Chí từ
một anh canh điền hiền lành, lương thiện thành một thằng lưu manh, biến dạng cả về
nhân hình lẫn nhân tính :
+ Về nhân hình :Chí mang hình dáng của một thằng lưu manh với « cái đầu trọc
lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mặt gườm gườm trông
gớm chết…Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm
chùy ».
+ Về nhân tính : Chí không còn « hiền như đất » nữa, mà hắn trở nên« hung
hăng », « liều lĩnh ».Hành động và lời nói của hắn là của một một tên đầu bò chính cống
: « Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế
chiều », « rồi say khướut, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra
mà chửi ». Hắn vừa rạch mặt vừa ăn vạ…liều lĩnh, chửi bới.
 Cứ vậy,Chí chìm ngập trong những cơn say : ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say,
thức dậy vẫn còn say…Cuộc đời Chí là những cơn say dài vô tận…


2. Không dừng ở đó, Chí cứ trượt dài trên tội ác để rồi từ một thằng lưu manh chí
trở thành « con quỷ dữ của làng Vũ Đại » :
- Sau lần ăn vạ thứ 2 ở nhà Bá Kiến, Chí đã bị tên địa chủ lọc lừa, ác bá ấy lợi dụng
trở thành tay sai cho Bá Kiến.Chí lại tiếp tục triền miên trong những cơn say .Và « hắn
say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm », « Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp,
đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ biết bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước
mắt của bao nhiêu người dân lương thiện » để rồi trở thành con quỷ dữ trong con mắt và
suy nghĩ của dân làng Vũ Đại từ lúc nào không hay.
- Cái mặt của Chí « không còn là mặt người ‘, « nó là mặt của một con vật lạ …cái
mặt vàng vàng mà muốn xạm màu gio ; nó vằn ngang vằn dọc , không thứ tự biết bao
nhiêu là sẹo ».
III/ Kết bài :
- Tóm lại, hình tượng Chí Phèo có ý nghĩa điển hình cho số phận của những cố nông bị
lưu manh hóa.
- Qua sự tha hóa của Chí Phèo , Nam Cao đã khẳng định một sự thật đau đớn ở nông
thôn Việt Nam trước CMT8 : đó là hiện tượng người nông dân lương thiện,bị xã hội phi
nhân tính chà đạp về tinh thần, về thể xác và cướp đi cả hình hài lẫn tính người.
- Từ đó, nhà văn gián tiếp tố cáo các thế lực thống trị TDPK đã gây ra bao tội ác đối
nhân dân ta.
=> Đây chính là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm .
* Đề 4 : Phân tích bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo ( từ khi Chí Phèo bị Thị Nở cự
tuyệt đến khi Chí Phèo đâm chết Bá Kiến rồi tự sát) trong truyện ngắn Chí Phèo của
Nam Cao.
Từ bi kịch đó, hãy trình bày giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
DÀN Ý
I/ Mở bài :
- Nam Cao ( 1917- 1951) , là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai
đọan trước và sau Cách mạng tháng Tám.Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật
tiến bộ,có tấm lòng đôn hậu,chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và
những người nông dân nghèo khổ.

- Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”, một trong những truyện ngắn viết về đề
tài người nông dân nghèo trước CMT8 của Nam Cao, chúng ta không thể không cảm
thông và xót xa, đau đớn trước bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo được thể hiện ở đọan
cuối của truyện.Đồng thời qua đó chúng ta cảm nhận sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo của tác phẩm.
II/ Thân bài :
1. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo:
a.Ứớc mơ muốn làm người lương thiện :
- Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật , rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở
một bờ bụi nào đó.May thay, tình cờ Chí đã gặp thị Nở và được thị thương yêu chăm
sóc.Người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn ấy với tình yêu thương mộc mạc , chân thành,
đã đánh thức phần nhân tính còn lại trong con người Chí, khiến Chí muốn trở lại làm
người lương thiện : “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người
biết bao!Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.Thị có thể sống yên ổn với hắn sao người khác lại
không thể được”
- Mùi cháo hành đã đẩy lùi hơi ruợu trong Chí, và ngọn lửa lương tri tưởng đã tắt , giờ
lại bùng lên với một ước mơ được sống luơng thiện .
2.Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm ngườ i :
- Nhưng sự mong ước được sống lương thiện của Chí một lần nữa lại không trở thành
hiện thực .Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn.Bởi lẽ :
+ Bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu gái bà
“đâm đầu” đi lấy thằng Chí Phèo – con quỷ dữ của làng Vũ Đai- bấy lâu chỉ có mỗi một
nghề rạch mặt ăn vạ.
+ Nghe những lời bà cô mắng, thị Nở thấy “lộn ruột”, nhưng cũng phải nghe theo.Rồi
thị giận dữ nói lại tất cả những lời bà cô với Chí Phèo .Điều này khiến Chí “ ngẩn người”
và thất vọng, lúc này hắn vẫn chưa tuyệt vọng vì hắn vẫn lại như hít thấy hơi cháo hành .
+ Khi Thị ra về, Chí đuổi theo nắm lấy tay thị. Điều đó chứng tỏ Chí khao khát tình
yêu, thiết tha đến với thị Nở - đến với cuộc đời lương thiện - biết chừng nào.
- Khi thấy không cách gì níu giữ được thị Nở , Chí rơi vào tình thế tuyệt vọng. Lúc
này đây Chị thật sự thấm thía sâu sắc cái “bi kịch tinh thần của con người sinh ra làm

người nhưng lại không được làm người.” Chí đã :
+ Vật vã , đau đớn .
+ Uống rượu , nhưng càng uống càng tỉnh.
+ Chí ôm mặt khóc rưng rức và luôn thấy thoang thỏang mùi cháo hành. ( chi tiết
này được nhắc đi nhắc lại nhằm tô đậm nỗi khát khao tình yêu thương và nhất là bi kịch
tinh thần của Chí.)
3. Giải quyết : bi kịch biến thành thảm kịch .
- Bi kịch phải được giải quyết và nó đã được giải quyết bằng con đường tất yếu: xã hội
đã không cho Chí sống thì Chí phải chết ( vì nếu sống mà không được công nhậnlà con
người thì sống để làm gì?).
- Trong cơn tuyệt vọng , khủng hỏang và bế tắc , Chí càng thấm thía hơn tội ác của kẻ
đã cướp đi bộ mặt và linh hồn của mình.Anh đã đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời
mình.
2/ Gía trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm:
+ Gía trị hiện thực : Tác phẩm ghi lại bức tranh về XHTDPK tàn bạo, vô nhân tính .
Đồng thời cũng tái hiện lại chân thực bức tranh cuộc sống khốn cùng, bế tắc của người
dân lao động bị xã hội cũ đẩy vào con đường tha hóa.
+ Gía trị nhân đạo: Nhà văn miêu tả số phận bất hạnh và cảm thông sâu sắc với bi kịch
của người nông dân của .Đồng thời ông còn khẳng định sức sống bất diệt của thiên
lương.Lương thiện,khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ của con
người. Không thế lực bào tàn nào có thể hủy diệt .Từ đó , nhà văn kêu gọi mọi người hãy
luôn tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mổĩ người và cùng nhau xây đắp
phần Người trong mỗi con người để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
III/ Kết bài :
- Nhân vật Chí Phèo được xây dựng thành công , vừa khái quát, vừa cá tính.
- Bằng tấm lòng yêu thương trân trọng với những người khốn khó, Nam Cao đã phát
hiện được những phần sâu kín nhất trong tâm hồn của họ.Đó là những gì còn sót lại của
tình người, sự kháy khao hạnh phúc, ước muốn yêu thương và nhất là quyền được làm
người lương thiện. Bi kịch của Chí chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những con người
bất hạnh : Hãy đấu tranh chống lại các thế lực đen tối để con người được sống lương

thiện và h. phúc
* Đề 5 : Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của
Nam Cao

Định hướng làm bài
I/ Mở bài :
- Nam Cao ( 1917- 1951) , là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam ở cả hai giai
đọan trước và sau Cách mạng tháng Tám.Ông là một nhà văn có quan điểm nghệ thuật
tiến bộ,có tấm lòng đôn hậu,chan chứa tình thương, gắn bó sâu nặng với quê hương và
những người nông dân nghèo khổ.
- Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”, một trong những truyện ngắn viết về đề
tài người nông dân nghèo trước CMT8 của Nam Cao, chúng ta không thể không cảm
động trước quá trình hồi sinh trong cuộc đời của Chí Phàeo - một người đã tưởng đã là
quỷ dữ của làng Vũ Đại

II/ Thân bài :
Sau một thời gian dài hòan tòan bị tha hóa, Chí Phèo sống trềin miên trong những
cơn say, không ý thức được hành động và cuộc sống của chính mình.Cho đến khi Chí
Phèo gặp Thị Nở, Chí đã thật sự được hồi sinh.Có thể nói, đây là giai đọan quan trọng
nhất trong cuộc đời của Chí với những thời khắc bừng sáng ngắn ngủi và hạnh phúc,
để rồi sau đó tắt ngấm ngay.Chí lại rơi vào bế tắc và thảm kịch đã xảy ra : đâm chết Bá
Kiến rồi tự sát.Qúa trình hồi sinh ấy của Chí có thể tìm hiểu qua hai 2 giai đọan :

1 /Trước hết là trạng thái tâm lý của Chí đi từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ:
Sau một tối say rượu, Chí đã tình cờ gặp Thị Nở.Họ ăn nằm với nhau.Thế rồi nửa
đêm, Chí đau bụng, nôn mửa.
- Bắt đầu là tỉnh rượu : Sáng hôm sau, Chí tỉnh dậy khi “trời đã sáng lâu”.Kể từ khi
mãn hạn tù trở về, đây là lần đầu tiên “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” đã hết say, hòan
tòan tỉnh táo. Chí thấy lòng “bâng khuâng, mơ hồ buồn”.Lần đầu tiên, Chí nghe thấy bản
nhạc rộn ràng của cuộc sống lao động : đó là tiếng chim hót viu vẻ, tiếng anh thuyền chài

gõ mái chèo đuổi cá; tiếng trò chuyện của những người đàn bà đi buôn vải về…Những
âm thanh ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm và nghe được, vì hôm nay
Chí đã hết say.Phải chăng, những âm thanh ấy là tiếng gọi thiết tha của cuộc sống Chí
đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tình cảm và nhận thức.
- Sau đó là tỉnh ngộ : Khi tỉnh táo, Chí đã “ngộ” - nhận thức , nhìn lại cuộc đời mình cả
trong quá khứ, hiện tại và tương lai :
+ Đầu tiên là hắn “nao nao buồn” nhớ về một thời hắn đã từng mơ ước “có một gia
đình nho nhỏ…”.Đấy là quá khứ, còn hiện tại? Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn
bởi “ hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc
đời”,và cơ thể thì đã “hư hỏng nhiều”. Tương lai đối với hăn, còn đáng buồn hơn, không
chỉ buồn mà còn lo sợ , bởi hắn đã “trông thấy trước “ quá nhiều điều bất hạnh : “tuổi
già, đói rét và ốm đau”, nhất là “cô độc”.Sau những tháng ngày sống gần như vô
thức,Chí đã tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình.
=> Như vậy , với sự trở lại của khả năng nhận thức ngoại giới và nhận thức chính
mình ( lý trí), cùng những tình cảm , cảm xúc rất con người, Chí đang thức tỉnh một
cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người

2/ Từ ngạc nhiên, xúc động đến khao khát hòan lương:
a. Trước hết là tâm trạng của Chí đi từ ngạc nhiên đến xúc động:
+ Đúng lúc Chí đang “vẩn vơ nghĩ mãi” thì thị Nở mang “một nồi cháo hành còn
nóng nguyên” vào.Việc làm này của thị khiến hắn hết sức “ngạc nhiên”.Rồi từ chỗ
“ngạc nhiên”, Chí thấy “mắt hình như ươn ướt” ( xúc động).Bởi vì một lẽ hết sức đơn
giản, đây là lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn chưa bao giờ
được săn sóc bởi bàn tay đàn bà, mà đàn bà – trong ý niệm của hắn bề bà ba - chỉ là sự
nhục nhã, đau đớn. Nay thì khác, thị Nở không chỉ đem cháo cháo đến cho hắn mà còn
múc ra bát “giục hắn ăn nóng”.Hắn “húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm
bát nữa”.
+ Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy của thị đã khiến Chí “ăn
năn”,”.Hắn thấy “lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ”.Lúc
này, hắn hiền lành đến khó tin “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí

Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt ăn vạ và đâm chém người?”. Cái “bản tính ngày của hắn,
ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ.Chí đã đã sống đúng với con người thật
của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa.
b.Tiếp đến, tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh:
-Chí mong muốn được trở lại làm người , làm một người dân hiền lành, lương thiện ở
làng Vũ Đại “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện , hắn muốn làm hòa với mọi người biết
bao! Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người
lương thiện”.
- Cùng với mong ước cháy bỏng được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc
và một mái ấm gia đình.
+ “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”- “cứ thế này” là thế nào? Đó là cứ được ăn
cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được
làm nũng với thị…được như thế thì “thích nhỉ”- tức là sung sướng, hạnh phúc nào bằng.
+ “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” -tức là về sống chung một nhà,
hình thành một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc.Câu nói này giống như một lời cầu
hôn của Chí với thị Nở - một lời cầu hôn “rất canh điền”, chất phác, giản dị.

III/ Kết bài:
Tóm lại, có thể nói đọan văn viết về quá trình hồi sinh của Chí Phèo trong tác phẩm là
một trong những đọan văn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn….và giá trị nhân đạo của
tác phẩm: Nhà văn miêu tả số phận bất hạnh và cảm thông sâu sắc với bi kịch của người
nông dân của .
- Đồng thời ông còn khẳng định sức sống bất diệt của thiên lương.Lương thiện,khát
khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên, tốt đẹp và mạnh mẽ của con người. Không thế lực
bào tàn nào có thể hủy diệt .
- Từ đó , nhà văn kêu gọi mọi người hãy luôn tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp
của mổĩ người và cùng nhau xây đắp phần Người trong mỗi con người để cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân :
I/ Kiến thức cơ bản cần nắm vững:

1/ Vài nét về Nguyễn Tuân ( 1910-1987) :
- Nguyễn Tuân là nhà văn của 2 giai đọan trước và sau Cách mạng tháng Tám.
- Ông rất mực tài hoa,uyên bác, am hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt là các
môn nghệ thuật : hội họa, điêu khắc, điện ảnh, sân khấu. Ông còn là một nhà văn có sở
trường viết ký.
2/ Truyện ngắn “ Chữ người tử tù”:
“Chữ người tử tù” là một truyện ngắn được in trong tập truyện “Vang bóng một thời”,
xuất bản năm 1940 .
a. Cốt truyện :
Tác phẩm kể lại : Huấn Cao là một người có tài viết chữ nhanh và đẹp.Ông dám đứng
lên chống lại triều đình. Việc không thành, ông bị bắt và bị án tử hình. Ở trong tù ông lại
gặp một quản ngục có cùng sở thích như ông và rất quí trọng nghĩa khí tài hoa.Qủan ngục
đã biệt đãi Huấn Cao và tìm cách xin chữ .Cảm tấm lòng của quản ngục, Huấn Cao đã
cho viên quản ngục chữ và lời khuyên trước khi ông ra pháp trường.
b. Tình huống truyện :
Tác phẩm được xây dựng bằng một tình huống truyện giàu kịch tính :
+ Viên quản ngục ( kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối) nhưng lại khát khao ánh sáng của
chữ nghĩa với Huấn Cao (người từ tù có tài viết chữ đẹp nổi tiếng) .Lẽ ra đây phải là cuộc
hội ngộ tương đắc của những người “biệt nhỡn liên tài”, của hai tâm hồn nghệ sĩ yêu cái
đẹp.
+ Nhưng, thật oái oăm, hai con người ấy lại gặp nhau giữa chốn ngục tù và trong một
tình thế éo le : cuộc chạm trán giữa một tên “đại nghich”, cầm đầu cuộc nổi lọan đang đợi
ngày ra pháp trường với kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời.Huấn Cao càng tỏ ra
lạnh lùng, bất cần, thì viên quản ngục lại càng cháy bỏng cái sở nguyện xin cho được chữ
để làm vật báu treo trong nhà.
+ Kịch tính đã lên tới đỉnh điểm khi ngục quan nhận được công văn khẩn của quan hình
bộ Thượng thư về việc giải Huấn Cao và các tử tù về kinh để xử chém.
c. Các nhân vật chính:
c1.Nhân vật Huấn Cao :
- Là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật viết thư pháp :

+ “Tài viết chữ rất nhanh rất đẹp”, được người khắp vùng tỉnh Sơn khen.
+ Lời ngợi ca và mong ước cháy bỏng của quản ngục “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm,
vuông lắm”; “Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”.
+ “Nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời
con người”
 Nét chữ, nết người , thể hiện phẩm chất , nhân cách cao đẹp của Huấn Cao.
- Là người có tâm hồn trong sáng cao đẹp :
+ “Không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối”.
+ Ông mới chỉ cho chữ “ba người bạn thân”.
+ Do cảm “ tấm lòng biệt nhỡn liên tài” và hiểu ra
 Là người trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỷ.Đồng thời thể
hiện lẽ sống của Huấn Cao : Sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.Phụ tấm
lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ.
- Là một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang, bất khuất :
+ Huấn Cao dám chống lại triều đình mà ông căm ghét.
+ Hành động “rỗ gông” của Huấn Cao và thái độ “không thèm chấp” lới dọa dẫm của
tên lính áp giải thể hiện sự tự do về tinh thần trong gông cùm.
+ “Thản nhiên nhận rượu” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”  phong
thái ung dung , coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
+ Dưới mắt Huấn Cao, việc những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chỉ là
“những trò tiểu nhân thị oai”.Ông trả lời quản ngục một cách khinh bạc đến điều.
+ Thái độ “lễ phép” ,”xin lĩnh ý”và sự thừa nhận của ngục quan : Huấn Cao là
người “Chọc trời quấy nước”, “đến trên đầu…còn chẳng biết có ai nữa”.
* Tóm lại,
- Huấn Cao là người có tài , vừa có tâm; hiên ngang , bất khuất trước cái ác, cái
xấu nhưng mềm lòng trước cái thiện, cái đẹp.
- Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm thẩm mĩ tiến bộ :Một nhân
cách đẹp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài.Nhà văn yêu mến, ca
ngợi Huấn Cao và tiếc nuối những người như Huấn Cao ( mà Huấn Cao lại là người
kết tinh, lưu giữ vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc) , từ đó nhà văn kín đáo thể

hiện tình cảm yêu mến, trên trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống  tinh
thần dân tộc và lòng yêu nước kín đáo của nhà văn.

c2.Nhân vật quản ngục:
- Là một người có tâm hồn nghệ sĩ, say mê và quý trọng cái đẹp : Thú chơi chữ, “sở
nguyện cao quý” là được treo ở nhà riêng một đôi câu đối do tay ông Huấn viết.
- Là người có tấm lòng “ biết giá người, biết trong người ngay”, cảm phục tài năng và
nhân cách của Huấn Cao với một thái độ cung kính, “biệt nhỡn liên tài” đối với ông
Huấn.
=> Chính phẩm chất này của viên quan ngục đã khiến Huấn Cao cảm kích coi là “một
tấm lòng trong thiên hạ”.Nhà văn đã xem ngục quan là “ một thanh âm trong trẻo
chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
* Qua nhân vật viên quan ngục, tiếp tục thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà
văn :
+ Trong mỗi con người đều có một người nghệ sĩ , đều ẩn chứa tâm hồn yêu cái đẹp,
cái tài.Không phải ai cũng xấu hết; bên cạnh những cái chưa tốt (phần “ác quỷ”), mỗi con
người còn có “thiên lương”( phần “thiên thần”).
+ Có khi , có lúc , cái đẹp tồn tại ở trong môi trường của cái ác, cái xấu.Nhưng không
vì thế mà nó lụi tàn; trái lại nó càng mạnh mẽ và bền bỉ.Nó như hoa sen mọc trên đầm lầy
vậy.
d. Cảnh cho chữ và cho lời khuyên:
- Cảnh cho chữ : “ Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
+ Hòan cảnh và địa điểm cho chữ : thường được diễn ra ở những nơi thư phòng, còn
ở đây lại diễn ra giữa nhà tù –nơi ngự trị của bóng tối, cái ác -> những thứ thù địch với
cái đẹp.
+ Tư thế của những người cho chữ và nhận chữ cũng “xưa nay chưa từng có”: kẻ
có quyền hành thì không có “quyền uy”.”Uy quyền” thuộc về Huấn Cao- kẻ bị tước đi
mọi thứ quyền. Người nắm quyền sinh, quyền sát thì “khúm núm”, “run run”, trong khi
kẻ tử tù thì ung dung , đường bệ .Kẻ có chức năng giáo dục tội phạm thì đang được tội
phạm “giáo dục”.

- Cho lời khuyên:
+ Nội dung lời khuyên: Huấn Cao khuyên viên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn,
tìm về chốn thanh tao để tiếp tục sở nguyện cao quý và giữ thiên lương cho lành vững.
+ Ý nghĩa. của lời khuyên: Là lới di huấn của Huấn Cao ( cũng là của nhà văn ) nhắn
tới quản ngục và tất cả mọi người : Muốn chơi chữ phải giữ lấy thiên lương ; trong môi
trường của cái ác, cái đẹp khó tồn tại vững bền; Chữ nghĩa, thiên lương không thể sống
chung với tội ác và nơi ngục tù đen tối. .
+ Tác dụng của lới khuyên : Hành động bái lĩnh của ngục quan … sức mạnh cảm
hóa con người.Bằng con đường của trái tim, sức mạnh ấy càng được nhân lên gấp bội.
* Đặc sắc về nghệ thuật của đọan văn:
+ Thủ pháp tương phản : đối lập giữa ánh sáng và bóng tối; giữa cái hỗn độn xô bồ
của nhà giam với cái thanh khiết, cao cả của nền lụa trắng, nét chữ đẹp và thoi mực thơm;
giữa kẻ tử tù đang ban phát cái đẹp, cái thiện với viên quan coi ngục “khúm núm”, “lĩnh
hội”  làm nổi bật tư thế của Huấn Cao với sự vươn lên, thắng thế của ánh sáng với
bóng tối, cái đẹp với cái xấu xa nhơ bẩn; cái thiện với cái ác.…
+ Nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh, sử dụng nhiều từ Hán Việt… gợi
lên không khí thiêng liêng, trang trọng của cảnh cho chữ
Tóm lại, đọan văn , Nguyễn Tuân thể hiện niềm tin vững chắc vào con người .Nhà
văn khẳng định: Thiên lương là bản tính tự nhiên của con người.Dù trong hòan cảnh
nào, con người vẫn luôn khao khát hướng tới CHÂN- THIỆN- MỸ Đây chính là
chiều sâu giá trị nhân văn của tác phẩm.
e/Gía trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
- Về nội dung:
+ Niềm tin và sự khảng định của nhà văn về sự chiến thắng của cái đẹp đối với cái
xấu, cái thệin với cái ác.
+ Tấm lòng yêu quý truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc
+ „ Nhân chi sơ tính bản thiện“, hướng thiện, trong chân, tìm mỹ là bản tính tự nhiên
của con người.
- Nghệ thuật :
+ Tình huống truyện độc đáo.

+ Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng cảnh, dựng người.
+ Ngôn ngữ giàu hình ảnh, vừa cổ kính, vừa hiện đại, có nhịp điệu riêng, truyền cảm,,,
=> ‚Chữ người tử tù“ là bài ca bi tráng về sự bất diệt của thiên lương, của tài năng
và nhân cách cao đẹp ở con người : Tài phải gắn với Tâm . Tác phẩm nêu lên bài học
về thái độ tôn trọng tài năng, phẩm giá con người và vẻ đẹp của một tấm lòng trọng
nghĩa , một cách ứng xử cao thượng , đầy tinh thần văn hóa.




II/ Các dạng đề thường gặp :

* ĐỀ 1 ( dạng câu hỏi giáo khoa): ( 2điểm)
Nhận xét ngắn gọn về cách xây dựng tình huống truyện và tình huống kết thúc
truyện trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân .
Định hướng trả lời
- Truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân có nội dung ca ngợi những con người vẫn
giữ thiên lương cao đẹp, dù rơi vào hòan cảnh khốn cùng nghiệt ngã .
- Truyện thành công ở nhiều mặt .Về mặt nghệ thuật, hai đặc sắc nổi bật là cách xây
dựng tình huống truyện và cách kết thúc truyện.

1.Trước hết, tác phẩm được xây dựng trên một tình uống giàu kịch tính :
- Không gian truyện là nhà giam tử tù ;thời gian trong truyện là những ngày cuối
cùng trước khi người tử tù bị giải về kinh để chịu án chém Trong thời gian, không gian
ấy đã diễn ra một cuộc gặp gỡ của 2 con người : Viên quan ngục và kẻ tử tù Huấn Cao.
+ Trên bình diện xã hội , họ là những kẻ đối địch : Huấn Cao, một người cầm đầu
cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, người kia là ngục quan , một viên chức trong bộ
máy cai trị của triều đình PK thối nát.
+Trên bình diện nghệ thuật, họ lại là nhừng người tri kỷ : Một người có nghệ thuật
thư pháp tuyệt vời, còn người kia lại suốt đời ngưỡng mộ cái tài thư pháp của người

ấy. ( kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối nhưng lại khát khao ánh sáng của chữ nghĩa với
Huấn Cao người từ tù có tài viết chữ đẹp nổi tiếng) .Lẽ ra đây phải là cuộc hội ngộ tương
đắc của những người “biệt nhỡn liên tài”, của hai tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp.
- Tình huống này dẫn đến xung đột trong việc lựa chọn của viên quan ngục : Hoặc
làm tròn phận sự thì phải chà đạp lên tấm lòng tri kỷ với cái tài viết chữ đẹp của Huấn
Cao.Hoặc muốn trọn lòng tri kỷ thì phải vượt qua phép tắc của triều đình. Như vậy, nếu
theo cách thứ nhất, thì chiến thắng thuộc về tầm thường; còn theo cách thứ 2, chiến thắng
thuộc về cái „đẹp“.Và rồi, ngục quan đã chọn cách ứng xử thứ 2, chứng tỏ ông là một
người dám sống với lòng biệt nhỡn liên tài.
- Nhưng oái oăm thay, trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tiểu nhân đáng
khinh. Cho đến khi nhận được phiến trát thứ hai đòi giải tử tội về kinh, ông Huấn mới có
dịp nhận ra viên quản ngục là một con người cao đẹp  sự xung đột được mở ra.

2. Kết thúc truyện là cảnh cho chữ và cho lời khuyên giữa lòng ngục tối .Đây là một
cảnh tượng xưa nay chưa từng có, vì :
-Việc cho chữ xưa nay vốn chỉ diễn ra ở nơi thư phòng hoặc những nơi tao nhã.Ở đây
lại diễn ra giữa buồng giam tử tội, nơi ngự trị của các ác.Chính nơi đây, những chữ đẹp
– cái đẹp được sản sinh.
- Vị thế của các nhân vật đều đảo lộn : kẻ có quyền hành thì khúm núm trước người tù
vốn bị tước bỏ mọi thứ quyền.Kẻ có nhiệm vụ cải huấntội phạm thì giờ đây lại thành kính
nhận từng lời dạy bảo về nhân cách , về lẽ sống của người tù - bậc thầy đáng tôn sùng >
Tất cả bị đảo lộn vì cái đẹp của nhân cách và của tài hoa.





* Đề 2: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao
trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.


Dàn ý :
I/ Mở bài :
- Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa- khí phách. Ngay từ Cách mạng tháng Tám, ngòi
bút ấy đã biết hướng thiện, hướng mĩ để tìm ra và lưu giữ lại cho đời những về đẹp của
một thời vang bóng.
- Trong nhiều vẻ đẹp của Vang bóng một thời (xuất bản năm 1940), nổi lên một vẻ đẹp
chói lòa,rực rỡ của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử
tù.
II/ Thân bài :
- Nhân vật Huấn Cao được sáng tạo từ một nguyên mẫu có thực trong lịch sử: đó là
nhà thơ Cao Bá Qúat tài hoa, nổi tiếng viết chữ đẹp một thời. Nguyên mẫu vốn đã đẹp,
nhưng hki đi vào tác phẩm, nhờ điển hình hóa nghệt thuật, đã trở thành một hình tượng
nhân vật lung linh tỏa sáng với ba vẻ đẹp rực rỡ chói lòa: vẻ đẹp của tài hoa, vẻ đẻp của
khí phách và vẻ đẹp của “thiên lương”. Ba vẻ đẹp này không tách rời mà gắn bó chặt
chẽ với nhau để làm nên vẻ đẹp nhân vật lý tưởng của Nguyễn Tuân. Nhà văn, với nghệ
thuật già dặn, khi miêu tả trực tiếp, lúc đặc tả thành ấn tượng nổi bật, luôn đặt nhân vật
Huấn Cao vào những tình huống để thử thách và trong mối quan hệ đối sánh với viên
quản ngục và thầy thơ lại…, tất cả làm nổi bật lên vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao.
1/Vẻ đẹp tài hoa:
- Huấn Cao là một con người tài hoa khác thường. Ông viết chữ rất đẹp. Đây là nghệ
thuật viết chữ Hán, một thú chơi tao nhã của người xưa, gọi là thư pháp. Người ta treo
chữ đẹp trong nhà, nơi trang trọng nhất như treo những bức họa quý.
- Tài viết chữ của Huấn Cao được thể hiện qua :
+ Lời ngợi ca và mong ước cháy bỏng của quản ngục “Chữ ông Huấn Cao đẹp
lắm, vuông lắm”; “Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”.
+ “Tài viết chữ rất nhanh rất đẹp”, được người khắp vùng tỉnh Sơn khen.
+ “Nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời
con người”
 Nét chữ, nết người , thể hiện phẩm chất , nhân cách cao đẹp của Huấn Cao.
2/ Là người có tâm hồn trong sáng cao đẹp :

+ “Không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối”.
+ Ông mới chỉ cho chữ “ba người bạn thân”.
+ Do cảm “ tấm lòng biệt nhỡn liên tài” và hiểu ra tấm lòng tri âm của quản ngục,
nên ông đã cho quản ngục chữ trước khi về kinh chịu án chém.
 Là người trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỷ.Đồng thời thể
hiện lẽ sống của Huấn Cao : Sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.Phụ tấm
lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ.
3/ Là một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang, bất khuất :
+ Huấn Cao dám chống lại triều đình mà ông căm ghét.
+ Hành động “rỗ gông” của Huấn Cao và thái độ “không thèm chấp” lới dọa dẫm của
tên lính áp giải thể hiện sự tự do về tinh thần trong gông cùm.
+ “Thản nhiên nhận rượu” như “việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”  phong
thái ung dung , coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
+ Dưới mắt Huấn Cao, việc những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chỉ là
“những trò tiểu nhân thị oai”.Ông trả lời quản ngục một cách khinh bạc đến điều.
+ Thái độ “lễ phép” ,”xin lĩnh ý”và sự thừa nhận của ngục quan : Huấn Cao là
người “Chọc trời quấy nước”, “đến trên đầu…còn chẳng biết có ai nữa”.
III/ Kết bài :
- Huấn Cao là người có tài , vừa có tâm; hiên ngang , bất khuất trước cái ác, cái
xấu nhưng mềm lòng trước cái thiện, cái đẹp.
- Qua nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm thẩm mĩ tiến bộ :Một nhân
cách đẹp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài.Nhà văn yêu mến, ca
ngợi Huấn Cao và tiếc nuối những người như Huấn Cao
( mà Huấn Cao lại là người kết tinh, lưu giữ vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc) ,
từ đó nhà văn kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến, trên trọng đối với những giá trị văn hóa
truyền thống  tinh thần dân tộc và lòng yêu nước kín đáo của nhà văn.


Đề 3:
Phân tích ý nghĩa tác dụng lời khuyên của ông Huân Cao “Tôi bảo thực đấy,

thầy Qủan nên tìm về nhà quê mà ở đạ, thầy hãy thóat cái nghề này đã, rồi hãy nghĩ đến
chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc
mất cả đời lương thiện đi” (Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân)
Dàn ý
I. Mở bài:
- Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa- khí phách. Ngay từ Cách mạng tháng Tám, ngòi
bút ấy đã biết hướng thiện, hướng mĩ để tìm ra và lưu giữ lại cho đời những về đẹp của
một thời vang bóng.
- Một trong những chi tiết trong truyện ngắn Chữ tử tù là một của Nguyễn Tuân ( in
trong tập truyện Vang bóng một thời(xuất bản năm 1940) ) đã để lại nhiều ấn tượng trong
suy nghĩ của người đọc là lời khuyên của Huấn Cao đối với viên quan ngục : “Tôi bảo
thực đấy, thầy Qủan nên tìm về nhà quê mà ở đạ, thầy hãy thóat cái nghề này đã, rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến
nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
- Phải chăng lời khuyên trên của Huấn Cao có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc với quan
ngục ( nói riêng) và với chúng ta ( nói chung) về quan niệm sống và cách sống?
II. Thân bài:
1/ Nội dung lời khuyên: Huấn Cao khuyên viên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ
bẩn, tìm về chốn thanh tao để tiếp tục sở nguyện cao quý và giữ thiên lương cho lành
vững.
1.Ý nghĩa của lời khuyên:
- Cái đẹp chỉ gắn với con người khi con người giữ được thiên lương.
- Từ nơi đất chết, cái đẹp vẫn có thể nảy sinh.
- Cái đẹp và nhân cách cao quý cùng tồn tại và bổ sung cho nhau phát triển.
=> Là lời di huấn của Huấn Cao ( cũng là của nhà văn ) nhắn tới quản ngục và tất cả
mọi người : Muốn chơi chữ phải giữ lấy thiên lương ; trong môi trường của cái ác, cái
đẹp khó tồn tại vững bền; Chữ nghĩa, thiên lương không thể sống chung với tội ác và
nơi ngục tù đen tối. .
2. Tác dụng của lời khuyên:
- Cảm hóa được con người (Qủan ngục đã nhận thức đúng về một con người có thiên

lương trong sáng, về giá trị của cái đẹp nên đã tiếp nhận lời khuyên của Huấn Cao một
cách thành tâm, đầy xúc động): “Ngục quản cảm động, vái người tử tù một vái, chắp
tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghen ngào : Kẻ mê muội
này xin bãi lĩnh”.  Bằng con đường của trái tim, sức mạnh ấy càng được nhân lên
gấp bội.
- Khẳng định thiên lương trong sáng của nhân vật Huấn Cao.
III. Kết bài:
- Có thể nói, Nguyễn Tuân đã chọn một cách kết thúc tác phẩm thật sâu sắc và ý nghĩa
bằng lời khuyên của người tử tù với viên cai ngục.
- Lời khuyên ấy đầy tình người và đã trở thành sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu
vẫn cam chịu nô lệ , giúp cho một con người lầm đường sẽ trở về với cuộc sống lương
thiện.
- Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quan ngục đẽ nêu bật sự chiến thắng của
cái đẹp , cái thiện, của thiên lương con người.



*Đề 4 : Phân tích nhân vật viên quan ngục
trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

I/ Mở bài:
- Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa- khí phách. Ngay từ Cách mạng tháng Tám, ngòi
bút ấy đã biết hướng thiện, hướng mĩ để tìm ra và lưu giữ lại cho đời những về đẹp của
một thời vang bóng.
- Trong truyện ngắn Chữ tử tù là của Nguyễn Tuân ( in trong tập truyện Vang bóng
một thời (xuất bản năm 1940) ) , bên cạnh hình tượng nhân vật Huấn Cao ( một người có
vẻ đẹp tài hoa, khí phách, có thiên lương), thì hình ảnh của viên quan ngục cũng để lại
rất nhiều tình cảm cho người đọc về một con người biết say mê cái đẹp và quý trong cái
đẹp, có tầm lòng “biết giá người , biết trọng người ngay”.


II/ Thân bài :
1/ Là một người có tâm hồn nghệ sĩ, say mê và quý trọng cái đẹp : Thú chơi chữ,
“sở nguyện cao quý” là được treo ở nhà riêng một đôi câu đối do tay ông Huấn viết.
2/ Là người có tấm lòng “ biết giá người, biết trong người ngay”, cảm phục tài năng
và nhân cách của Huấn Cao với một thái độ cung kính, “biệt nhỡn liên tài” đối với ông
Huấn.
- Trong tình huống gặp ông Huấn, người mà mình ngưỡng mộ tại nhà ngục mình cai
quản, ngục quan đã rất băn khoăn,trăn trở :
+ Hoặc làm tròn phận sự thì phải chà đạp lên tấm lòng tri kỷ với cái tài viết chữ đẹp
của Huấn Cao.
+ Hoặc muốn trọn lòng tri kỷ thì phải vượt qua phép tắc của triều đình.
- Như vậy, nếu theo cách thứ nhất, thì chiến thắng thuộc về tầm thường; còn theo cách
thứ 2, chiến thắng thuộc về cái „đẹp“.
- Và rồi, ngục quan đã chọn cách ứng xử thứ 2, chứng tỏ ông là một người dám sống
với lòng biệt nhỡn liên tài.
=> Chính phẩm chất này của viên quan ngục đã khiến Huấn Cao cảm kích coi là “một
tấm lòng trong thiên hạ”.Nhà văn đã xem ngục quan là “ một thanh âm trong trẻo
chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

III/ Kết bài:
Tóm lại, có thể nói qua nhân vật viên quan ngục, một lần nữa chúng ta thấy được
quan niệm nghệ thuật của nhà văn:
+ Trong mỗi con người đều có một người nghệ sĩ , đều ẩn chứa tâm hồn yêu cái đẹp,
cái tài.Không phải ai cũng xấu hết; bên cạnh những cái chưa tốt (phần “ác quỷ”), mỗi con
người còn có “thiên lương”( phần “thiên thần”).
+ Có khi , có lúc , cái đẹp tồn tại ở trong môi trường của cái ác, cái xấu.Nhưng không
vì thế mà nó lụi tàn; trái lại nó càng mạnh mẽ và bền bỉ.Nó như hoa sen mọc trên đầm lầy
vậy.








* Đề 5 :
Cảnh Huấn Cao cho chữ viên quan ngục ở cuối tác phẩm Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân là sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng
đối với sự phàm tục nhơ bẩn; của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ.
Hãy phân tích cảnh Huấn Cao cho chữ để làm sáng tỏ điều đó !
I/ Mở bài:
- Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao
đã được bộc lộ sáng ngời trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quan ngục .
- Đây không đơn thuần là cảnh cho chữ , mà “đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối
với bóng tối, của cái đẹp , cái cao thượng đối với sự phàm tục nhơ bẩn, của tinh thần bất
khuất trước thái độ cam chịu nô lệ”
II/Thân bài:
1/ Sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối:
- Mở đầu cảnh cho chữ , Nguyễn Tuân đã viết đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có”.Vì : Bình thường sẽ không có cảnh cho chữ đẹp và trang nghiêm trong chốn tù
ngục tăm tối và dơ bẩn.Nhưng ở đây lại có, vì sự chiến thắng của “thiên lương”con
người .Với nghệ thuật đặc tả tài tình, với thủ pháp đối lập sắc sảo, nhà văn đã dựng lên
những cảnh tượng đối lập để nêu bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của sự chiến thắng đó.
- Cảnh cho chữ diễn ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục.Nhà ngục đã tối tăm, lại vào
lúc đêm khuya khoăt, càng dày đặc bóng tối.“Trong một không khí khói tỏa như đám
cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc ”  ánh sáng của bó đuốc đã như xua
tan,đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam.Miêu tả ánh sáng của bó đuốc chính
là dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Tuân, bởi lẽ :
+ Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật
lý, mà sâu xa hơn , khái quát hơn, đây chính là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của

con người : đó là ánh sáng của lương tri, của thiên lương – còn bóng tối , đó là bạo tàn và
tội ác.
+ Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tối của bạo tàn chính tại tù
ngục này.Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc
sống lương thiện.
2/ Sự chiến thắng của cái đẹp,cái cao thương đối với cái phàm tục, nhơ bẩn.
- Cái phàm tục, nhơ bẩn ở đây được hiện lên với “buồng giam chật hẹp, ẩm ướt, tường
đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”.
- Còn cái đẹp, cái cao thượng được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa
tượng trưng, đó là : màu trắng tinh của phiến lụa óng và mùi thơm ở chậu mực bốc
lên.Phải chăng, màu trắng của phiến lụa tượng trưng cho sự tinh khiết, còn mùi thơm
của thoi mực là hương thơm của tình người, tình đời.
 Sự đối lập trên đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự
phàm tục và nhơ bẩn .
3/Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ:
- Trong cảnh cho chữ, ta thấy giữa người cho chữ và người nhận chữ có sự thay bậc,
đổi ngôi :
+ Người tử tù trở thành người chủ ( đường hòang, hiên ngang,ung dung,thanh thản ) sản
sinh cái đẹp và ban phát cái đẹp.
+ Còn bọn quản lý nhà ngục lại khúm núm, sợ sệt , sợ hãi và xúc động trước những lời
khuyên dạy của tù nhân.
III/ Kết bài:
Tóm lại, sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối
với sự phàm tục nhơ bẩn; của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô được khắc
họa đậm nét.Cảnh cho chữ vì thế mà như một buổi thọ giáo của những người sống
đẹp và muốn sống đẹp.Lời khuyên của Huấn Cao chẳng khác nào là lời di huấn thiêng
liêng cho người lầm đường về một cách sống, một cách thưởng thức nghệ thuật CHƠI
CHỮ ĐẸP.
- Đọan văn cho chữ cuối tác phẩm góp phần thể hiện ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân
đạo sâu sắc của tác phẩm. .

ĐỌAN TRÍCH “HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA”
( Trích tiểu thuyết “Số Đỏ” của Vũ Trong Phụng)


I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG:

1/ Vài nét về nhà văn Vũ Trong Phụng (1912-1939) :
- Vũ Trong Phụng quê ở Hà Nội, là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất
sắc của văn học Việt Nam trước CMT8. Ông xuất thân trong một gia đình “nghèo gia
truyền” ( cách nói của nhà văn Ngô Tất Tố). Cuộc sống của ông chật vật, bấp bênh bằng
nghề viết văn , làm báo .
- Sống ở đất Hà Thành, Vũ Trong Phụng tận mắt chứng kiến sinh họat của những tầng
lớp thượng lưu chạy theo văn minh âu hóa  ông tỏ thái độ căm ghét và bất mãn với xã
hội đương thời.
- Vũ Trong Phụng là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào.Tác phẩm của ông đa dạng về
thể loại , đặc biệt ông thành công ở thể loại phóng sự  được mệnh danh là “Vua phóng
sự đất Bắc”.
2/ Tiểu thuyết “Số đỏ”:
a/Hòan cảnh sáng tác : Tác phẩm được ra đời vào năm 1936, năm đầu của Mặt trận
dân chủ Đông Dương, không khí đấu tranh dân chủ sôi nổi.Chế độ kiểm duyệt sách báo
khắt khe của chính quyền thực dân tạm thời được bãi bỏ.Bối cảnh ấy đã tạo điều kiện cho
các nhà văn công khai, mạnh mẽ vạch trần thực chất thối nát , giả dối, bịp bợm của các
phong trào Âu hóa, Thể thao, Vui vẻ trẻ trung…được bọn thống trị khuyến khích và lợi
dụng đã từng lên cơn sốt vào những năm 30 của thế kỷ XX.
b.Cốt truyện :
Xuân là một đứa trẻ mồ côi lang thang kiếm sống bằng nhiều nghề :trèo me, hái sấu,
nhặt banh , quảng cáo, bán thuốc lậu. Nhờ số đỏ, tình cờ Xuân lọt vào mắt xanh của bà
Phó Đoan- một mụ me Tây dâm đãng.Từ đó Xuân từng bước nhập cuộc vào thế giới
thượng lưu của cái gia đình đại tư sản thối nát của cụ cố Hồng với một đám con cháu như
:Vợ chồng ông Văn Minh, Vợ chồng cô Hòang Hôn, Cô Tuyết, cậu Tú Tân …và các

nhân vật của thế giới Âu hóa như : Tuyt PN, Sư tăng Phú …Thế rồi, Xuân đã dần trở
thành danh y và anh hùng cưu quốc, làm cho cả xã hội phải kính nể.
c/ Gía trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
- Về nội dung :
+ Tác phẩm là một bức tranh hiện thực về XH nửa Thực dân, nửa phong kiến đang
chạy theo lối sống Văn minh Âu hóa.
+ Từ đó, nhà văn đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống
nhố nhăng , đồi bại đương thời.

×