Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––
––––––––––
PHẠM CÔNG HOẰNG
“NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA GÀ CHỌI NUÔI
TẠI HUYỆN TÂN YÊN - TỈNH BẮC GIANG”
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM CÔNG HOẰNG
“NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA GÀ CHỌI NUÔI
TẠI HUYỆN TÂN YÊN - TỈNH BẮC GIANG”
Chuyên ngành: Chăn nuôi – Thú y
Mã số: 60.62.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học:
PGS-TS. TRẦN THANH VÂN
TS. NGUYỄN THỊ THÚY MỴ
THÁI NGUYÊN – 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
I. Đặt vấn đề 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.1.1 Bản chất di truyền của tính trạng 4
1.1.2. Đặc điểm về sinh trưởng di truyền và một số tính trạng sản xuất của gia
cầm 5
1.1.2.1. Khả năng sinh trưởng 5
1.1.2.2. Tiêu tốn thức ăn 11
1.1.2.3. Khả năng cho thịt 12
1.1.2.4. Sức sống và khả năng kháng bệnh 13
1.1.2.5. Khả năng đẻ trứng 14
1.1.2.6. Tỷ lệ ấp nở 15
1.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thịt gia cầm 18
1.1.3.1. Những yêu cầu đối với chất lượng thịt 19
1.1.3.2. Các biện pháp cải thiện chất lượng thịt gia cầm 19
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc 23
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 23
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 26
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
2.1 Đối tƣợng, điạ điểm và thời gian nghiên cứu 34
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 34
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 34
2.2. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu 34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.2.1. Nội dung nghiên cứu 34
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu 34
2.3. Các chỉ tiêu theo dõi 36
2.3.1. Các chỉ tiêu điều tra 36
2.3.1.1. Các chỉ tiêu ề sinh sản 36
2.3.1.2. Các chỉ tiêu về sinh trưởng 36
2.3.1.3. Một số dặc điểm sinh học 37
2.3.2. Các chỉ tiêu khảo sát 37
2.4. Phƣơng pháp tính toán các chỉ tiêu 37
2.5. Phƣơng pháp xử lý số liệu 41
Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 42
3.1. Kết quả điều tra về tình hình nuôi gà Chọi tại huyện Tân Yên 42
3.1.1. Kết quả điều tra về số lượng 42
3.1.2. Kết quả điều tra về số lượng hộ chăn nuôi gà Chọi 43
3.1.3. Tỷ lệ gà Chọi trong các hộ tại 3 xã của huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang 44
3.2. Kết quả theo đánh giá về đặc điểm sinh học của gà Chọi 46
3.2.1. Màu sắc lông 46
3.2.2. Kích thước các chiều đo của cơ thể gà Chọi 47
3.3. Kết quả đánh giá về khả năng sinh sản của gà Chọi 48
3.3.1. Một số chỉ tiêu sinh sản của gà mái 48
3.3.2. Thời gian sử dụng gà Chọi 49
3.3.3. Một số chỉ tiêu về chất lượng trứng 50
3.3.4. Các chỉ tiêu về ấp nở 51
3.4. Các chỉ tiêu khảo sát về sức sản xuất thịt của gà Chọi 52
3.4.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà Chọi 52
3.4.2. Sinh trưởng của gà Chọi 53
3.4.2.1. Sinh trưởng tích luỹ 53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.4.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của gà Chọi nuôi tại huyện Tân
Yên - tỉnh Bắc Giang 56
3.4.3. Khả năng tiêu thụ và chuyển hoá thức ăn 59
3.4.4. Khả năng cho thịt và chất lƣợng thịt 62
3.4.4.1. Năng suất thịt 62
3.4.4.2. Chất lượng thịt 64
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 66
1. Kết luận 66
2. Đề nghị 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68
I. Tiếng Việt 68
II. Tiếng nƣớc ngoài 71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Số lƣợng gà Chọi tại tại 3 xã huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang
Bảng 3.2. Tình hình chăn nuôi gà Chọi trong nông hộ 43
Bảng 3.3. Tình hình nuôi gà Chọi theo xóm tại 3 xã điều tra 45
Bảng 3.4: Đặc điểm màu sắc lông của gà Chọi trƣởng thành 46
Bảng 3.5. Kích thƣớc các chiều đo cơ thể gà Chọi (cm) 47
Bảng 3.6: Một số chỉ tiêu sinh sản của gà mái Chọi 48
Bảng 3.7: Thời gian sử dụng của gà trống, mái Chọi 49
Bảng 3.8: Các chỉ tiêu về chất lƣợng trứng 50
Bảng 3.9: Các chỉ tiêu ấp nở của gà Chọi 51
Bảng 3.10: Tỷ lệ nuôi sống của gà khảo nghiệm (%) 52
Bảng 3.11. Sinh trƣởng tích luỹ của gà Chọi (g) 54
Bảng 3.12. Sinh trƣởng tuyệt đối và sinh trƣởng tƣơng đối 56
Bảng 3.13: Khả năng tiêu thụ và chuyên hoá thức ăn bổ sung thêm của gà
Chọi nuôi thịt (Số liệu nuôi khảo sát) 61
Bảng 3.14: Các chỉ tiêu mổ khảo sát 63
Bảng 3.15: Thành phần hóa học của thịt gà Chọi ở các giai đoạn tuổi
nuôi khảo sát (%) 64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Đồ thị sinh trƣởng tích luỹ của gà Chọi nuôi
tại huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang 55
Hình 3.2: Biểu đồ sinh trƣởng tuyệt đối của gà Chọi
nuôi tại huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang 57
Hình 3.3: Đồ thị sinh trƣởng tƣơng đối của gà Chọi
nuôi tại huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang 59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
Phần 1
Mở đầu
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta ngày
càng phát triển với tốc độ phát triển bình quân của những năm qua
là 5%/năm và chăn nuôi gà chất lượng cao đang là vấn đề được
nhiều người quan tâm. Chăn nuôi gà đ• có những biến chuyển tích
cực, đạt được những thành tựu khả quan: tổng đàn tăng lên về số
lượng và chất lượng được cải thiện. Cùng với sự phát triển của
ngành kinh tế thì nhu cầu tiêu dùng thực phẩm có chất lượng cao
của người dân lại càng tăng lên.
Hiện nay, xu thế chung của ngành chăn nuôi trên thế giới, đặc biệt là
các nước đang phát triển, bên cạnh việc phát triển thâm canh chăn
nuôi cần đẩy mạnh công tác bảo tồn, gìn giữ các giống vật nuôi địa
phương nhằm khai thác hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học mang lại
tính ổn định bền vững cho phát triển lâu dài. Đây là vấn đề cấp
bách, khó khăn, phức tạp mang tính toàn cầu, cần được nhiều ngành
quan tâm.
ở việt Nam có rất nhiều giống vật nuôi truyền thống có giá trị kinh
tế thấp nên đang bị thu hẹp về không gian phân bố, giảm dần về số
lượng và có nguy cơ bị tuyệt chủng ví dụ như: lợn ỉ, gà Hồ, gà Đông
Tảo, vịt Kỳ Lừa, gà Mèo. Gà Chọi cũng là một trong những giống
vật nuôi nói trên, mặc dù xét về ý nghĩa kinh tế của giống gà này thì
không lớn, song đây là giống gà được cộng đồng các dân tộc người
Việt nuôi từ ngàn đời nay, nó gắn liền với tập quán văn hóa và đời
sống tinh thần của các dân tộc người Việt.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc với nét đặc trưng là địa
hình bị chia cắt bởi các d•y núi tạo ra các thung lũng. Dân cư gồm
nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống bằng canh tác nông nghiệp và
chăn nuôi. Cùng với các gia súc, gia cầm khác, con gà đ• được các
dân tộc địa phương nuôi dưỡng từ lâu đời với phương thức quảng
canh, người dân sử dụng sử dụng thịt và trứng gà rộng r•i, vì đây là
nguồn thực phẩm giầu đạm, đặc biệt thịt gà còn được sử dụng trong
các nghi thức tết Nguyên đán, đình đám, lễ hội. Giống gà Chọi được
nuôi nhiều ở Bắc Giang con gà Chọi gắn với tết cổ truyền,hội hoàng
hoa thám, các lễ hội đình làng…. Với phương thức chăn thả quảng
canh, đối với gà con và gà loại thải (không dùng vào việc chọi gà),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
và chăm sóc có đầu tư với gà nuôi dùng vào việc thi đấu. Gà Chọi
không những là món ăn đặc sản, mà còn được các dân tộc người
Việt nuôi để đem đi chọi trong các lễ hội Đây là giống gà có tầm
vóc tương đối lớn từ 3 - 4 kg, gà có chân cao, tốc độ sinh trưởng
khá, lông có nhiều màu: xám, vằn đen. Đây là một trong những
nguồn gen quý, rất phong phú và có tiềm năng di truyền cao đối với
công tác lai tạo, do đó cần được bảo tồn
Trong thực tế các giống gà nội thuần rất ít, do có sự pha tạp một
cách tự nhiên, nhưng gà Chọi chủ yếu nuôi với mục đích Chọi nên
gà Chọi là một trong số rất ít các giống gà nội có mức độ thuần. Để
có thêm kết quả nghiên cứu về giống gà này, góp phần vào việc xem
xét, đánh giá giá trị kinh tế, làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu
bảo tồn và lai tạo, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, khả năng sản xuất của gà
Chọi nuôi tại huyện Tân Yên - tỉnh Bắc Giang”.
Nhằm phục vụ cho việc bảo tồn quỹ gen và là cơ sở để khai thác
tiềm năng di truyền của giống gà địa phương này.
2. Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
+ Mục tiêu của đề tài
- Xác định các đặc điểm ngoại hình, một số đặc tính sinh học và
tính năng sản xuất của giống gà Chọi tại huyện Tân Yên tỉnh Bắc
Giang.
- Xác định được cơ cấu, số lượng, sức sống, sinh trưởng, sinh
sản, tình hình chăn nuôi gà Chọi trong nông hộ tại huyện Tân Yên -
tỉnh Bắc Giang.
- Xác định ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật đến khả
năng sản xuất của gà Chọi nuôi ở nông hộ.
- Bảo tồn được quỹ gen và khai thác tiềm năng di truyền lâu dài
của gà Chọi(theo hướng văn hoá kết hợp phát triển kinh tế x• ội).
+ ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả của đề tài sẽ cung cấp các thông tin đầu tiên về giống
gà Chọi tại một số huyện của tỉnh Bắc Giang.
- Các số liệu thu được phục vụ cho công tác giống sau này. Mặt
khác kết quả của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho những nghiên
cứu phát triển tiếp theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chương 1
Tổng quan tài liệu
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Bản chất di truyền của tính trạng
Cũng như các giống vật nuôi khác, giống gà được hình thành gắn
liền với sự tác động của môi trường sinh thái, điều kiện kinh tế kỹ
thuật của x• hội. Hay nói cách khác, ngoài các yếu tố di truyền, tác
động của con người, thì các yếu tố ngoại cảnh như: nhiệt độ, ẩm độ,
ánh sáng, mùa vụ có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các
đặc tính sinh trưởng, phát dục, sinh sản của giống.
Tất cả các đặc điểm của giống như: các đặc tính sinh học, ngoại
hình, tính năng sản xuất Đều là tính trạng di truyền số lượng và
chất lượng. Các tính trạng chất lượng được quy định bằng một hay
nhiều cặp gen có hiệu ứng lớn, chúng được di truyền tuân theo các
định luật của Mendel và ít chịu ảnh hưởng của các điều kiện môi
trường; Các tính trạng sản xuất được quy định bằng nhiều cặp gen
có hiệu ứng nhỏ, chúng được di truyền cho đời sau theo các mức độ
khác nhau, sự thể hiện của chúng ở đời sau chịu ảnh hưởng rất lớn
của điều kiện ngoại cảnh. Sự biểu hiện kiểu hình của các tính trạng
số lượng chịu sự tác động rất lớn của yếu tố ngoại cảnh. Mối liên hệ
này được thể hiện trong biểu thức:
P = G + E
Trong đó:
P: giá trị kiểu hình, là các giá trị đo lường được của tính trạng số
lượng trên một cá thể.
G: giá trị kiểu gen
E: sai lệch môi trường
Nói cách khác: Trong những điều kiện môi trường nhất định thì các
kiểu gen khác nhau sẽ cho những khả năng sản xuất khác nhau. Trái
lại, cùng một kiểu gen nhưng trong những điều kiện môi trường
khác nhau sẽ cho năng lưc sản xuất khác nhau. Nghĩa là các điều
kiện môi trường, chăm sóc nuôi dưỡng có thể phát huy hoặc hạn chế
các đặc tính di truyền của vật nuôi. Thông qua việc nắm các yếu tố
di truyền, môi trường ngoại cảnh tối thích, bằng các biện pháp khoa
học kỹ thuật hợp lý, con người sẽ không chỉ bồi dưỡng duy trì được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
các đặc tính của một phẩm chất giống mà còn tạo ra các giống mới
theo những hướng sản xuất khác nhau.
Tốc độ sinh trưởng quyết định sức sản xuất thịt của một giống gà,
nó có tính di truyền tương đối cao thể hiện ở đặc điểm trao đổi chất,
kiểu hình của dòng, giống. Dòng, giống nào có tốc độ sinh trưởng
lớn sẽ cho khả năng sản xuất thịt cao, vỗ béo và giết thịt sớm hơn.
Tốc độ sinh trưởng được thể hiện ở khối lượng cơ thể, kích thước
các chiều đo (dài lườn, rộng ngực, dài đùi ). Để nâng cao năng lực
sản xuất thịt của một giống gà nào đó, người ta thường cho lai giữa
mái của giống đó với trống của một giống khác có tốc độ sinh
trưởng lớn hơn.
Năng lực tăng đàn của một giống gà được quyết định bởi khả năng
sinh sản bao gồm: khả năng đẻ trứng, tỉ lệ trứng cho phôi, tỉ lệ ấp
nở, tỉ lệ nuôi sống của gà Ngoài ra còn phụ thuộc vào khả năng ấp
trứng của gà mái, nguồn thức ăn (với gà nuôi thả)
Sức sống và khả năng kháng bệnh: trong cơ thể gia cầm có hệ thống
miễn dịch hoàn hảo gồm tủy xương, tuyến ức, hạch lâm ba, lách
khi kháng nguyên vào cơ thể, cơ thể sẽ thông qua hệ thống đáp ứng
miễn dịch sinh ra những cơ chế tiêu diệt kháng nguyên, khi cơ thể
gia cầm khỏe mạnh thì khả năng đáp ứng miễn dịch cao, khả năng
kháng bệnh tốt đây chính là yếu tố quan trọng giúp cho người chăn
nuôi đạt hiệu quả cao.
1.1.2. Đặc điểm về sinh trưởng di truyền và một số tính trạng
sản xuất của gia cầm
1.1.2.1. Khả năng sinh trưởng
Sinh trưởng là quá trình tích luỹ chất hữu cơ do quá trình đồng hoá
và dị hoá của cơ thể, là sự tăng về chiều cao, dài, bề ngang, khối
lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể của con vật. Đồng thời sinh
trưởng chính là sự tích luỹ dần các chất dinh dưỡng chủ yếu là
protein, nên tốc độ tích luỹ và sự tổng hợp các chất dinh dưỡng,
cũng chính là tốc độ hoạt động của các gen điều khiển sinh trưởng
của cơ thể (Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992)[21].
Về mặt sinh học: Sinh trưởng là quá trình tổng hợp protein nên
thường lấy tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá quá trình sinh
trưởng.
Theo Johason, 1972 [6] thì cường độ phát triển qua giai đoạn bào
thai và giai đoạn sau khi sinh có ảnh hưởng đến chỉ tiêu phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
của con vật. Nhìn từ khía cạnh giải phẫu, sinh lý thì sự sinh trưởng
của các mô cơ diễn ra theo sơ đồ sau:
Hệ thống tiêu hoá nội tiết - hệ thống xương - hệ thống cơ bắp - mỡ
Thực tế chăn nuôi gia súc, gia cầm lấy thịt cho thấy trong giai đoạn
đầu của sự sinh trưởng thì thức ăn dinh dưỡng được dùng tối đa cho
sự phát trển của xương, mô cơ, một phần rất ít lưu giữ cho cấu tạo
của mỡ. Đến giai đoạn cuối của sự sinh trưởng, nguồn dinh dưỡng
vẫn được sử dụng nhiều để nuôi hệ thống cơ xương, nhưng hai hệ
thống này tốc độ phát triển đ• giảm, càng ngày con vật càng tích luỹ
dinh dưỡng để cấu tạo mỡ.
Theo Chamber, J.R 1990 [41] thì Mozan (1927) định nghĩa: sinh
trưởng là sự tổng hợp quá trình tăng lên của các bộ phận trên cơ thể
như thịt da, xương. Tuy nhiên có khi tăng khối lượng chưa phải là
sinh trưởng, sự sinh trưởng thực sự phải là tăng các tế bào của mô
cơ tăng thêm khối lượng, số lượng và các chiều của cơ thể. Tóm lại
sinh trưởng phải trải qua 3 quá trình đó là:
- Phân chia để tăng khối lượng tế bào
- Tăng thể tích tế bào
- Tăng thể tích giữa các tế bào
Trong quá trình này thì sự phát triển của tế bào là chính, các đặc
tính của các bộ phận trong cơ thể hình thành lên quá trình sinh
trưởng là sự tiếp tục thừa hưởng các đặc tính di truyền của đời
trước, nhưng hoạt động mạnh hay yếu, hoàn thiện hay không hoàn
thiện còn phụ thuộc vào sự tác động của môi trường.
Trong các tổ chức cấu tạo của cơ thể gia cầm thì khối lượng cơ
chiếm nhiều nhất từ: 42 - 45 % khối lượng cơ thể. Khối lượng cơ
thể của con trống luôn lớn hơn con mái (không phụ thuộc vào lứa
tuổi và từng loại gia cầm) (dẫn theo Ngô Giản Luyện, 1994 [18]
* Các giai đoạn sinh trưởng của gà
Đối với gà, quá trình tích luỹ các chất thông qua quá trình trao đổi
chất đó, là sự tăng lên về khối lượng, kích thước tế bào và dịch thể
trong mô bào ở giai đoạn phát triển đầu của phôi trên cơ sở tính di
truyền. Sau khi nở thì sinh trưỏng là do sự lớn dần của các mô, đó là
sự tăng lên về kích thước của tế bào và được chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn gà con và giai đoạn trưởng thành.
+ Giai đoạn gà con
Giai đoạn này gà sinh trưởng rất nhanh do lượng tế bào tăng nhanh,
một số bộ phận của cơ quan nội tạng còn chưa phát triển hoàn chỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
như các men tiêu hoá trong hệ tiêu hoá, do vậy thức ăn giai đoạn
này cần chú ý đến thức ăn dễ tiêu, vì thức ăn giai đoạn này ảnh
hưởng rất lớn đến tốc độ sinh trưởng của gà. Quá trình thay lông
cũng diễn ra trong cùng một giai đoạn này, nó làm thay đổi quá trình
trao đổi chất, tiêu hoá và hấp thu, do đó cần chú ý đến hàm lượng
của các chất dinh dưỡng và axit amin thiết yếu trong khẩu phần ăn.
+ Giai đoạn trưởng thành
Giai đoạn này các cơ quan trong cơ thể gà gần như đ• phát triển
hoàn thiện, số lượng tế bào tăng chậm chủ yếu là quá trình phát dục.
Quá trình tích luỹ các chất dinh dưỡng trong giai đoạn này một phần
để duy trì cơ thể, một phần để tích luỹ mỡ, tốc độ sinh trưởng chậm
hơn giai đoạn gà con.
+ Khối lượng cơ thể
ở từng giai đoạn phát triển, chỉ tiêu này xác định sự sinh trưởng của
cơ thể tại một thời điểm, nhưng lại không khẳng định được sự sai
khác về tỷ lệ sinh trưởng giữa các thành phần của cơ thể trong cùng
một thời gian ở các độ tuổi. Đơn vị tính được bằng g/con hoặc
kg/con.
+ Sinh trưởng tuyệt đối
Sinh trưởng tuyệt đối là sự tăng lên về khối lượng, kích thước cơ thể
trong một đơn vị thời gian giữa hai lần khảo sát (TCVN 2.39 - 77,
1997) [25]. Sinh trưởng tuyệt đối được tính bằng g/con/ngày. Giá trị
sinh trưởng tuyệt đối càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn và
ngược lại.
+ Sinh trưởng tương đối
Sinh trưởng tương đối được tính bằng tỷ lệ phần trăm tăng lên của
khối lượng (thể tích, kích thước) của cơ thể khi kết thúc quá trình
khảo sát so với thời điểm đầu khảo sát (TCVN.40 - 77, 1997) [26].
Gà con non có sinh trưởng tương đối cao sau đó giảm dần theo tuổi.
Sau giai đoạn trưởng là giai đoạn già cỗi, ở thời kỳ này khối lượng
không tăng mà có chiều hướng giảm. Nếu vẫn có hiện tượng tăng
khối lượng thì đây là do quá trình tích luỹ mỡ. Thời kỳ này sớm hay
muộn phụ thuộc vào giống, tuổi và điều kiện sống của con vật. Thời
kỳ già cỗi được tính từ khi con vật ngừng sinh trưởng, khả năng
sinh sản và mọi khả năng khác đều giảm (Lê Huy Liễu và cs, 2004
[13] ).
- Đường cong sinh trưởng: Đường cong sinh trưởng biểu thị
sinh trưởng của gia súc gia cầm nói chung. Theo Chambers J.R,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
1990 [41], đường cong sinh trưởng của gà có 4 đặc điểm chính gồm
4 pha:
• Pha sinh trưởng tích luỹ tăng tốc nhanh sau khi nở
• Điểm uốn của đường cong tại thời điểm có sinh trưởng cao
nhất
• Pha sinh trưởng có tốc độ giảm dần sau điểm uốn
• Pha sinh trưởng tiệm cận với giá trị khi gà trưởng thành
Đồ thị sinh trưởng tích luỹ biểu thị một cách đơn giản nhất về
đường cong sinh trưởng.
Đường cong sinh trưởng không những được sử dụng để chỉ rõ về
khối lượng mà còn làm rõ về mặt chất lượng, sự sai khác nhau giữa
các dòng, giống, giới tính (Nizetova H.K, Yanck J.H, Nize B.K. and
Roubicek J.R, 1991) [50].
Trần Long, 1994 [14] khi nghiên cứu về đường cong sinh trưởng
của các dòng V1, V3, V5 trong giống gà Hybro (HV85) cho thấy
các dòng đều phát triển theo đúng quy luật sinh học. Đường cong
sinh trưởng của 3 dòng có sự khác nhau và trong mỗi dòng giữa gà
trống và gà mái cũng có sự khác nhau: Sinh trưởng cao ở 7 - 8 tuần
tuổi với gà trống và 6 - 7 tuần tuổi đối với gà mái.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của gà
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của gà như: dòng,
giống, tính biệt, tốc độ mọc lông, dinh dưỡng và các điều kiện chăn
nuôi.
+ ảnh hưởng của dòng, giống
Theo Chambers J.R, 1990 [41] có nhiều gen ảnh hưởng đến sinh
trưởng và phát triển của cơ thể, có gen ảnh hưởng đến sự phát triển
chung, có gen ảnh hưởng đến sự phát triển nhiều chiều, có gen thì
ảnh hưởng theo nhóm tính trạng và có gen ảnh hưởng tới một vài
tính trạng riêng lẻ.
Goedfrey E.F và Jaap R.G, 1952[46] cùng một số tác giả khác cho
rằng các tính trạng số lượng được quy định bởi ít nhất 15 cặp gen.
Theo Jaap R.G và cộng sự, 1969 [48]; Champman A.B, 1995 [43]
đều cho rằng kiểu di truyền về khối lượng cơ thể, phải do nhiều gen
quy định và ít nhất phải do một gen liên kết với giới tính.
Cook và cộng sự, 1956 [44] đ• xác định được hệ số di truyền tại 6
tuần tuổi về khối lượng là 0,50; hệ số di truyền khối lượng cơ thể
theo Godman và Godgry (1956) là 0,43, ở 10 tuần tuổi theo Cook
tính được là 0,5 và ở 6 tuần tuổi là 0,4.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Phùng Đức Tiến, 1996 [34] cho biết hệ số di truyền của tốc độ sinh
trưởng từ 0,4 - 0,5. Các tài liệu của Chambers J.R, 1984 [42]; Siegel
và cs, 1962 [57] đ• tổng kết một cách hoàn chỉnh về hệ số di truyền
và tốc độ sinh trưởng. Kết quả tính toán qua phân tích phương sai
của con đực từ 0,4 - 0,6.
Theo Kushner K.F, 1978 [12] hệ số di truyền khối lượng cơ thể sống
của gà 1 tháng tuổi là 0,33; 2 tháng tuổi là 0,46; 3 tháng tuổi là 0,44;
6 tháng tuổi là 0,55 và của gà trưởng thành là 0,43. Của Nguyễn Ân
và cộng tác viên, 1998 [1] gà 3 tháng tuổi là 0,26- 0,5.
Nguyễn Mạnh Hùng và cộng tác viên, 1994 [11] cho biết sự khác
nhau giữa các giống gia cầm rất lớn, giống kiêm dụng nặng hơn
hướng trứng khoảng 500- 700g (từ 15- 30%)
Kết quả nghiên cứu 3 giống AA, Avian và BE88 nuôi tại Thái
Nguyên của Nguyễn Thị Thuý Mỵ, 1997 [22] cho thấy: khối lượng
cơ thể của 3 giống khác nhau ở 49 ngày tuổi lần lượt là: 2501,09g;
2423,28g và 2305,14g.
+ ảnh hưởng của tính biệt
Sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ thể còn ảnh
hưởng bởi tính biệt, gà trống có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn gà
mái. Những sai khác này được biểu hiện về mặt cường độ sinh
trưởng, được quy định không phải do hoocmon sinh dục mà do các
gen liên kết với giới tính.
Theo Jull M.A, 1923 [49] cho biết gà trống có tốc độ sinh trưởng
nhanh hơn gà mái từ 24 - 32%. Các tác giả cho rằng sự sai khác này
do gen liên kết giới tính, những gen này ở gà trống hoạt động mạnh
hơn gà mái. North M.O, 1990 [52], đ• rút ra kết luận: lúc mới nở gà
trống nặng hơn gà mái là 1%, tuổi càng tăng thì sự khác nhau càng
lớn, ở 2 tuần tuổi hơn 5 %, 3 tuần tuổi hơn 11%, 5 tuần tuổi hơn
17%, 6 tuần tuổi hơn 20%, 7 tuần tuổi hơn 23%, 8 tuần tuổi hơn
27%.
+ ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng
Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng đến từng mô khác nhau, gây nên sự
biến đổi trong quá trình phát triển của mô này đối với mô khác, dinh
dưỡng còn ảnh hưởng đến biến động di truyền về sinh trưởng.
Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, 1993 [16], để phát huy khả
năng sinh trưởng cần cung cấp thức ăn với đầy đủ các chất dinh
dưỡng và được cân bằng protein, các axit amin với năng lượng,
ngoài ra những năm gần đây trong thức ăn hỗn hợp chúng ta đ• bổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
sung một số các chế phẩm hoá học không mang ý nghĩa về dinh
dưỡng, nhưng nó có tác dụng kích thích về sinh trưởng và làm tăng
chất lượng thịt.
Lê Hồng Mận và cộng sự, 1993 [20] xác định được nhu cầu dinh
dưỡng về protein nuôi gà Broiler cho năng suất cao, thì ngoài năng
lượng/Protein (ME/CP) trong khẩu phần thức ăn cũng là vấn đề rất
quan trọng cần được quan tâm.
Dinh dưỡng của gia cầm gồm nhiều thành phần, mỗi thành phần đều
có tầm quan trọng và ý nghĩa riêng của nó.
ở gà Broiler, một phần năng lượng để duy trì, một phần để tăng khối
lượng, cá thể có tốc độ tăng trưởng nhanh thì sẽ cần ít năng lượng
để duy trì hơn, tiêu tốn thức ăn ít hơn. Tăng khối lượng nhanh do cơ
thể đồng hoá tốt, trao đổi chất được tăng cường làm cho việc sử
dụng thức ăn có hiệu quả tốt hơn. Theo Chambers J.R và cộng sự,
1984 [42] thì mối tương quan giữa khối lượng của gà Broiler với
lượng thức ăn tiêu tốn từ 0,5 - 0,9. Gà có tốc độ tăng khối lượng cao
thì yêu cầu thức ăn có tỷ lệ protein cao hơn (Paudman J.A và cộng
sự, 1970 [53]; (Pym R.A.E và cộng sự, 1978 [54]). Dinh dưỡng
không chỉ cần thiết cho quá trình sinh trưởng mà còn cần thiết để
thể hiện khả năng di truyền của sinh trưởng.
Meller David Soares, Josepbb J.R, 1981 [23] đ• xác định được sự
ảnh hưởng của hàm lượng Chorocid, Sulfat và lượng Natri, Phot
pho trong chế độ dinh dưỡng đến sinh trưởng của gà.
1.1.2.2. Tiêu tốn thức ăn
Tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng khối lượng phản ánh khả năng
chuyển hoá thức ăn để sinh trưởng, hay nói cách khác tiêu tốn thức
ăn /kg tăng khối lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và
ngược lại. Để đạt được một khối lượng cơ thể nào đó, với cơ thể
sinh trưởng chậm sẽ mất thời gian dài hơn, năng lượng dành cho
duy trì cao hơn dẫn đến thức ăn tiêu tốn nhiều hơn so với cơ thể có
tốc độ tăng khối lượng nhanh. Khi sinh trưởng nhanh thì quá trình
trao đổi chất của cơ thể tốt hơn, hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn do
đó tiêu tốn thức ăn giảm.
Chambers J.R và cộng sự, 1984 [42] đ• xác định hệ số tương quan
di truyền giữa tăng khối lượng của cơ thể với tiêu tốn thức ăn, hệ số
tương quan này thường rất cao từ: 0,5- 0,9 còn tương quan di truyền
giữa sinh trưởng và chuyển hoá thức ăn là thấp và âm (từ -0,2 đến -
0,8).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng còn phụ thuộc vào độ tuổi, đối
với gà thịt thì giai đoạn đầu tiêu tốn thức ăn thấp hơn giai đoạn sau.
1.1.2.3. Khả năng cho thịt
Khả năng cho thịt là đặc điểm kinh tế quan trọng trong ngành chăn
nuôi, nó được thể hiện bằng năng suất và chất lượng thịt ở tuổi giết
mổ.
* Năng suất thịt
Năng suất thịt biểu hiện bằng tỷ lệ thân thịt, tỷ lệ các bộ phận,
thường được tính bằng tỷ lệ thịt xẻ, thịt đùi, thịt ngực và tỷ lệ mỡ
bụng.
Theo Ricard F.H và Rouvier, 1967 [55] ta thấy mối tương quan giữa
khối lượng sống và khối lượng thịt xẻ là rất cao, thường là 0,9; còn
giữa khối lượng sống và khối lượng mỡ bụng thấp hơn thường từ:
0,2- 0,5.
Các giống, các dòng khác nhau thì năng suất thịt cũng khác nhau.
Chambers J.R, 1990 [41] cho biết giữa các dòng luôn có sự khác
nhau di truyền về năng suất thịt xẻ, hay năng suất thịt đùi, thịt
ngực (phần thịt ăn được không có xương). Ngoài ra năng suất thịt
còn phụ thuộc vào tính biệt và chế độ dinh dưỡng.
* Chất lượng thịt
Thịt gia cầm có tính ngon miệng và mùi vị hấp dẫn, điều này liên
quan đến đặc điểm sinh thái của tổ chức cơ và tính chất lý học của
nó như độ mềm, độ ướt Những sợi cơ của thịt gà rất mỏng và các
tổ chức liên kết giữa chúng nhỏ hơn thịt một số loài gia súc khác.
Theo Chambers J.R, 1990 [41] thì tốc độ sinh trưởng có tương quan
âm với tỷ lệ mỡ (-0,32) và khoáng tổng số (- 0,14). Chất lượng thịt
phụ thuộc vào thành phần hoá học của thịt và có sự khác nhau giữa
các dòng, giống, cùng một chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng, cùng
một lứa tuổi và cùng một giống thì không có sự khác nhau về thành
phần hoá học của thịt. Prias (1984) đ• xác định được hệ số di truyền
về tỷ lệ thịt xẻ như: Độ ẩm là 0,38; protein là 0,47; mỡ là 0,48 và
khoáng là 0,25 (dẫn Theo Chambers J.R, 1990 [41]).
Ngoài ra việc đánh giá chất lượng thịt còn dựa theo độ béo, tròn của
thân hình, mùi vị, độ ngọt, độ mềm và cứng của thịt Các khuyết
tật như lở loét da, có chứa u và tổn thương, g•y lườn , cũng ảnh
hưởng đến chất lượng thịt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
1.1.2.4. Sức sống và khả năng kháng bệnh
Sức sống và khả năng kháng bệnh của gia cầm là yếu tố quan trọng
giúp cho chăn nuôi đạt hiệu quả. Tổn thất do dịch bệnh ở gia cầm là
rất lớn nên cần phải có những biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa để
giảm bớt tổn thất đó. Khi đàn gà bị mắc bệnh tỷ lệ chết tăng cao, dễ
lây nhiễm và mắc các bệnh khác, nhất là các bệnh truyền nhiễm. Để
điều trị và đề phòng các loại dịch bệnh phải cần rất nhiều kinh phí
để mua vacxin tiêm phòng, thuốc kháng sinh để chữa bệnh, cùng
hàng loạt các biện pháp thú y khác.
Marco A.S và cộng sự (1992) (dẫn Theo Hoàng Toàn Thắng, 1996
[31] cho biết: sức sống thể hiện ở thể chất và xác định trước hết bởi
khả năng có tính di truyền ở động vật có thể chống lại những ảnh
hưởng không thuận lợi của môi trường cũng như ảnh hưởng của
dịch bệnh.
Theo Ngô Giản Luyện, 1994 [18] thì mối liên quan giữa chỉ tiêu
sinh lý, sinh hoá máu đối với sức sống và sản lượng trứng được
Kotris và cộng sự tại viện thú y Matxcơva (1988) xác định: Số
lượng bạch cầu trong máu gà Hybro liên quan đến sức sống và sản
lượng trứng, những gà mái có số lượng bạch cầu cao giai đoạn 60 -
110 ngày thì tương ứng với sức sống và sản lượng trứng cao.
Theo Gavano J.S, 1990 [47] hệ số di truyền tỷ lệ chết ở gia cầm là
0,07; hệ số di truyền của sức kháng bệnh là 0,25. Robertson và
Lerner, 1949 [56] xác định hệ số di truyền tỷ lệ nuôi sống và sức
kháng bệnh thấp, phụ thuộc vào dòng, giống. Giới tính và phụ thuộc
nhiều nhất vào yếu tố nuôi dưỡng.
1.1.2.5. Khả năng đẻ trứng
Khả năng đẻ trứng là một chỉ tiêu quan trọng đối với gà sinh sản nó
bao gồm sản lượng trứng, chất lượng trứng và tỷ lệ ấp nở.
Sức đẻ trứng là số trứng thu được của mỗi mái đẻ hoặc mỗi đàn
trong một khoảng thời gian nhất định, sức đẻ trứng là một đặc điểm
phức tạp và biến đổi, được xác định tổng hợp qua các yếu tố bên
trong và bên ngoài. Sức đẻ trứng chịu sự chi phối của tập hợp các
gen khác nhau, nó dao động khoảng từ một đơn vị tới hàng trăm
trong một năm đẻ (Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998) [9].
Trứng gia cầm nói chung và trứng gà nói riêng là một tế bào sinh
sản khổng lồ, được bao bọc bởi lòng đỏ, lòng trắng, màng vỏ và vỏ.
Buồng trứng có chức năng tạo lòng đỏ, còn các bộ phận khác như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
lòng trắng, màng vỏ và vỏ do ống dẫn trứng tạo thành (Ngô Giản
Luyện, 1994) [18].
Số lượng tế bào trứng của gia cầm là rất lớn, Theo Hull (1978) [51]
thì số lượng tế bào trứng của gà mái có thể lên tới hàng triệu. Tuy
nhiên mặc dù số lượng tế bào trứng lớn, nhưng trên thực tế, sức đẻ
trứng thấp hơn nhiều so với số lượng tế bào trứng trong buồng
trứng.
Người ta thường xác định số lượng trứng sau một chu kỳ đẻ trứng
sinh học hoặc sau một năm đẻ trứng. Chu kỳ đẻ trứng sinh học được
tính từ khi đẻ quá trứng đầu tiên tới khi ngừng đẻ thay lông - đó là
chu kỳ thứ nhất, chu kỳ thứ hai tính từ khi gia cầm bắt đầu đẻ lại
(sau khi thay lông) tới khi ngừng đẻ và thay lông lần thứ hai. Qua
nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian hình thành trứng trong
ống dẫn trứng dao động trong khoảng từ 23,5 - 24 giờ (Nguyễn Duy
Hoan, Trần Thanh Vân, 1998) [9].
Nếu gà mái có thời gian hình thành trứng trong ống dẫn trứng dưới
24 giờ thì có thể đẻ trứng liên tục đều đặn. Trong trường hợp này,
quá trình rụng trứng diễn ra sau khi đẻ trứng khoảng nửa giờ thì gà
đẻ sẽ không liên tục.
Sức đẻ trứng phụ thuộc và liên quan trực tiếp với giống, dòng gia
cầm, sự phát triển của cá thể, tuổi, độ béo, trạng thái sức khoẻ, thể
trạng, sự thay đổi lông, tính ấp bóng, độ thành thục, cường độ và
sức bền đẻ trứng, chu kỳ và nhịp độ đẻ trứng. Đồng thời phụ thuộc
vào các đặc trưng di truyền và chọn giống, thức ăn dinh dưỡng,
nhiệt độ và các yếu tố tiểu khí hậu khác.
Giống, dòng ảnh hưởng đến sức sản xuất một cách trực tiếp như:
Giống gà Leghorn có sản lượng 250 - 270 trứng /mái/năm, trong khi
đó gà Ri chỉ có 90 - 110 trứng/mái/năm. Những dòng chọn lọc kỹ
thường đạt chỉ tiêu cao sản hơn những dòng chưa chọn lọc kỹ
khoảng 15- 30 % về sản lượng trứng.
Mùa vụ cũng có ảnh hưởng đến khả năng đẻ trứng của gia cầm. ở
nước ta do mùa hè nắng nóng nên sức đẻ trứng giảm xuống rất
nhiều so với mùa xuân và đến mùa thu lại tăng lên. Tuổi gia cầm
cũng ảnh hưởng rất lớn đến sức đẻ trứng, sản lượng trứng giảm dần
theo tuổi, trung bình năm thứ hai giảm 15 - 20 % so với năm thứ
nhất (ở vịt sản lượng trứng lại cao nhất vào năm tuổi thứ hai).
Ngoài ra các yếu tố khác như nhiệt độ, ánh sáng, cũng ảnh hưởng
nhiều đến sản lượng trứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Từ trước đến nay các công trình nghiên cứu đều đi đến kết luận: gia
cầm lai do sự phối hợp giữa nhiều dòng đ• xuất hiện ưu thế lai về
sản lượng trứng khối lượng trứng, thời gian của chu trình đẻ trứng,
tỷ lệ có phôi, tỷ lệ nở, tỷ lệ nuôi sống với dòng thuần.
1.1.2.6. Tỷ lệ ấp nở
Chất lượng trứng ấp ảnh hưởng rất lớn đến các chỉ tiêu tỷ lệ nở. Một
đàn giống gia cầm được nở ra từ những quả trứng có chất lượng
không cao do các yếu tố như di truyền, ngoại cảnh không thuận lợi
gây nên thì khó có thể là một đàn gia cầm khoẻ mạnh. Vậy để nâng
cao chất lượng trứng ấp và tỷ lệ ấp nở cần phải tác động đến các yếu
tố như:
* Chọn giống nhằm nâng cao tỷ lệ ấp nở
Chọn giống là biện pháp có nhiều hy vọng để cải tiến chất lượng
trứng ấp. Mục đích của nó là nâng cao tỷ lệ ấp nở của trứng gà tỷ lệ
gà con loại I. Điều này còn có thể đạt được bằng cách chọn lọc trực
tiếp trên cơ sở tính đến sản lượng trứng và năng suất thịt của đàn bố
mẹ.
Một trong những chỉ tiêu chọn giống quan trọng ảnh hưởng tới tỷ lệ
nở là khối lượng trứng.
Theo Nguyễn Thanh Sơn (1993) thì ảnh hưởng của khối lượng
trứng ấp đến các chỉ tiêu ấp nở như sau:
Khối lượng trứng (g) Trứng có phôi(%) Trứng loại (%) Gà
loại II (%) Tỷ lệ nở/
trứng ấp
Có vòng máu Chết phôi muộn Nở chậm
50 - 55 7,25 2,22 4,58 4,83 8,69 72,43
56 - 61 5,00 1,75 4,50 4,50 5,51 78,74
62 - 67 6,25 2,00 4,75 5,00 7,00 75,00
Điều này chứng tỏ rằng những quả trứng quá to hoặc quá bé, có
thành phần không cân đối đều cho tỷ lệ ấp nở kém, hay nói cách
khác chế độ ấp không phù hợp với trứng có khối lượng nằm ngoài
giới hạn (quá to hoặc quá bé).
Ngoài khối lượng, các chỉ tiêu hình thái của trứng, độ biến dạng của
vỏ trứng ở các mức độ khác nhau đều có ảnh hưởng tới tỷ lệ ấp nở
là chất lượng gà con.
* Chăm sóc đàn gà bố mẹ
Chăm sóc nuôi dưỡng tối ưu cho đàn gà bố mẹ có ý nghĩa rất lớn
trong việc cải thiện chất lượng trứng và nâng cao tỷ lệ ấp nở của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
trứng ấp. Qua nhiều nghiên cứu thực nghiệm người ta đ• xác định
được rằng việc giảm tỷ lệ nở trong khoảng 25 % trường hợp liên
quan tới sự khiếm khuyết trong chăm sóc nuôi dưỡng, trên 25 %
phụ thuộc vào điều kiện bảo quản trứng, trên 7,5% do vi phạm chế
độ ấp và trên 5% do yếu tố di truyền. Còn lại 37,5% trường hợp liên
quan tới sự tổng hợp của nhiều yếu tố.
Thường thì khi trong thức ăn của đàn gà bố mẹ thiếu một số chất
cần thiết thì sẽ dẫn tới hậu quả chết phôi cao, tỷ lệ ấp nở thấp. Điều
dễ nhận thấy nhất là khi trong khẩu phần thiếu Vitamin nhóm B,
thiếu chất khoáng đa lượng và vi lượng thì không những sản xuất
trứng bị giảm mà cả tỷ lệ ấp nở cũng giảm theo. Cho đàn bố mẹ ăn
đầy đủ số lượng và chất lượng thức ăn còn phải kết hợp với các điều
kiện chăm sóc chu đáo không riêng với gà mái mà phải đối với cả
gà trống. Tỷ lệ trống mái trong các giai đoạn độ tuổi cần được duy
trì và bố trí hợp lý. Khi đàn gà bố mẹ khoẻ mạnh, thì mới có được
tỷ lệ ấp nở cao, gà con nở ra mới khoẻ mạnh tức là trong các điều
kiện được đảm bảo.
Vì vậy trong quá trình nuôi dưỡng chăm sóc đàn bố mẹ cần định kỳ
kiểm tra chất lượng tinh dịch của gà trống để kịp thời có biện pháp
xử lý thích hợp.
Nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng đến chất lượng trứng ấp, ở
nước ta vào mùa hè nhiệt độ không khí cao không những làm giảm
năng suất mà còn làm giảm cả chất lượng ấp trứng. Để khắc phục
ảnh hưởng bất lợi đó, cần áp dụng nhiều biện pháp khác nhau.
Trước tiên là điều chỉnh hàm lượng dinh dưỡng trong khẩu phần.
Nhiều tác giả đ• khuyến cáo rằng trong những ngày nhiệt độ thời
tiết nóng bức cần tăng tỷ lệ protein thô trong khẩu phần từ 2 - 3% so
với những ngày nhiệt độ bình thường. Vì trong những ngày nhiệt độ
cao, lượng thức ăn tiêu thụ của gia cầm bị giảm xuống, trong khi đó
gia cầm lại tiêu tốn năng lượng đáng kể để thải nhiệt do đó năng
lượng cho nhu cầu duy trì và sản xuất càng thiếu.
* Điều kiện thu nhặt và vận chuyển trứng
Chất lượng trứng ấp còn phụ thuộc vào sự thu nhặt và vận chuyển
trứng đến cơ sở ấp. Thu nhặt và vận chuyển trứng sau khi đẻ ra là
khâu cần được lưu ý vì trứng là một vật thể sống, tần suất thu nhặt
có ảnh hưởng lớn đến chất lượng trứng ấp, nếu như trứng khi đẻ ra
lưu lại trong ổ lâu thì sự nhiễm bẩn và gây dập vỡ sẽ cao. Qua kết
quả khảo sát cho thấy trên 1cm2 vỏ trứng bẩn chứa tới 60 - 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
ngàn vi khuẩn, trong đó trực khuẩn đường ruột chỉ biến động từ 0 -
15. Cho nên chế độ thu nhặt trứng cần phải phù hợp với đặc điểm
sinh học của các loại gia cầm khác nhau.
Hầu hết các cơ sở chăn nuôi gia cầm ở nước ta, việc vân chuyển
trứng ấp từ chuồng đến nơi bảo quản thường được sử dụng xe kéo,
hoặc xe vận tải nhỏ, chưa có xe chuyên dụng. Vì vậy cần lưu ý là
mức độ xóc của xe cũng có ảnh hưởng, làm giảm chất lượng trứng,
do xóc tạo chấn động gây cho buồng trứng bị lệch vị trí.
Vận chuyển trứng khi đi xa cần phải bao gói cẩn thận, có thể dùng
khay chuyên dụng để trứng cho vào lồng nhựa hoặc hộp giấy
coston. Trứng được vận chuyển đến nơi nhận cần được dỡ ra và để
trứng cố định từ 10 - 12 giờ trong phòng có nhiệt độ thích hợp,
không khí thoáng mát.
* Điều kiện bảo quản trứng
Ngoài đảm bảo sự tối ưu các thông số về nhiệt độ, ẩm độ, trao đổi
khí trong quá trình bảo quản trứng, người ta còn đưa ra nhiều biện
pháp khác nhau tác động đến trứng trước khi đưa trứng vào ấp nhằm
nâng cao chất lượng ấp nở của gia cầm.
1.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thịt gia cầm
Mức sống của con người càng cao thì nhu cầu tiêu thụ thịt càng lớn
và những sản phẩm thịt chất lượng cao (ít mỡ giàu protein) đòi hỏi
ngày càng nhiều. Thịt gia cầm là một trong những loại thịt có thể
đáp ứng được yêu cầu này. Nâng cao năng suất thịt và cải thiện chất
lượng thịt là mục tiêu phấn đấu không ngừng của các nhà chăn nuôi.
1.1.3.1. Những yêu cầu đối với chất lượng thịt
Khi gia cầm còn sống, cần đặc biệt chú ý đến sức khoẻ của chúng,
tốc độ mọc lông, thời điểm thay lông đều ảnh hưởng đến chất
lượng thịt. Gia cầm mọc lông muộn đặc biệt là lông lưng, các chân
lông ở dưới da làm giảm chất lượng thịt. Sự biến dạng của xương
ngực, xương chân và xương chậu đều làm cho chất lượng thịt không
đạt yêu cầu. Mỗi nước có sự đánh giá gia cầm sống khác nhau, chủ
yếu người ta xét đến cấu trúc thân, khối lượng, phát triển của bộ
lông. Sự phát triển của cơ ngực và cơ dưới đùi có ý nghĩa lớn không
chỉ đến số lượng mà cả đến chất lượng thịt.
Sau khi giết thịt, việc đánh giá chất lượng thịt dựa vào các chỉ tiêu:
Lườn không được nhô ra, hướng của lườn song song với trục của
thân. Da phải nhẵn, không rách, không có lông măng. Thịt tươi,
ngon, mịn, sáng, hàm lượng mỡ không quá cao. Sự hao hụt nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
hay ít sau khi mổ, sau khi bảo quản và sau khi chế biến phản ánh
chất lượng thịt tốt hay không tốt. Trong thịt có chứa hàm lượng
nước nhất định, điều đó sẽ làm tăng sự ngon miệng của thịt. Các
công trình nghiên cứu đ• chứng minh là độ ngon miệng phụ thuộc
vào hàm lượng tuyệt đối của nước trong thịt. Thịt có hàm lượng
nước tuyệt đối cao do khả năng giữ nước kém nên mất nhiều nước
làm giảm giá trị.
Ngược lại, thịt có hàm lượng nước tuyệt đối thấp có khả năng giữ
nước cao, thì loại thịt này chất lượng cao ăn ngon hơn.
1.1.3.2. Các biện pháp cải thiện chất lượng thịt gia cầm
Để cải thiện chất lượng thịt gia cầm người ta d• sử dụng nhiều biện
pháp khác nhau như: việc nghiên cứu chọn lọc lai tạo để tạo ra được
các giống mới có chất lượng thịt cao, đặc điểm của các giống gia
cầm quý hiếm, việc áp dụng phương thức chăn nuôi, chế độ dinh
dưỡng, chăm sóc, phương thức giết mổ và bảo quản, tất cả đều có
tác động đến chất lượng thịt gia cầm.
- Giống gia cầm: Đây là yếu tố rất quan trọng liên quan chặt chẽ đến
chất lượng thịt, thông qua việc chọn lọc, nhân thuần qua nhiều thế
hệ, các nhà khoa học đ• chọn ra các giống gia cầm có chất lượng
thịt có đặc thù riêng.
Trong các loại gia cầm thì thịt gà và thịt gà tây có chất lượng dinh
dưỡng tốt như: Thịt gà và thịt gà tây màu trắng (thịt thuỷ cầm có
màu đỏ), cơ trắng có giá trị sinh học cao hơn cơ đỏ vì trong đó
không chỉ chứa nhiều protein, mà tỷ lệ giữa protein toàn phần và
không toàn phần cũng như giữa các aixit amin đều tốt hơn. Phần lớn
các nhà nghiên cứu đều công nhận rằng: Các giống gia cầm địa
phương chăn nuôi tự nhiên như: Gà Ri, Gà thịt đen, Vịt cỏ, Ngỗng
cỏ đều có chất lượng thịt tốt hơn so với các giống mới do con
người tạo ra thông qua lai tạo. Giữa chất lượng thịt và năng suất thịt
có mối quan hệ nghịch, thường các giống có năng suất cao thì cho
chất lượng thịt kém. Để giải quyết vấn đề này các nhà tạo giống đ•
cho lai tạo giống gia cầm địa phương, có chất lượng thịt cao so với
các giống cao sản, vừa giữ được chất lượng thịt vừa nâng cao năng
suất chăn nuôi. Ngoài yếu tố giống, vấn đề chăm sóc, quản lý nuôi
dưỡng cũng ảnh hưởng tới chất lượng thịt. Rudlf và Frodshe đ•
nghiên cứu ảnh hưởng của các hàm lượng ngô khác nhau trong thức
ăn hỗn hợp đến kết quả vỗ béo vịt thấy rằng: Ngô có ảnh hưởng rõ
rệt đến khối lượng cơ thể vịt khi vỗ béo. Những lô được ăn thức ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
hỗn hợp có chứa 50% ngô trong khẩu phần sẽ có tỷ lệ lipit và vật
chất khô cao hơn các lô có ít tỷ lệ ngô trong khẩu phần (nhỏ hơn
50% tỷ lệ ngô). Trong khi đó tỷ lệ pritein thì không thay đổi giữa
các lô. Ngoài ra ăn ngô còn nảh hưởng đến tỷ lệ mỡ bụng, nhưng ưu
điểm của ngô là làm cho màu da và màu chân của gia cầm vàng hơn
(dẫn theo Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1999)[10].
Thường thịt gà và thịt vịt có mùi khó chịu khi bảo quản lâu và trong
thức ăn có chứa nhiều bột cá (lớn hơn 8%). Tuy nhiên mùi tanh
cũng có ảnh hưởng không giống nhau trong các đàn và trong từng
cá thể. Thức ăn có chứa nhiều Caroten làm cho da của da cầm trở
lên vàng hơn.
Vấn đề dinh dưỡng protein và năng lượng cho gia cầm, mối liên hệ
của nó tới chất lượng thịt đ• thu hút được sự quan tâm của nhiều tác
giả trong và ngoài nước, người ta đ• tìm thấy sự thay đổi đáng kể
chất lượng dinh dưỡng và độ ngon miệng của thịt khi có sự thay đổi
thành phần thức ăn hỗn hợp bằng việc bổ sung các axit amin tổng
hợp. Sử dụng năng lượng cho gia cầm liên quan chặt chẽ đến nhiệt
độ môi trường. Trong điều kiện nhiệt độ môi trường cao năng suất
và chất lượng thịt gà broiler phụ thuộc một phần vào hàm lượng các
chất dinh dưỡng trong khẩu phần. Khẩu phần với hàm lượng năng
lượng quá cao có thể sẽ ảnh hưởng đến quá trình điều hoà thân
nhiệt, hậu quả không tránh khỏi là giảm sự thích ứng của cơ thể với
môi trường đặc biệt là môi trường có cả nhiệt độ và ẩm độ cao.
Gần đây, một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm là:
chất lượng thịt gia cầm “Sạch’’. Điều này trước tiên phải được hiểu
là trong thịt gia cầm không tồn dư các loại kháng sinh và các loại
kích thích tăng trọng. Một số nhà khoa học khuyên rằng không nên
sử dụng kháng sinh trong thời gian nuôi gà broiler, đặc biệt không
nên sử dụng kích thích tăng khả năng sinh trưởng và phát triển của
gia cầm. Hạn chế đến mức thấp nhất sử dụng kháng sinh. Đối với
kháng sinh, để tránh sự tồn dư trong thịt không nên sử dụng trước
khi giết thịt 2 tuần và đúng liều quy định.
Ngoài thức ăn thì các vấn đề khác như: phương thức nuôi, chăm sóc
quản lý cũng có liên quan đến chất lượng thịt. Gà nuôi chăn thả có
chất lượng thịt tốt hơn, hàm lượng mỡ trong thịt ít hơn và có độ
chắc cao hơn so với gà nuôi nhốt. Vấn đề nuôi chăn thả không phải
chỉ do gà vận động nhiều làm giảm tỷ lệ mỡ, thớ thịt chắc chắn mà
còn liên quan đến việc gà có thể kiếm được các loại thức ăn đa dạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
ở môi trường, gà được tiếp xúc với môi trường hoàn toàn tự nhiên
sẽ làm chất lượng thịt ngày càng tăng lên.
Vấn đề chăm sóc quản lý mà cụ thể là cách đối xử với con vật trước
lúc giết cũng có ảnh hưởng đến chất lượng thịt. Một số tác giả
khẳng định rằng nếu làm cho con vật mệt mỏi quá mức khiến thịt
trở nên nhạt nhẽo và làm tăng khả năng xâm nhập của vi sinh vật
qua các màng ruột.
Vận chuyển gia súc cũng liên quan đến chất lượng thịt. Richter đ•
xác định rằng: Các gia súc lớn sau một thời gian vận chuyển dài
ngày có ít nước trong thịt hơn 0,5% so với các con vật chỉ bị vận
chuyển trong một thời gian ngắn. Do lượng glycogen dự trữ bị giảm
đi trong quá trình vận chuyển để giải phóng năng lượng và axit
lactic trong thịt cũng giảm theo, dần dần độ pH trong thịt cũng tăng
lên làm giảm gía trị của thịt. Các quá trình hoá học này không
những ảnh hưởng đến hình thức bên ngoài của thịt xẻ mà còn ảnh
hưởng tới khả năng kết hợp của nước (dẫn theo Nguyễn Duy Hoan,
Bùi Đức Lũng, Nguyễn Thanh Sơn và Đoàn Xuân Trúc, 1999 [10]).
+ Vấn đề an toàn thực phẩm: ngày càng trở nên quan trọng, cùng
với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày càng có nhiều loại
hoá chất vi sinh vật, thuốc và chất kháng sinh được sử dụng trong
chăn nuôi gia cầm.
Trước đây người ta quan tâm về an toàn hầu như tập trung về những
vi sinh vật gây bệnh, vì thịt là môi trường rất tốt cho vi sinh vật hoạt
động và phát triển. Tuy nhiên vi khuẩn gây độc cho lương thực và
thực phẩm không phát triển được trong nhiệt độ lạnh (dưới 400).
Hơn nữa vi khuẩn phân huỷ có trong thịt tươi không gây bệnh cho
gia cầm nhưng vẫn phát triển được trong nhiệt độ lạnh và nói chung
vẫn làm cho lương thực và thực phẩm giảm giá trị. Như vậy, vi
khuẩn phân huỷ có trong thịt tươi thường làm cho thịt thay đổi trước
khi những vi sinh vật gây bệnh này đạt tới số lượng đủ để trở thành
có hại. Một trong những vi khuẩn gây bệnh thường có trong thịt tươi
là Salmonella, đây là loại rất dễ bị diệt khi nấu chín.
Những loại sản phẩm thịt gà đ• qua chế biến cũng đem lại mối quan
tâm khác về an toàn thực phẩm, bởi hầu hết các sản phẩm đó được
xử lý bằng muối, Natri hoặc đ• được xử lý qua nhiệt độ, nếu
không khống chế được nhiệt độ trong thời gian bảo quản thì các tác
nhân gây bệnh vẫn có cơ hội để hoạt động và phát triển trở lại,
những sản phẩm không qua xử lý nhiệt hoặc nấu chín và đóng gói