Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của ong đực và ong thợ apis cerana nuôi tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 130 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


i

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
0





ĐỖ THỊ THANH VÂN






NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH
SẢN CỦA ONG ĐỰC VÀ ONG THỢ APIS CERANA
NUÔI TẠI THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.40


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN DUY HOAN







THÁI NGUYÊN - 2010




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu
và kết quả trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chƣa đƣợc sử dụng để
bảo vệ ở một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã đƣợc cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.


TÁC GIẢ





Đỗ Thị Thanh Vân






















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ii

LỜI CẢM ƠN

Được sự nhất trí của Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm khoa Sau Đại học
và thầy giáo hướng dẫn tôi đã hoàn thành luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của Ban
Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm, các thầy cô trong khoa Sau Đại học,
khoa Chăn nuôi - thú y, Viện khoa học sự sống, Công ty Ong Trung ương và
các ban ngành có liên quan tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Đặc biệt tôi xin trân trọng cảm ơn sự chỉ bảo giúp đỡ tận tình của thầy
giáo hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Duy Hoan.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của gia đình,
bạn bè đã tạo các điều kiện về vật chất và tinh thần để tôi hoàn thành bản
luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 10 năm 2010
TÁC GIẢ



Đỗ Thị Thanh Vân














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU vi
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ vii
DANH MỤC CÁC ẢNH viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích của đề tài 3
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Sơ lƣợc lịch sử và tình hình nuôi ong trên thế giới và ở Việt Nam 4
1.1.1. Sơ lƣợc lịch sử và tình hình nuôi ong trên thế giới 4
1.1.2. Sơ lƣợc lịch sử và tình hình nuôi ong ở Việt Nam 8
1.2. Một số nghiên cứu về hình thái, cấu tạo cơ thể ong mật trong và ngoài nƣớc 10
1.2.1. Nghiên cứu về hình thái ong mật trên thế giới 10

1.2.1.1. Lịch sử hệ thống học và phân loại ong mật 10
1.2.1.2. Hình thái và phân loại ong mật 10
1.2.1.3. Phân bố và vị trí phân loại của ong Apis cerana 12
1.2.2. Nghiên cứu hình thái ong Apis cerana ở trong nƣớc 12
1.2.3. Đặc điểm hình thái, cấu tạo cơ thể ong Apis cerana 13
1.2.3.1. Hình thái cơ thể 13
1.2.3.2. Các cơ quan bên trong cơ thể ong 14
1.3. Một số đặc điểm sinh vật học của ong nội Apis cerana 15
1.3.1. Ong chúa 16
1.3.2. Ong đực 20
1.3.3. Ong thợ 25
1.3.4. Một số hoạt động chủ yếu của đàn ong 30
1.3.5. Mối quan hệ giữa các đặc điểm sinh học với năng suất, chất
lƣợng mật ong 32
1.4. Cơ sở khoa học của chọn giống ong mật 35
1.4.1. Ong đực đơn bội, ong đực lƣỡng bội và vấn đề cận huyết của đàn ong 35
1.4.2. Cơ sở di truyền 36
1.4.3. Kiểm soát giao phối và ứng dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo 37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iv
1.5. Điều kiện tự nhiên và tình hình nuôi ong trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên 39
1.5.1. Điều kiện tự nhiên 39
1.5.2. Các cây hoa nguồn mật chính ở thành phố Thái Nguyên 40
1.5.3. Tình hình nuôi ong trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 41
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 43
2.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 43

2.2. Nội dung nghiên cứu 43
2.3. Các chỉ tiêu theo dõi và phƣơng pháp theo dõi các chỉ tiêu 44
2.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu 47
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 48
3.1. Ảnh hƣởng của lƣợng mật, phấn dự trữ và quy mô đàn đến sự hình
thành ong đực 48
3.1.1. Ảnh hƣởng của lƣợng mật, phấn dự trữ và quy mô đàn đến sự
hình thành ong đực vụ Xuân - Hè 48
3.1.2. Ảnh hƣởng của lƣợng mật, phấn dự trữ và quy mô đàn đến sự
hình thành ong đực vụ Thu - Đông 49
3.2. Ảnh hƣởng của mùa vụ đến sự hình thành ong đực 52
3.3. Kích thƣớc và thể tích lỗ tổ ong đực 55
3.4. Thời gian phát dục từ trứng đến khi nở của ong đực 56
3.5. Tỷ lệ nuôi ấu trùng thành công của ong đực 58
3.6. Khối lƣợng ong đực khi mới nở và trƣởng thành 60
3.7. Số lƣợng tinh trùng của ong đực 62
3.8. Tuổi thọ của ong đực 63
3.9. Kích thƣớc và thể tích lỗ tổ ong thợ 65
3.10. Thời gian phát dục từ trứng đến khi nở của ong thợ 67
3.11. Khối lƣợng ong thợ 69
3.12. Thời gian ong thợ đẻ trứng 70
3.13. So sánh một số đặc điểm giữa trứng của ong thợ và trứng của ong chúa 72
3.14. Tuổi thọ của ong thợ 74
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 76
1. Kết luận 76
2. Kiến nghị 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
I. Tài liệu tiếng Việt 79
II. Tài liệu tiếng Anh 81





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
A. cerana : Apis cerana
A. mellifera: Apis mellifera
CNĐVQH : Chăn nuôi Động vật Quý hiếm
ĐHNL : Đại học Nông Lâm
cs : Cộng sự
PTNT : Phát triển nông thôn





















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1: Tóm tắt các giai đoạn phát dục của ong A.cerana 27
Bảng 1.2: Sự phân công lao động theo lứa tuổi ong thợ 29
Bảng 3.1a: Ảnh hƣởng của lƣợng mật, phấn dự trữ và quy mô đàn đến
sự hình thành ong đực vụ Xuân - Hè 48
Bảng 3.1b: Ảnh hƣởng của lƣợng mật, phấn dự trữ và quy mô đàn đến
sự hình thành ong đực vụ Thu - Đông 50
Bảng 3.2: Ảnh hƣởng của mùa vụ đến sự hình thành ong đực 52
Bảng 3.3: Kích thƣớc và thể tích lỗ tổ ong đực 55
Bảng 3.4: Thời gian phát dục từ trứng đến khi nở của ong đực 57
Bảng 3.5: Tỷ lệ nuôi ấu trùng thành công của ong đực 59
Bảng 3.6: Khối lƣợng ong đực khi mới nở và trƣởng thành 60
Bảng 3.7: Số lƣợng tinh trùng của ong đực 62
Bảng 3.8: Tuổi thọ của ong đực 64
Bảng 3.9: Kích thƣớc và thể tích lỗ tổ ong thợ 65
Bảng 3.10: Thời gian phát dục từ trứng đến khi nở của ong thợ 67
Bảng 3.11: Khối lƣợng ong thợ khi mới nở và trƣởng thành 69
Bảng 3.12: Thời gian ong thợ đẻ trứng sau khi tách ong chúa 71
Bảng 3.13: So sánh một số đặc điểm trứng ong thợ và trứng ong chúa 72
Bảng 3.14: Tuổi thọ của ong thợ 74








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
Trang
Biểu đồ 3.1: Ảnh hƣởng của lƣợng mật, phấn dự trữ và quy mô đàn đến
sự hình thành ong đực 51
Đồ thị 3.1: Ảnh hƣởng của mùa vụ đến sự hình thành ong đực 52
Biểu đồ 3.2: Thời gian phát dục từ trứng đến khi nở của ong đực 57
Biểu đồ 3.3: Thời gian phát dục từ trứng đến khi nở của ong thợ 68






















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


viii
DANH MỤC CÁC ẢNH
Trang
Hình 1.1: Hình thái, cấu tạo cơ thể ong mật 13
Hình 1.2: Các cấp ong trong đàn 16
Hình 1.3: Di trùng ong 19
Hình 1.4: Ong thợ Apis cerana 25
Hình 1.5: Sự phát triển của các cấp ong 28
Hình 2.1: Cấu tạo buồng đếm Newbauer qua kính hiển vi 46
Hình 3.1: Đàn ong thí nghiệm 51
Hình 3.2: Tiến hành đo kích thƣớc và thể tích lỗ tổ ong 56
Hình 3.3: Theo dõi, kiểm tra đàn ong thí nghiệm 60
Hình 3.4: Cân khối lƣợng ong thí nghiệm 62
Hình 3.5: Phân biệt vít nắp của ong thợ và ong đực 69
Hình 3.6: Phân biệt trứng ong thợ và trứng ong chúa 74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nƣớc nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa,
trải dài trên 15 vĩ độ nên thảm thực vật rất phong phú và đa dạng, bốn mùa
hoa nở. Đây là điều kiện tốt để nghề nuôi ong phát triển. Chính vì vậy, nghề
nuôi ong đã có từ rất lâu đời ở nƣớc ta.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam,
trong những năm gần đây nghề nuôi ong có những bƣớc phát triển tiến bộ, đã
và đang trở thành ngành sản xuất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và
kinh tế nông thôn Việt Nam.
Ong nội Apis cerana là loài ong mật bản địa có ngòi đốt ở Việt Nam,
có thể quản lý, thuần hoá và đem lại giá trị kinh tế cao từ các sản phẩm của
chúng nhƣ: mật ong, phấn hoa, sữa ong chúa, sáp ong và keo ong. Đây là
những sản phẩm sinh học độc đáo, có giá trị dinh dƣỡng rất cao dùng để bồi
dƣỡng sức khoẻ cho con ngƣời, bài thuốc y học cổ truyền có giá trị chữa bệnh
cao, là các nguyên liệu để chế biến các mỹ phẩm cao cấp và nhiều sản phẩm
của ngành công nghiệp khác. Ong mật ít bệnh hơn các giống vật nuôi khác, kỹ
thuật tạo giống nhân đàn đơn giản. Thực tế, từ một đàn ong nội địa trong một
năm có thể cho từ 2 - 40 kg mật ong, 0,2 - 0,3 kg sữa chúa (Nguyễn Duy
Hoan và cs, 2008) [9].
Ngoài ra, con ong còn có vai trò hết sức quan trọng là thụ phấn chéo
cho các cây trồng và cây tự nhiên, nhờ đó mà năng suất và phẩm chất của các
cây nông - lâm nghiệp tăng lên rõ rệt, nó cũng góp phần bảo vệ sự đa dạng
của các cây trồng tự nhiên, sự bền vững của môi trƣờng sinh thái. Giá trị kinh
tế từ hoạt động thụ phấn của ong cho cây trồng cao hơn rất nhiều lần (trên 143

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



2
lần) so với giá trị kinh tế từ các sản phẩm mà chúng mang lại (Sivaram V.,
2004) [31].
Ở nƣớc ta, 6 tỉnh Việt Bắc đƣợc coi là cái nôi để phát triển nghề nuôi
ong nội, trong đó Thái Nguyên - Thủ đô gió ngàn Việt Bắc với nghề nuôi ong
đã đƣợc chú trọng từ lâu. Từ năm 1996 đến nay nhờ các chƣơng trình, dự án
phát triển nuôi ong mật, góp phần xoá đói giảm nghèo, các tổ chức trong và
ngoài nƣớc: CIDSE (Đức) và CECI (Canada) hay chƣơng trình nâng cao chất
lƣợng đàn ong mật của Cục Khuyến nông - Khuyến lâm, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã góp phần thúc đẩy nghề nuôi ong ở Thái Nguyên.
Hiệu quả của chƣơng trình này đã đem lại cho Thái Nguyên hơn 1000 đàn
ong đƣợc nuôi tại các hộ với năng suất 12 - 15kg/thùng (Phùng Đức Hoàn,
2003) [10].
Loài ong nội Apis cerana có đặc tính dễ thích nghi, cần cù chăm chỉ,
không đòi hỏi nguồn hoa tập trung nhƣng năng suất thấp, tính tụ đàn không
cao, dễ bốc bay, tốc độ tăng đàn chậm,…
Con ong là đề tài nghiên cứu của rất nhiều ngƣời, trong đó đặc điểm
sinh vật học của ong nội Apis cerana từ lâu đã thu hút đƣợc sự chú ý của
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Trong quá trình
nghiên cứu nhiều vấn đề lý thú về mặt sinh học của loài ong này đã dần dần
đƣợc hé mở làm căn cứ cho việc từng bƣớc hoàn thiện quy trình kỹ thuật chăn
nuôi góp phần nâng cao năng suất, chất lƣợng và hiệu quả kinh tế của nghề
nuôi ong. Tuy đã đƣợc nghiên cứu song còn rất nhiều vấn đề, đặc biệt là các
tập tính sinh học của từng cấp ong trong đàn ong vẫn còn là những câu hỏi
còn bỏ ngỏ đối với không chỉ ngƣời nuôi ong mà cả với các nhà khoa học của
Việt Nam và thế giới. Ong mật có đặc tính sống thành xã hội, đàn ong là một
đơn vị sinh học hoàn chỉnh bao gồm 3 loại hình ong là ong chúa, ong đực và
ong thợ. Để duy trì nòi giống, ngoài vai trò của ong chúa phải kể đến sự tham


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
gia của ong đực để đảm bảo sự tồn tại của cả đàn ong. Ong thợ là lực lƣợng
lao động trong đàn, sự phát triển hay suy vong của đàn ong một phần cũng do
chất lƣợng của lực lƣợng này quyết định.
Để bổ sung thêm những hiểu biết còn chƣa đƣợc nghiên cứu đầy đủ về
ong đực và ong thợ, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm
sinh học sinh sản của ong đực và ong thợ Apis cerana nuôi tại Thái
Nguyên”.
2. Mục đích của đề tài
Xác định đầy đủ và có hệ thống các thông tin về các đặc điểm sinh học
sinh sản của ong đực và ong thợ Apis cerana làm căn cứ khoa học phục vụ
cho giảng dạy, học tập và xây dựng các biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao
năng suất, chất lƣợng và hiệu quả nghề nuôi ong.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài hoàn thành sẽ bổ sung một cách đầy đủ các thông tin về các đặc
điểm sinh học sinh sản của ong đực và ong thợ Apis cerana nuôi tại Thái
Nguyên.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Giải quyết đƣợc các vấn đề số liệu, thông tin về các đặc điểm sinh học
sinh sản của ong đực và ong thợ Apis cerana nuôi tại Thái Nguyên, nhằm bổ
sung một cách đầy đủ và hoàn thiện về quy trình, kỹ thuật nuôi ong trong
nhân dân.







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Sơ lƣợc lịch sử và tình hình nuôi ong trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1. Sơ lược lịch sử và tình hình nuôi ong trên thế giới
Theo Eva Crane (1990) [8] từ xa xƣa con ngƣời đã biết săn ong lấy mật
để thu đƣợc các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của họ và tập quán
săn bắt ong rừng vẫn còn duy trì tới ngày nay, việc khai thác mật ong đƣợc
tiến hành dƣới nhiều hình thức khác nhau. Những tổ ong mà ngƣời ta thƣờng
săn lấy mật là thuộc giống ong Apis, mật ong đƣợc coi là một sản phẩm quý
hiếm của tự nhiên ban tặng cho con ngƣời. Từ việc quan sát và khai thác mật
ong tự nhiên, dần dần con ngƣời đã biết sử dụng đõ để nuôi ong, việc sử dụng
đõ bắt đầu ít nhất từ 4.500 năm nay.
Hiểu biết về lịch sử săn ong và nuôi ong của chúng ta đã tăng lên rất
nhiều trong mấy thập kỷ qua nhờ kết quả của các công trình nghiên cứu khảo
cổ, ngôn ngữ, qua những văn bản lƣu trữ và nhờ giao thông thuận lợi cho
phép ngƣời ta đi đến khắp nơi trên trái đất. Ở miền Đông Tây Ban Nha ngƣời
ta đã phát hiện một bức vẽ trên vách đá từ thời kỳ đồ đá trƣớc công nguyên
khoảng 6.000 năm. Ngƣời Ai Cập đã có nghề nuôi ong Apis mellifera từ
5.000 năm trƣớc công nguyên. Vào khoảng năm 2.500 năm trƣớc công
nguyên, ở Ai Cập cổ đại đã thực sự hình thành một nghề nuôi ong thịnh
vƣợng. Những tƣ liệu sớm nhất ghi chép về nuôi ong trong đõ đƣợc ra đời
khoảng 1.500 năm trƣớc công nguyên: đó là một phần của bộ luật Hittile ghi
trên những phiến đá sét, tìm thấy ở cao nguyên Anatoli không cây cối, cách
Ai Cập 100 km về phía Bắc. Ong Apis mellifera đƣợc nuôi trong các đõ bằng

đất nung, gỗ, đất bùn, sành,… Những đõ ong ra đời sớm nhất vào khoảng
những năm 2.450 trƣớc công nguyên đƣợc thể hiện trong cảnh lấy mật ong,
một phần của bức hội họa tại một ngôi đền thờ mặt trời Ai Cập, gần vùng hạ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
sông Nil. Có 4 bức tranh tƣơng tự đã đƣợc phát hiện, mô tả mật ong đƣợc cất
trong những bình chứa, những trại ong cổ truyền có hàng trăm đõ ong với
cảnh lấy mật y nhƣ ngày nay còn phổ biến ở Ai Cập và kiểu đõ hình trụ đặt
nằm ngang cổ truyền ngày nay vẫn đƣợc sử dụng nhiều nơi trên thế giới:
Châu Phi, Nam Hy Lạp, các đảo vùng Địa Trung Hải, từ miền Nam Balkan
đến Tiểu Á, từ Nam Ấn Độ đến Kasmia, một phần Afghanistan, Nam Thái
Lan, Bali - Indonexia (Eva Crane, 1990) [8].
Lịch sử nuôi ong Apis cerana ở châu Á cũng lâu đời nhƣ lịch sử nuôi
ong Apis mellifera ở châu Âu, nhƣ ở Trung Quốc là hơn 3.000 năm, Ấn Độ
2.000 năm (Shahid, 1992; Punchihewa, 1994) (trích Nguyễn Ngọc Vững,
2006) [26]. Nghề nuôi ong cổ truyền vẫn đƣợc tồn tại ở các nƣớc và hầu nhƣ
không thay đổi so với đƣợc miêu tả trong các tài liệu cũ. Tất cả các loại đõ
đƣợc làm do con ngƣời bắt chƣớc tập tính làm tổ tự nhiên trong các hốc cây,
hốc đá. Các loại đõ đều giống nhau ở chỗ ong xây các bánh tổ gắn chặt vào
phía trên của đõ nên ngƣời ta gọi là đõ có bánh tổ cố định. Các đõ thƣờng
đƣợc đặt xung quanh nhà, dƣới gốc cây, trên giá đỡ, trong rừng hoặc trên các
chãng của các cành cây to.
Sự phát triển của các kiểu thùng ong góp phần quan trọng đối với nghề
nuôi ong và có thể bắt đầu ở Hy Lạp, từ những mô tả của Georg Wheler
(1682) về kiểu đõ có dạng bình hoa lớn sử dụng ở Hy Lạp, có các thanh xà
đặt ở phía trên để ong xây bánh tổ, những thanh ngang không gắn chặt vào đõ
nên có thể lấy bánh tổ ra đƣợc, khoảng cách giữa các tâm của các thanh xà

bằng khoảng cách ở bánh tổ tự nhiên. Các tác giả đã nghiên cứu và nhận thấy
tầm quan trọng của khoảng không gian đều giữa các cầu ong và dựa trên
những hiểu biết đó, đã thiết kế ra những thùng ong mới (Eva Crane, 1990) [8].
Năm 1649, William Me ở Anh đã làm thùng ong bằng gỗ nhiều tầng
chồng lên nhau nhƣng không có xà hay khung cầu. Năm 1675 Gedde cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
sáng tạo ra kiểu thùng tƣơng tự nhƣng mỗi tầng có khung cầu để ong gắn
bánh tổ. F. Huber (1792) tạo ra kiểu đõ dạng “quyển sách”. F.I. Prokopovich
(1806), J. Dziezion (1848) tạo ra các kiểu đõ có khung cầu cố định gắn vào
thành thùng (Eva Crane, 1990) [8].
Kiểu thùng Stewarton do Robin Ker ở Scotland sáng tạo năm 1819 có xà
cầu cố định. Đến năm 1844, Augustus Munn ở Anh đã làm một kiểu thùng tầng
có khung cầu. Năm 1851, giáo sĩ L. L. Langstroth (Philadelphia, Mỹ) (trích
Nguyễn Ngọc Vững, 2006) [26] đã sáng tạo ra kiểu thùng có khung cầu di động
nhờ phát hiện ra khoảng cách con ong. Với kiểu thùng này rất thuận tiện cho
việc nuôi ong, nhờ áp dụng nó mà nghề nuôi ong A. mellifera đƣợc phát triển
rất nhanh ở châu Âu và Bắc Mỹ, sau đó phát triển tới các châu khác trên thế
giới (Eva Crane, 1990) [8]. Kiểu thùng này cho phép ngƣời nuôi ong kiểm tra
tình hình đàn ong, từ đó tác động những biện pháp kỹ thuật một cách dễ dàng,
cho phép trao đổi giữa các đàn ong với nhau và giữa ngƣời nuôi ong khác.
Ngày nay, kiểu thùng này vẫn đang đƣợc áp dụng phổ biến ở khắp nơi và đƣợc
cải tiến tuỳ theo yêu cầu của ngƣời sử dụng.
Năm 1863, Dadant đã xuất bản sách về những cải tiến và sáng kiến của
ông, nhờ đó nhiều sáng kiến khác đƣợc nảy sinh ra từ nƣớc Mỹ, trong đó quan
trọng nhất là sáng kiến làm những tấm sáp in hình lỗ tổ ong hay còn gọi là
tầng chân, theo đó là các khung cầu đƣợc căng dây thép có gắn tầng chân, có

khả năng chịu đƣợc sức văng khi quay mật ở thùng ly tâm (trích Nguyễn Ngọc
Vững, 2006) [26].
Eva Crane (1990) [8] đã tổng kết tình hình nuôi ong ở châu Âu và trên
thế giới nhƣ sau: Ở châu Âu, tỷ lệ cây xanh cao hơn các lục địa khác, có
truyền thống nuôi ong lâu đời nên nghề nuôi ong ở châu Âu rất tập trung, có
mật độ 3,2 đàn/km
2
, với tổng số 13 - 15 triệu đàn ong đều là giống ong A.
mellifera, sản lƣợng mật là 123 - 165 ngàn tấn, năng suất mật bình quân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
11kg/đàn. Nƣớc Mỹ có 4,3 triệu đàn ong thuộc loài A. mellifera, năng suất
năm 1984 đạt 17kg/đàn, tổng sản lƣợng 75.000 tấn. Canada có gần 700.000
đàn ong thuộc loài A. mellifera, sản lƣợng mật đạt 43.000 tấn, năng suất bình
quân cao nhất trên thế giới 63kg/đàn. Ở châu Đại Dƣơng Australia có nghề
nuôi ong A. mellifera phát triển với hơn 500.000 đàn ong đạt năng suất
46.5kg/đàn. Châu Phi có các chủng ong đều thuộc loài ong A. mellifera. Bằng
chứng sớm nhất về nghề nuôi ong của nhân loại đƣợc phát hiện ở đây 4.500
năm trƣớc. Etopia có tới 2,52 triệu đàn, năng suất mật 8,3kg/đàn. Kenia có 2,1
triệu đàn, năng suất mật 5,7kg/đàn.
Hiện nay, loài ong A. mellifera đƣợc du nhập vào rất nhiều vùng khác
nhau và đƣợc những ngƣời nuôi ong trên khắp thế giới sử dụng. Loài ong A.
mellifera châu Âu có ƣu thế hơn các loài ong nhiệt đới vì chúng sản xuất mật
tốt hơn, hiền lành dễ chăm sóc quản lý, có sức sinh sản cao, thế đàn lớn,
không phản ứng bốc bay với vụ thiếu thức ăn, có màu vàng đƣợc nhiều ngƣời
ƣa chuộng. Ngƣời ta tính rằng nuôi giống ong châu Âu phải chi phí nhiều hơn
giống ong châu Á, tuy nhiên nó lại cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Chính vì vậy

từ châu Âu chúng đƣợc du nhập vào nhiều châu lục khác (trích Nguyễn Thị
Thắm, 2010) [19].
Eva Crane (1990) [8] đã mô tả quá trình nhập ong A. mellifera châu Âu
vào vùng nhiệt đới châu Á nhƣ sau: Ở Trung Quốc ong A. mellifera đƣợc
nhập lần đầu vào năm 1913. Bảy mƣơi năm nay ong Ý đã thích nghi và đƣợc
sử dụng chính để sản xuất mật hàng hoá ở khu vực Á nhiệt đới. Việc nhập
ong A. mellifera là một cuộc cách mạng trong nghề nuôi ong ở Trung Quốc,
làm cho Trung Quốc trở thành nƣớc có nghề nuôi ong đứng thứ hai và là nƣớc
xuất khẩu nhiều mật nhất thế giới với hơn 5 triệu đàn ong A. mellifera, hàng
năm xuất khẩu 160 ngàn tấn mật. Thái Lan đã nhập ong A. mellifera nuôi tại
Chiềng Mai, nơi đây có cây nhãn là cây nguồn mật chính và cho sản lƣợng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
cao. Tại Miến Điện, vùng trồng cây Guizotia absyssinica, cây hƣớng dƣơng,
ong A. mellifera đã đƣợc nhập với số lƣợng lớn để phù hợp với nguồn mật và
phấn từ hai loại cây trồng này (trích Nguyễn Thị Thắm, 2010) [19].
1.1.2. Sơ lược lịch sử và tình hình nuôi ong ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghề nuôi ong đã đƣợc khai thác và nuôi từ lâu đời. Ngay
từ thế kỷ thứ VIII, thƣợng thƣ phụ trách về nông nghiệp Phạm Lê đã viết tài
liệu bằng chữ Hán về kỹ thuật nuôi ong (Phùng Hữu Chính, Vũ Văn Luyện,
1999) [3]. Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã có một số nhận xét về đặc điểm sinh
học của đàn ong. Trải qua quá trình tích luỹ kinh nghiệm và cải tiến kỹ thuật,
nghề nuôi ong Việt Nam đã dần dần đƣợc cải tiến từ đơn giản đến hoàn thiện
nhƣ ngày nay (Lê Quý Đôn, 1973) [7].
Ngƣời Việt Nam đã có thói quen đi lấy mật, săn ong từ rất lâu dựa vào
kinh nghiệm qua nhiều đời đƣợc truyền lại, họ khai thác từ những loại ong
mật khác nhau nhƣ: ong ruồi A. florea, ong nội A. cerana, ong khoái A.

dorsata, ong đá A. laboriosa. Giống ong A. cerana rất phổ biến ở tự nhiên, có
ở khắp đất nƣớc, thƣờng làm tổ ở nơi kín nhƣ trong hốc cây, hốc đá, trong các
hang, đôi khi cả trong các tổ mối. Dựa vào những kinh nghiệm thực tế và đặc
điểm tự nhiên của ong nội, các kiểu nuôi ong dần đƣợc hình thành và không
ngừng đƣợc cải tiến từ kiểu đõ nằm ngang chuyển sang kiểu đõ đứng rồi đõ
đứng có thanh xà di động và cuối cùng là các kiểu thùng cải tiến có khung cầu
di động nhƣ ngày nay. Khi áp dụng nuôi ong trong thùng cải tiến có khung
cầu di động cho phép sử dụng thùng quay và dùng tầng chân nhân tạo gắn vào
khung cầu, làm nền để ong xây lên các bánh tổ đã làm năng suất mật tăng lên
đáng kể. Việc áp dụng những tiến bộ khoa học đã làm cho năng suất mật
trung bình 15kg/đàn/năm (Phùng Hữu Chính, 1996; Quách Đại Cƣơng,
Nguyễn Huy Du, 1963) [1], [4].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
Từ những năm 1960 - 1962 chủng ong A. m. ligustica (ong Ý) đƣợc một
số ngƣời Hồng Kông đƣa vào miền Nam Việt Nam một số đàn nhƣng phát
triển kém, phải tiếp tục nhập thêm nhiều lần từ Hồng Kông, Đài Loan, Úc,…
Trong khi ong Ý (A. m. ligustica) ở một số nƣớc có sức đẻ trứng 1500 - 2000
trứng/ngày đêm thì ong chúa Ý Việt Nam chỉ đạt trung bình năm là 846
trứng/ngày đêm, gần bằng ong Ý ở Thái Lan (963 trứng/ngày đêm) (trích
Nguyễn Ngọc Vững, 2006) [26].
Năm 1977, công ty ong cấp I thuộc Bộ Nông nghiệp đƣa 50 đàn ong Ý
ra miền Bắc và tiếp đó năm 1978 trại nghiên cứu ong Đốc Tín cũng đƣa 50
đàn ong Ý ra miền Bắc nuôi thí nghiệm nhƣng không phát triển đƣợc, đến
năm 1979 bị chết hoàn toàn. Từ năm 1980 - 1985, một số đơn vị sản xuất
cũng đƣa ong Ý ra Bắc nhƣng không duy trì đƣợc quanh năm, ký sinh trùng
phát triển mạnh, đàn ong bị sa sút phải đƣa trở lại miền Nam để phục hồi.

Từ sau năm 1985, các đơn vị nuôi ong đã áp dụng các phƣơng pháp chọn
lọc, những biện pháp phòng trị ký sinh có hiệu quả nên cho đến nay ong Ý đã
đƣợc nuôi quanh năm ở nhiều tỉnh của miền Bắc và cho hiệu quả kinh tế cao.
Hiện nay Việt Nam đã hình thành những vùng nuôi ong rõ rệt. Miền
Bắc có nghề nuôi ong nội A. cerana phát triển, thích hợp với điều kiện nguồn
hoa phân tán, miền Nam phù hợp với nuôi ong Ý A. mellifera với quy mô lớn
do có điều kiện thuận lợi là cây nguồn mật tập trung (trích Nguyễn Ngọc
Vững, 2006) [26], hàng năm nƣớc ta đã cung cấp sản lƣợng mật lớn cho ngƣời
tiêu dùng: Năm 2002, sản lƣợng mật đạt 14.000 tấn, xuất khẩu mật ong đạt
12.000 tấn. Theo Cục chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp &PTNT) năm 2009 cả
nƣớc sản xuất đƣợc khoảng 18,6 nghìn tấn mật ong, xuất khẩu đƣợc hơn 14
nghìn tấn, thu về khoảng 23 triệu USD. Hiện nay nƣớc ta xuất khẩu 80 - 85%
tổng sản lƣợng mật ong, và 80% số này là vào thị trƣờng Mỹ. Năm 2008 là
năm thành công nhất của nƣớc ta từ trƣớc đến nay trong việc xuất khẩu mật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
ong vào thị trƣờng Mỹ. Theo Bộ nông nghiệp Mỹ (USDA) năm 2008 nƣớc
này nhập khẩu 19.387 tấn mật ong của Việt Nam, tăng 23% so với năm 2007.
Thị phần mật ong của Việt Nam tiêu thụ tại Mỹ chiếm khoảng 17% nhập
khẩu mật ong của Mỹ, trở thành nƣớc xuất khẩu mật ong lớn nhất vào Mỹ
(Chu Khôi, 2010) [11].
1.2. Một số nghiên cứu về hình thái, cấu tạo cơ thể ong mật trong và
ngoài nƣớc
1.2.1. Nghiên cứu về hình thái ong mật trên thế giới
1.2.1.1. Lịch sử hệ thống học và phân loại ong mật
Ong mật có ở khắp mọi nơi do giá trị kinh tế và tầm quan trọng của
chúng trong văn hoá của con ngƣời. Chúng xuất hiện ở hầu hết những vùng

mà con ngƣời sinh sống. Chúng đã gây sự chú ý rất sớm cho các nhà khoa học
phân loại. Một loài mới đƣợc mô tả lặp lại với những phỏng đoán thiếu chính
xác nhƣ năm 1758 Linné đặt tên cho tất cả các loài ong mật mà ông biết là
Apis mellifera, chỉ 3 năm sau chính ông lại đổi thành tên là Apis mellifica vì
mellifera có nghĩa là “lấy mật” còn mellifica có nghĩa là ong “làm mật”, từ đó
thế giới công nhận cả hai tên của ong mật. Đến đầu thế kỷ XX, một số nhà
khoa học đã xem xét lại và cải thiện cách đặt tên của ong mật trƣớc đây
(Ruttner F., 1988) [30].
1.2.1.2. Hình thái và phân loại ong mật
Đầu những năm 1900, từ việc tìm kiếm giống ong mật có vòi hút dài để
thụ phấn cho cỏ 3 lá đỏ (Trifolium pratense L) (loại cỏ quan trọng cho chăn nuôi
bò sữa) mà ngƣời Nga đã đề xuất ra phƣơng pháp nghiên cứu hình thái của ong
mật. Koshevnikov đã lần đầu tiên tiến hành đo đếm kích thƣớc hình thái ong mật
vào năm 1900, tiếp đến là Martynov (1901), Kulagin (1906). Vào thời kỳ đó, trở
ngại lớn nhất trong nghiên cứu hình thái về mặt thống kê đó là số mẫu đo đếm.
Năm 1916, Chochlov đã sử dụng số lƣợng mẫu ong đảm bảo cho phân tích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
thống kê về hình thái. Sau đó Michailov (1924, 1926) và Alpatov (1925, 1929)
đã đƣa thêm các yếu tố môi trƣờng vào xem xét cùng với hình thái. Năm 1964 -
1965, Dupraw là ngƣời đầu tiên giới thiệu phƣơng pháp phân tích hình thái đa
biến. Số lƣợng biến mà ông sử dụng là 15 biến (chỉ tiêu) của 373 cá thể ong thợ
từ châu Âu, châu Phi và châu Á (Hepburn H.R and Radloff S.E., 1998) (trích
Phạm Hồng Thái, 2008) [18].
Sau này Ruttner F. (1988) [30] đƣa ra số lƣợng chỉ tiêu “chuẩn” cho
phân tích hình thái là 38 chỉ tiêu (theo tiêu chuẩn quốc tế). Bằng phƣơng pháp
phân tích đa biến đó các nhà khoa học ngành ong đã xác định đƣợc các dạng

sinh thái khác nhau của một loài ong mật.
Dựa trên đặc điểm hình thái và phân bố địa lý loài ong nội đƣợc chia
thành 4 phân loài: A. cerana indica Fabricius 1798, A. cerana cerana Fabricius
1793, A. cerana himalaya Maa 1944 và A. cerana japonic Radoszkowski 1877
(Ruttner F., 1988) [30]. Còn Heburn H.R.et al (2001) chia ong nội thành 33
phân loài khác nhau. Trong đó có 9 phân loài có tên và 24 phân loài chƣa đƣợc
đặt tên: A. cerana cerana Fabricius 1793, A. cerana indica Fabricius 1798, A.
cerana japonica Radoszkowski 1877, A. cerana javana Enderlein 1906, A.
cerana himalaya Maa 1944, A. cerana skorikovi Maa 1944, A. cerana abaensis
Yun and Kuang 1982, A. cerana hainanensis Yun and Kuang 1982 và A.
cerana philipina Skorikovi 1929. Radloff S.E. và cs, (2005), thu thập 58 đàn
ong mật A. cerana vùng phía tây dãy Himalaya với 27 chỉ tiêu hình thái đƣợc
xử lí thống kê bằng phƣơng pháp phân tích đa biến đã xác định đƣợc khu vực
này có 2 nhóm là: Hindu Kush - Kashmir và Himachal Pradesh (trích Phạm
Hồng Thái, 2008) [18].
Tóm lại: Ong nội Apis cerana Fabricius 1793 là một trong 9 loài ong mật
có ngòi đốt của thế giới (Sheppard W.S and Smith D.R., 2000) và đến nay xác
định đƣợc có tới 33 phân loài trong đó có 9 phân loài đã đƣợc đặt tên (Hepburn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
H.L. và cs, 2001; Kuang B.Y. và Ken T., 1996; Peng Y.S. và cs, 1989) (trích
Phạm Hồng Thái, 2008) [18].
1.2.1.3. Phân bố và vị trí phân loại của ong Apis cerana
Apis cerana là ong bản địa ở nhiều vùng rộng lớn của Châu Á, trải dài
từ Iran ở phía Tây đến Nhật Bản ở phía Đông, từ vùng Viễn Đông trên bờ
Thái Bình Dƣơng của Nga chiếm phần lớn ở phía Bắc đến miền cực nam của
lục địa ở phía Nam (Eva Crane, 1990) [8].

Loài ong nội này có vị trí trong hệ thống phân loại nhƣ sau:
- Ngành chân đốt (Arthropoda),
- Lớp côn trùng (Insecta),
- Bộ cánh màng (Hymenoptera),
- Họ ong mật (Apidae),
- Tộc (Apini),
- Chi (giống) (Apis),
- Loài (Apis Cerana).
1.2.2. Nghiên cứu hình thái ong Apis cerana ở trong nước
Chỉ có một số công trình nghiên cứu về hình thái của ong nội tại các địa
phƣơng khác nhau của Việt Nam đƣợc công bố bởi Lê Đình Thái, Nguyễn
Văn Niệm (1980) [17] và Nguyễn Văn Niệm (1991) [13]. Các tác giả trên đã
kết luận rằng ong mật Apis cerana Fabricius ở miền Bắc và miền Trung có
kích thƣớc cơ thể lớn hơn ở miền Nam.
Một số nhà khoa học ngành ong ở trong nƣớc đã mặc nhiên công nhận
có hai phân loài ong nội ở Việt Nam: A. c. cerana (miền Bắc) và A. c. indica
(miền Nam).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
Đầu
Ngực
Cánh
Bụng
Chân
Đốt bụng
Chân sau
Chân giữa

Chân trƣớc
Gai trƣớc
Đùi trƣớc
Cẳng chân
Cổ chân
Mắt kép
Miệng
Râu


1.2.3. Đặc điểm hình thái, cấu tạo cơ thể ong Apis cerana
Hình 1.1: Hình thái, cấu tạo cơ thể ong mật
1.2.3.1. Hình thái cơ thể
Theo các tác giả Nguyễn Văn Niệm (1991) [13]; Lê Đình Thái, Nguyễn
Văn Niệm (1980) [17] thì cơ thể ong mật gồm 3 phần nối với nhau bởi các
khớp động là phần đầu, ngực, bụng. Cơ thể ong đƣợc bao bọc bằng lớp vỏ
kitin, chính lớp vỏ kitin là bộ xƣơng ngoài, là chỗ dựa cho các cơ quan bên
trong và bảo vệ cơ thể ong tránh những tác động bất lợi từ bên ngoài.
* Phần đầu ong:
Đầu ong có cấu tạo hình hộp, trên đầu có hai mắt kép, số mắt kép ở ong
đực là 6.000 mắt nhỏ ghép lại còn ở ong chúa và ở ong thợ chỉ có 4.000. Đỉnh
đầu có 3 mắt đơn phân bố theo dạng hình tam giác.
Ở phần trƣớc đầu ong có một đôi râu, râu ong chia làm nhiều đốt: râu
ong đực chia làm 13 đốt, ong chúa và ong thợ là 11 đốt. Râu là cơ quan cảm
giác rất nhạy bén.
Miệng và vòi ong có đặc điểm (với chức năng cắn, nghiền, hút) khác
với nhiều loại côn trùng khác, ong dùng hàm trên để cắn các vật cứng khi mở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



14
rộng cửa tổ, cắn nắp lỗ tổ chứa mật, vít nắp, nghiền phấn hoa. Vòi hút của ong
đặc trƣng cho từng giống ong dùng để hút mật hoa, nƣớc siro. Mỗi giống ong
khác nhau có chiều dài vòi hút khác nhau.
* Phần ngực ong:
Ngực ong gồm 3 đốt: đốt ngực trƣớc, đốt ngực giữa và đốt ngực sau.
Phần ngực của ong mang các cơ quan vận động là cánh và chân ong. Trong
phần ngực thì đốt ngực giữa giữ vai trò quan trọng nhất, các đốt ngực đƣợc
chia làm nửa lƣng và nửa bụng. Nửa lƣng có 2 đôi cánh: đôi cánh trƣớc lớn
hơn đôi cánh sau. Khi ong bay, cánh trƣớc ghép lại với cánh sau thông qua hệ
thống móc cánh. Nửa bụng của phần ngực ong mật có 3 đôi chân gắn vào 3
đốt ngực tƣơng ứng.
* Phần bụng ong:
Bụng ong mật có 6 đốt và nối với phần ngực qua đốt chuyển tiếp, mỗi
đốt gồm 2 nửa: nửa lƣng và nửa bụng các đốt bụng nối với nhau bằng màng
kitin mỏng, đàn hồi. Nhờ các màng mỏng này mà ong có thể thay đổi thể tích
bụng. Hai bên mỗi bên đốt bụng có lỗ thở, ở phần bụng có 4 đốt bụng cuối
cùng có các cơ quan tiết sáp, cuối bụng là ngòi đốt. Riêng ong đực không có
bộ phận ngòi đốt, ong chúa trƣởng thành thì bộ phận ngòi đốt làm chức năng
nhƣ một máng đẻ trứng và là phƣơng tiện chiến đấu với các ong chúa khác.
Giữa đốt bụng 5 và 6 của ong mật có tuyến Nasônôp (nhà bác học ngƣời Nga
N.V Nasônôp phát hiện) tiết vị hƣơng đặc trƣng cho mỗi đàn ong, ở ong chúa
tuyến Nasônôp phát triển và tiết ra mùi đặc trƣng của ong chúa gọi là “chất
chúa”. “Chất chúa” điều khiển đàn ong hoạt động bình thƣờng (Ngô Đắc
Thắng, 2000) [21].
1.2.3.2. Các cơ quan bên trong cơ thể ong
* Cơ quan tiêu hoá: Ong mật thuộc vào các côn trùng dinh dƣỡng
chuyên tính, cơ quan tiêu hoá của ong còn là nơi dự trữ tạm thời mật hoa khi


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
thu nhận và vận chuyển về tổ, đồng thời thích hợp với việc dự trữ dinh dƣỡng
khi qua đông ở xứ lạnh.
* Cơ quan hô hấp: Cơ quan hô hấp của ong gồm những lỗ thở, hệ thống
khí quản phân nhiều nhánh, các túi khí và hệ thống mao quản trao đổi khí với
các tế bào, các mô trong cơ thể. Các lỗ thở nằm hai bên cơ thể có 3 đôi lỗ thở
ở phần ngực, 6 đôi lỗ thở ở phần bụng.
* Cơ quan tuần hoàn: Hệ thống tuần hoàn của ong là một hệ thống hở,
tim ong gồm 5 ngăn, hai bên sƣờn của mỗi ngăn tim có các cửa để cho máu từ
ngoài vào.
* Cơ quan thần kinh: Cơ quan thần kinh của ong phát triển rất cao, bảo
đảm mối liên hệ thƣờng xuyên của đàn ong với môi trƣờng xung quanh, đồng
thời điều khiển mọi hoạt động thống nhất trong cơ thể con ong. Cơ quan thần
kinh chia làm 3 phần: thần kinh trung ƣơng, thần kinh ngoại biên, thần kinh
thực vật.
* Cơ quan sinh dục: Ong mật cũng nhƣ các côn trùng khác đều thuộc
nhóm động vật phân tính, nghĩa là cơ quan sinh dục đực và cái ở trong các cá
thể khác nhau, cơ quan sinh dục của ong chúa gồm 2 buồng trứng hình quả lê,
mỗi buồng trứng có rất nhiều ống trứng nằm song song với nhau. Cơ quan
sinh dục của ong thợ về cấu tạo giống của ong chúa nhƣng không đƣợc phát
triển hoàn chỉnh, hai buồng trứng của ong thợ dạng vải và kém phát triển. Cơ
quan sinh dục của ong đực gồm 2 dịch hoàn, ống dẫn tinh, tuyến phụ và bộ
phận giao phối.
1.3. Một số đặc điểm sinh vật học của ong nội Apis cerana
Tổ ong đƣợc cấu tạo bởi nhiều bánh tổ xếp song song với nhau theo
hƣớng đi vào của cửa tổ và vuông góc với mặt đất. Giữa các bánh tổ có một
khoảng trống thích hợp để làm lối đi lại của ong. Bánh tổ ong có nhiều lỗ tổ

hình lục giác đều đƣợc xây bằng bằng những vảy sáp do tuyến sáp ong thợ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
tiết ra. Các bánh tổ là nơi sinh ra các thế hệ ong thợ, ong đực, ong chúa mới
và là nơi dự trữ mật, phấn hoa.
Ong mật có đặc tính sống thành xã hội điển hình nhất trong xã hội côn
trùng. Đàn ong là một đơn vị sinh học hoàn chỉnh bao gồm 3 loại hình ong:
ong chúa, ong thợ và ong đực. Mỗi loại hình có một vị trí sinh học nhất định
trong đàn nhƣng gắn bó, ảnh hƣởng đến nhau rất chặt chẽ.


Hình 1.2: Các cấp ong trong đàn
1.3.1. Ong chúa
Ong chúa là một con ong cái phát triển hoàn chỉnh và là mẹ của cả đàn
ong. Nhiệm vụ chủ yếu của ong chúa là đẻ trứng để duy trì nòi giống đảm bảo
sự tồn tại của cả đàn ong. Ong chúa còn tiết ra các chất đặc biệt gọi là “chất
chúa” hay Feromol để duy trì “trật tự xã hội” trong một đàn ong (Nguyễn Duy
Hoan và cs, 2008) [9].
Cơ thể ong chúa lớn, cánh ngắn, bụng thon dài cân đối, bên trong chứa
hai buồng trứng phát triển, lƣng - ngực rộng, toàn thân màu đen hoặc nâu đen,
khối lƣợng cơ thể lớn (chúa tơ nặng khoảng 150g, ong chúa đẻ nặng khoảng
Ong thợ
Ong đực
Ong chúa

×