ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ THU HÀ
NHỮNG BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
VỀ VĂN HỌC SỬ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Ở MIỀN NÚI PHÍA BẮC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thái Nguyên, năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Trang bìa phụ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ THU HÀ
NHỮNG BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
VỀ VĂN HỌC SỬ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
Ở MIỀN NÚI PHÍA BẮC
Chun ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Văn - Tiếng Việt
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN GIA CẦU
Thái Nguyên, năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Gia Cầu Người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn, khoa Sau
đại học trường ĐHSP Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ và động viên em
trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn BGH trường phổ thông Vùng
Cao Việt Bắc, những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên , ngày 10 tháng 8 năm 2011
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các tài
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung
thực và chưa từng được ai công bố ở bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục ....................................................................................................................................i
Danh mục viết tắt trong luận văn....................................................................................... iii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................................... 10
Chƣơng 1 MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA
VẤN ĐỀ TỰ HỌC VĂN HỌC SỬ Ở THPT ........................................................... 10
1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................... 10
1.1.1. Lý thuyết về tự học .................................................................... 10
1.1.2. Lý thuyết dạy học các bài học về lịch sử văn học (VHS). ......... 25
1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................. 34
1.2.1. Chương trình, SGK về văn học sử ở THPT ............................... 34
1.2.2 Đặc điểm của học sinh THPT ở miền núi phía Bắc về việc
tiếp nhận tri thức văn học sử. ............................................................... 47
Chƣơng 2 NHỮNG BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
VỀ VĂN HỌC SỬ CHO HỌC SINH THPT Ở MIỀN NÚI PHÍA BẮC........ 69
2.1. Biện pháp 1: Giải toả vướng mắc đầu tiên của học sinh miền núi
khi tự học các bài viết về văn học sử - vướng mắc về thuật ngữ. ............ 69
2.1.1. Những thuật ngữ học sinh vướng mắc: “nhận định”, ................ 69
2.1.2. Biện pháp giải toả: ..................................................................... 70
2.1.3. Hiệu quả: .................................................................................... 73
2.2. Biện pháp 2: Kích thích hứng thú tự học các bài học VHS trong
SGK Ngữ Văn. ......................................................................................... 73
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
2.2.1. Hứng thú đối với các bài học về văn học sử của học sinh
THPT ở miền núi phía Bắc. ................................................................ 74
2.2.2. Kích thích hứng thú tự học đối với các bài học văn học sử
của học sinh THPT ở miền núi phía Bắc. ............................................ 75
2.3. Biện pháp 3: Phát triển năng lực phát hiện và hệ thống hoá các
nhận định văn học sử trong SGK. ............................................................ 77
2.3.1. Thực tế năng lực phát hiện và hệ thống hoá các nhận định
văn học sử trong SGK của học sinhTHPT ở miền núi phía Bắc. ........ 77
2.3.2. Cách thức mà luận văn đề xuất để làm phát triển năng lực
phát hiện và hệ thống hoá các nhận định về văn học sử trong SGK. .. 79
2.4. Biện pháp 4: Phát triển năng lực tái hiện và chứng minh các
nhận định về văn học sử trong SGK. ....................................................... 87
2.4.1. Thực tế năng lực tái hiện và chứng minh các nhận định văn
học sử của học sinhTHPT ở miền núi phía Bắc. ................................. 87
2.4.2. Cách thức mà luận văn đề xuất để làm phát triển năng lực tái
hiện (nhắc lại) và chứng minh (làm sáng tỏ) một nhận định . ............. 88
Chƣơng 3 THIẾT KẾ BÀI HỌC VỀ VĂN HỌC SỬ THEO HƢỚNG
CHÚ TRỌNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH
THPT Ở MIỀN NÚI PHÍA BẮC ................................................................................ 97
3.1. Thiết kế bài học văn học sử “Khái quát văn học Việt Nam từ đầu
thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 ” – SGK, Ngữ Văn
11, tập 1 (bộ chuẩn). ................................................................................. 97
3.1.1. Mục tiêu bài học ......................................................................... 97
3.1.2. Định hướng dạy học ................................................................... 97
3.1.3. Tiến trình bài học ....................................................................... 98
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................................ 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................11416
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
Giáo viên
GV
Hà Nội
HN
Học sinh
HS
Nhà xuất bản giáo dục
Phổ thông
NXBGD
PT
Sách giáo khoa
SGK
Trung học phổ thơng
THPT
Văn học sử
VHS
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XX đã trôi qua, cả nhân loại bước vào thế kỷ mới. Một thế kỷ
với những hứa hẹn mới, thách thức mới, địi hỏi mới, khó khăn mới đang
đặt ra nhiều suy nghĩ, trăn trở cho mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi cá nhân.
Đó là thế kỷ XXI, thế kỷ của “một nền văn minh đầy sáng tạo”, thế kỷ mà
công nghệ thông tin đang đảo lộn đời sống văn hoá và vật chất của mỗi con
người. Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, thế kỷ của sự bùng nổ
thông tin và khoa học công nghệ đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh
và khối lượng ngày càng lớn.
Trước tình hình đó, để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế
giới, thời đại, một yêu cầu hết sức cấp bách đặt ra với nền giáo dục nước ta
là: phải liên tục đổi mới, hiện đại hoá nội dung và phương pháp dạy học.
Mục đích cuối cùng là để từng cá nhân tự mình có ý thức tạo được một
cuộc cách mạng học tập trong bản thân.
Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn là một vấn đề đã và đang
được quan tâm đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo ở nước
ta. Phương pháp là khâu quan trọng quyết định tới sự thành cơng của q
trình dạy học. Xu hướng dạy học phát triển năng lực tự học về Ngữ Văn
cho học sinh trung học phổ thông đang trở thành phương châm hành động
của giáo viên dạy Ngữ Văn ở miền núi hiện nay.
Việc tự học Ngữ Văn ở nhà trường nói chung và tự học về văn học
sử nói riêng là một vấn đề đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu về
phương pháp dạy học Ngữ Văn cũng như nhiều nhà giáo đã quan tâm.
Qua thực tế giảng dạy văn học sử ở Trường PT Vùng Cao Việt Bắc nơi hội tụ con em dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc, chúng tơi
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
2
nhận thấy: VHS là bài học có tính khái qt và tính trừu tượng cao nên có
phần khơ khan và kém hấp dẫn. Là một các bài học khó như vậy, nhưng
còn những giáo viên chưa thực sự đầu tư đúng mức, chưa vận dụng lối dạy
học tích cực hố người học, chưa tìm ra biện pháp thích hợp để phát triển
năng lực tự học cho học sinh theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học
văn học sử .Vì vậy dẫn tới tình trạng học sinh thờ ơ với bài giảng, tiếp thu
kiến thức một cách thụ động, khó có khả năng chủ động, sáng tạo tiếp nhận
kiến thức cho riêng mình. Từ đó vơ hình chung đã làm mất đi khả năng tự
học, tự nghiên cứu của học sinh. Vậy, một vấn đề đặt ra là, làm thế nào để
học sinh khơng thờ ơ với bài giảng, có hứng thú say mê tìm hiểu? Làm thế
nào để học sinh rèn luyện được những thói quen tốt trong học tập?
Vì vậy, vấn đề đặt ra là phát triển năng lực tự học cho học sinh
THPT ở miền núi phía Bắc là một việc làm cần thiết, sát thực, đúng với xu
thế đổi mới phương pháp phù hợp với chiến lược “phát huy nội lực của
người học” đáp ứng mục tiêu của giáo dục như Nghị quyết II của Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII đã ghi: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo
dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng
tạo của người học, phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường
xun và rộng khắp trong tồn dân...”
Vì những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Những biện pháp
phát triển năng lực tự học về văn học sử cho học sinh THPT ở miền núi
phía Bắc”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tự học trong nhà trường nói chung
Tự học là một vấn đề được các nhà giáo dục nổi tiếng thế giới quan
tâm từ rất lâu dưới các phương diện, góc độ khác nhau.
Từ những năm TCN, Xôcrát (469-339TCN) đã đưa ra quan niệm rất
nổi tiếng: giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính mình. Vận
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
3
dụng quan điểm này vào dạy học, ông cho rằng cần phải để cho người học
tự suy nghĩ, tự tìm tòi, cần giúp người tự học phát hiện thấy sai lầm của
mình và tự khắc phục những sai lầm đó.
TK XVII,J.A.Cômenxki (1592-1670) đã nghiên cứu vấn đề quan
điểm giáo dục: “đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán của người học,
hay tìm ra phương pháp cho phép giáo viên giảng ít hơn, học sinh học
nhiều hơn. Ông đã đề ra một số nguyên tắc dạy học nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh: nguyên tắc đảm bảo tính trực quan trong dạy học,
nguyên tắc đi từ cái chung đến cái riêng ...”. Ngày nay, kế thừa những
thành tựu của Cômenxki, lý luận dạy học đã xây dựng được một hệ thống
các nguyên tắc dạy học: đảm bảo tính vững chắc của tri thức kĩ năng, kĩ
xảo với tính mềm dỴo của tư duy...
Trong cuốn “Học tập hợp lý” (Cộng hòa dân chủ Đức trước đây) do
R.Retzke chủ biên, các tác giả đã đề cập đến vấn đề bồi dưỡng năng lực tự
nghiên cứu cho học sinh mới vào trường. Năm 1984, Nxb Thanh niên giới
thiệu cuốn “Nghiên cứu học tập như thế nào” của Hebơc Smitman (Cộng
hoà dân chủ Đức). Với cuốn sách này, tác giả đã đề cập tới nhiều vấn đề về
phương pháp nghiên cứu và tự học như thế nào cho khoa học và đạt hiệu
quả cao. Cuốn “Tự học như thế nào” của Rubakin, dịch giả là Nguyến Đình
Cơi , xuất bản 1982 đã giúp bạn đọc biết tự học tập, nâng cao kiến thức
tồn diện của mình. Cuốn “Phương pháp dạy và học hiệu quả” - Cark
Rogers- một nhà giáo dục học, nhà tâm lý học người Mĩ do Cao Đình Quát
dịch đã giải đáp cho học sinh câu hỏi học cái gì và học như thế nào? Câu
hỏi dạy cái gì và dạy như thế nào cũng được giải đáp. Ngoài ra, còn khá
nhiều cuốn sách cũng đề cập đến vấn đề tự học.
Ở nước ta, trong những năm gần đây cũng đã xuất hiện một số bài
viết về tự học. Tác giả Vũ Quốc Anh có bài viết: “Tạo ra năng lực tự học
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
4
sáng tạo của HS THPT”. GS. Phan Trọng Luận với bài: “Dạy văn để HS tự
học văn”. Tại Hà Nội năm 1988, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề
“Nghiên cứu tự học - tự đào tạo” đã được tổ chức với sự tham gia của
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều GS đầu ngành. Trong cuộc hội thảo này, nội
dung các bài viết, các bài phát biểu đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tự
học và yêu cầu các cấp ngành phải chăm lo xây dựng phong trào tự học
toàn dân. Bộ trưởng Bộ giáo dục - đào tạo Nguyễn Thị Bình nói: “Năng lực
tự học - tự đào tạo đều tiềm ẩn trong mỗi người. Nếu biết kết hợp quá trình
đào tạo ở trường, ở lớp với quan tâm tự học - tự đào tạo thì đó là con đường
ngắn nhất để tạo ra “nội lực” cần thiết cho sự phát triển một con người và
cho đất nước”. Tạp chí giáo dục số 2 năm 1998 đã đặc biệt quan tâm đăng
tải một số bài viết tiêu biểu trong hội thảo: “Tự học - chìa khố vàng của
giáo dục” của GS. Phan Trọng Luận, “Vì năng lực tự học sáng tạo của HS”
của Nguyễn Nghĩa Dân. Tiếp theo đó, tạp chí Nghiên cứu giáo dục đã có
rất nhiều các bài viết khác như bài của Thạc sĩ Thái Văn Long (Cà Mau)
“Khơi dậy và phát huy năng lực tự học sáng tạo của người học trong Giáo
dục - đào tạo”, hay “Vị trí của tự học, tự đào tạo trong quá trình dạy học,
giáo dục và đào tạo”.
Bên cạnh đó, một số cuốn sách cũng được xuất hiện như “Tôi tự học”
- Nguyễn Duy Cẩn, “Tự học là một nhu cầu của thời đại” - Nguyễn Hiến
Lê... Những cuốn sách này chủ yếu đúc kết những kinh nghiệm quý báu
trong quá trình tự học của một số tác giả. Đặc biệt, trung tâm nghiên cứu và
phát triển tự học cịn cho ra mắt bạn đọc tạp chí “Tự học”. Tạp chí này đã
thu hút sự chú ý và sự tham gia luận bàn về vấn đề tự học của nhiều nhà
khoa học, giáo sư, nhà giáo...Các tác giả đã cung cấp lý thuyết dạy tự học
như thế nào, bên cạnh đó có thể hiện thiết kế bài học một số môn. Tuy nhiên,
các cuốn sách hầu như mới chỉ dừng lại ở phần lý thuyết chung nhất cho mọi
môn học mà chưa đi vào các biện pháp cụ thể đối với từng mơn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Cuốn “Học và dạy cách học” do GS. Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên.
Nxb ĐHSP, xuất bản 2002 là một trong những cuốn sách đầu tiên ở Việt
Nam viết một cách có hệ thống về việc học và dạy cách học. Cuốn sách
thực sự là tài liệu bổ ích giúp cho việc đổi mới phương pháp dạy và học ở
Việt Nam, đặc biệt là quá trình dạy tự học.
2.2. Tự học trong mơn Ngữ Văn
Ngữ Văn là một mơn học có những đặc trưng riêng nên địi hỏi
người đọc phải có sự liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Vì vậy, trong việc
đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ Văn cũng là một vấn đề được
quan tâm.
Cuốn “Áp dụng dạy và học tích cực trong mơn học” do nhóm tác giả
GS Trần Bá Hồnh, TS. Nguyễn Trí , PGS. TSKH Cao Đức Tiến, TS.
Nguyễn Trọng Hoàn biên soạn do Nxb ĐHSP Hà Nội xuất bản đã nói đến
một trong những đặc trưng của phương pháp tích cực đó là tự học. Các tác
giả cũng nhấn mạnh đến nội dung dạy và học tập trung vào HS. Ở đó, các
tác giả không chỉ quan tâm đến kiến thức, năng lực phát hiện và giải quyết
các vấn đề thực tiễn.
Cuốn “Văn học giáo dục thế kỷ XXI” của GS Phan Trọng Luận, Nxb
ĐHQGHN, 2002 có một số bài đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp và
vấn đề tự học. Với bài “Tự học- chuyện cũ mà mới’’, tác giả đã đề cập đến
bí quyết của tự học.
Như vậy, đã có rất nhiều những bài viết, những cơng trình đề cập đến
vấn đề tự học mơn Ngữ Văn nói riêng. Các bài viết đã chỉ ra được mục
tiêu, cách thức, biện pháp để dạy tự học. Tuy nhiên, các bài viết cịn thiên
về mặt lý thuyết mà chưa cụ thể hố đối với từng môn học, phân môn của
nhà trường phổ thông.
2.3. Tự học đối với bài học văn học sử.
Văn học sử là một bộ phận của môn Ngữ Văn ở trường THPT. Các
bài học văn học sử chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình SGK
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Ngữ Văn vì nó cung cấp những tri thức khái quát về văn học để học sinh có
cơ sở tiếp nhận các tác phẩm văn chương cụ thể. Vì vậy, văn học sử cũng
nằm trong quỹ đạo của các nhà nghiên cứu về phương pháp, những người
quan tâm đến sự đổi mới giáo dục. Tuy nhiên là các cơng trình nghiên cứu
về lĩnh vực này cịn rất ít ỏi và khiêm tốn.
Vụ giáo dục phổ thông cấp III đã soạn thảo cuốn “Hướng dẫn phát
huy tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong dạy và học môn Ngữ
Văn”. Hướng dẫn không chỉ nêu yêu cầu về việc cải tiến nội dung, phương
hướng giảng dạy Văn theo hướng phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của
học sinh mà còn yêu cầu rất cụ thể đối với các bài học văn học sử: “chấm
dứt việc đọc chậm cho học sinh chép bài, cố gắng khắc phục tình trạng giáo
viên nói nhiều, bắt học sinh ghi chép nhiều. Thay vào đó, trong một giờ
dạy, giáo viên yêu cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều, phải nói được nhiều
suy nghĩ của mình, phải tìm tịi, phát triển để chủ động tiếp thu bài học”.
Là những Giáo sư đầu ngành phương pháp dạy học Văn, họ luôn trăn
trở với việc dạy học bộ phận văn học sử như thế nào để đạt chất lượng và
hiệu quả cao hơn, GS Phan Trọng Luận đã viết cuốn: “Mấy vấn đề giảng
dạy văn học sử ở trường PT cấp 3” và “Rèn luyện tư duy qua giảng dạy văn
học” hay cuốn “phương pháp dạy học văn” cũng chỉ dành một chương để
nói về văn học sử, hay một phần không nhiều trong cuốn “ Dạy văn dạy cái
hay cái đẹp” của Nguyễn Thị Bình. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
một số luận văn Th.s cũng đã khai thác đề tài tự học, tự nghiên cứu như
“Những hình thức tích cực hố hoạt động nhận thức của học sinh trong giờ
học văn học sử ở trường THPT” của Đào Văn Phán. “Hình thành năng lực
tự học cho HS THPT qua giờ văn học sử” của Lê Khánh Tùng, “Rèn luyện
năng lực tự học cho học sinh qua những giờ văn học sử (bài khái quát giai
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
7
đoạn văn học) của Nguyễn Thị Bích Hường”, “Hình thành năng lực tự học
cho học sinh THPT qua việc dạy các bài văn học học sử về tác gia” của
Phạm Thị Minh Thuỷ, “Hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua bài
học văn học sử (tác gia)” của Vũ Thị Sáu, “Hình thành năng lực tự học tác
phẩm văn chương cho học viên trường trung học dạy nghề” của Trần Thị
An, “Dạy học văn học sử theo hướng hình thành và phát triển năng lực tự
học ở học sinh lớp 10” của Dương Thuỳ Linh .
Như vậy, đã có những luận văn nghiên cứu về rèn luyện năng lực tự
học nói chung qua các bài văn học sử cho học sinh THPT và chúng tôi
mạnh dạn chọn đề tài: “Những biện pháp phát triển năng lực tự học về
văn học sử cho học sinh THPT ở miền núi phía Bắc”. Chương trình và
SGK THPT đã có sự thay đổi về nhiều mặt. Chúng tôi hy vọng những biện
pháp phát triển năng lực tự học về văn học sử cho học sinh THPT ở miền
núi phía Bắc mà luận văn đề xuất sẽ giúp cho học sinh có được kĩ năng tự
học các bài học văn học sử.
3. Mục đích nghiên cứu .
Luận văn hướng tới mục đích:
- Khảo sát thực trạng năng lực tự học về VHS của học sinh THPT ở
miền núi phía Bắc.
- Trên cở sở đó, luận văn đề xuất những biện pháp phát triển năng
lực tự học về văn học sử cho học sinh THPT ở miền núi phía Bắc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Trong chương trình Ngữ Văn THPT có các loại giờ học: giờ học về
lịch sử văn học (VHS), giờ học về tác phẩm văn học (Đọc - hiểu văn bản),
giờ học về lý luận văn học. Nhưng ở đề tài này chúng tôi chỉ nghiên cứu:
năng lực tự học về văn học sử của học sinh THPT ở miền núi phía Bắc học
tập tại Trường PT Vùng Cao Việt Bắc - TP Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện được mục tiêu đã đề ra, chúng tôi xác định đề tài cần
giải quyết những nhiệm vụ sau:
5.1. Nghiên cứu vấn đề tự học trên bình diện lý thuyết:
+ Vấn đề tự học nói chung.
+ Vấn đề tự học Ngữ Văn nói riêng.
+ Vấn đề tự học VHS của học sinh THPT ở miền núi phía Bắc.
5.2. Khảo sát thực tế về năng lực tự học các bài VHS của học sinh học
sinh THPT ở miền núi phía Bắc.
- Hứng thú và nhận thức của học sinh về bài học VHS.
- Năng lực tự học các bài học VHS:
+ Khả năng đọc văn bản và dàn ý hoá các bài học văn học sử trong SGK.
+ Khả năng phát hiện và hệ thống hoá các nhận định về VHS mà
SGK nêu ra.
+ Khả năng tái hiện và chứng minh (làm sáng tỏ) một nhận định.
+ Khả năng làm các bài tập về văn học sử (bài kiểm tra, bài thi).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để giải quyết những vấn đề đã được đặt ra chúng tơi vận dụng cả hai
nhóm phương pháp nghiên cứu khoa học:
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý luận về vấn đề tự học và tự
học VHS. Bằng phương pháp này chúng tơi có cơ sở lý luận định hướng
cho việc phát triển năng lực tự học về văn học sử cho học sinh THPT ở
miền núi phía Bắc.
- Phương pháp thống kê phân loại.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2.1. Phương pháp khảo sát:
Phương pháp khảo sát điều tra được thực hiện bằng hình thức phiếu
điều tra nhằm thu thập các thông tin cụ thể về năng lực tự học các bài học
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
9
VHS của học sinh THPT ở miền núi phía Bắc.
6.2.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương I: Cở sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề tự học các bài
học văn học sử ở THPT.
Chương II: Những biện pháp phát triển năng lực tự học về văn học
sử cho học sinh THPT ở miền núi phía Bắc.
Chương III: Một số thiết kế bài học theo hướng phát triển năng lực
tự học về văn học sử cho học sinh THPT ở miền núi phía Bắc.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
CỦA VẤN ĐỀ TỰ HỌC VĂN HỌC SỬ Ở THPT
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý thuyết về tự học
1.1.1.1. Khái niệm tự học.
Lịch sử văn hoá trong và ngoài nước đã xuất hiện biết bao những tấm
gương học tập nổi tiếng. Họ là những người có ý chí và phương pháp học
tập, nhất là cách tự học. Trên thế giới có những tên tuổi khiến ta vừa cảm
động vừa khâm phục như là Côpecnic (Balan, 1473 - 1543), Niutơn (Anh,
1643 - 1727), Gao xơ (Đức, 1777- 1855)... Những tấm gương trong nước
nhờ tự học mà thành tài như người thầy giáo Chu Văn An, danh y Tuệ Tĩnh,
Lương Thế Vinh...Gần đây nhất có các nhà trí thức, nhà sư phạm, GS Tạ
Quang Bửu, GS Tôn Thất Tùng, GS. Nguyễn Cảnh Toàn...và biết bao những
nhà giáo, nhà nghiên cứu thuộc mọi lĩnh vực cũng đang say sưa tự học để
khẳng định mình, để cống hiến trí tuệ cho cơng cuộc xây dựng đất nước.
Và dân tộc đã có một tấm gương vĩ đại sáng ngời về tinh thần tự học,
tự nghiên cứu - đó chính là Bác Hồ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Tinh
thần học tập lấy “Tự học làm cốt” của Bác Hồ đã trở thành tư tưởng khái
quát, mang tính quy luật. Trên con đường đấu tranh cách mạng đầy gian khổ,
chông gai nhưng Bác vẫn ln vượt qua nó để tự học ở mọi nơi, mọi lúc.
Người Việt Nam ta từ xưa không chỉ coi trọng lối học từ người thầy
“Không thầy đố mày làm nên”, mà còn rất coi trọng lối học từ bạn “Học
thầy khơng tày học bạn”, đặc biệt cịn đề cao cách tự học của mỗi cá nhân
“Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, “Học đi đôi với hành”, “Học một
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
11
biết mười”, tự học ngay cả trong cuộc sống sinh hoạt “Học ăn, học nói, học
gói, học mở ”...Vì vậy mà trong xu thế đổi mới giáo dục ở Việt Nam, các
giáo sư đầu ngành như Phan Trọng Luận, Nguyễn Cảnh Tồn, Trần Bá
Hồnh...đã đi tìm những phương pháp dạy học dựa trên cơ sở lấy việc tổ
chức hoạt độngtự học của người học làm hoạt động cơ bản. Vậy, tự học là
gì ? Tự học sẽ đem lại hiệu quả học tập cho người học như thế nào ?
Có tác giả xem hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức dạy
học. Các tác giả lại chú ý tới hoạt động tự học như là một phương thức tự
đào tạo, tự nâng cao trình độ học vấn của người học.
Hoạt động tự học có thể diễn ra dưới sự tổ chức, điều khiển trực tiếp
của giáo viên như trong các phương pháp dạy học tích cực, cũng có thể
diễn ra dưới sự tổ chức, điều khiển gián tiếp của GV như một hình thức tổ
chực dạy học trong mối quan hệ với các hình thức tổ chức dạy học khác.
Hoạt động tự học còn là phương thức đào tạo của con người. Vì vậy có
nhiều những định nghĩa khác nhau về tự học.
Tự học (Self - leaning) là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao.
PGS Lê Khánh Bằng cho rằng: “Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự
học”; lại có ý kiến: “Tự học là hình thức hoạt động cá nhân, do bản thân
người học nỗ lực thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ học tập ở trên lớp hay
ngồi lớp, có thể diễn ra khi cịn đang học, khi đã ra trường và trong suốt cả
cuộc đời” (TS. Hà Thị Đức).
Hay tác giả Trịnh Quang Từ trong “Những phương hướng tổ chức
hoạt động tự học cho sinh viên các trường quân sự”, (Luận án tiến sĩ, HN,
1995) quan niệm : “Tự học là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản
thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích
nhất định”.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
12
GS. Nguyễn Cảnh Tồn trong “Q trình dạy tự học”, Nxb
GDHN,1997 cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả
có bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình rồi cả
động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực,
khách quan, chí tiến thủ, khơng ngại khổ, ngại khó, kiên trì, nhẫn nại, say
mê khoa học)...để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân loại,
biến lĩnh vực đó thàmh sở hữu của mình”. Như vậy, theo tác giả Nguyễn
Cảnh Tồn thì tự học là hoạt động diễn ra ngồi giờ lên lớp, khơng có sự
giáp mặt giữa thầy và trị.
Và GS Nguyễn Cảnh Tồn đã chính xác hố các khái niệm:
“Học giáp mặt” là học giáp mặt với thầy, thầy trị nhìn mặt nhau và
có thể trao đổi thơng tin bằng lời nói trực tiếp (khơng qua máy móc) bằng
chữ viết, nhìn trực tiếp ngay trên bảng, trên giấy bằng cả ánh mắt, nụ cười,
nét mặt, cử chỉ.
“Học từ xa” là học không giáp mặt với thầy, mọi thơng tin giữa thầy
và trị đều khơng trực tiếp mà là gián tiếp qua sách vở, tài liệu và các
phương tiện kĩ thuật của tin học và viễn thông. “Xa” chỉ có nghĩa là khơng
giáp mặt nhau, cịn khoảng cách địa lý giữa thầy và trị có thể là nửa vịng
trái đất, cũng có thể chỉ vài chục mét.
Sở dĩ các tác giả có những quan niệm khác nhau về tự học là do góc
độ nghiên cứu của các tác giả là hồn tồn khác nhau. Song nhìn chung các
tác giả đều quan niệm tự học là học với sự độc lập, tích cực, tự giác ở
mức độ cao, đó là q trình mà trong đó, chủ thể người học tự biến đổi
mình, tự làm phong phú giá trị cho mình bằng các thao tác trí tuệ hoặc chân
tay, nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân. Tự học có thể
diễn ra ở trên lớp hoặc ngoài giờ trên lớp, chẳng hạn như giải bài tập trên
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
13
lớp, nảy sinh những thắc mắc khi nghe giáo viên giảng bài, tự sắp xếp
những lời giảng của giáo viên theo ý hiểu của mình để ghi vào vở.
Theo chúng tơi, tự học là một q trình, mà ngƣời học tự mình
chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thơng qua hoạt động trí tuệ (quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán...), tự học gắn liền với động cơ tình
cảm và ý chí...của người học để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong
học tập nhằm tích luỹ kiến thức cho bản thân người học từ kho tàng tri thức
của nhân loại, biến những kinh nghiệm này thành kinh nghiệm và vốn sống
của bản thân người học.
Như vậy, cốt lõi của học là tự học. Hễ có học là có tự học và khơng ai
có thể học hộ người khác được.
Khi nói học là hàm ý xét đến mối quan hệ với ngoại lực, tức là dạy.
Còn khi nói là tự học, là chỉ riêng nội lực của người học. Hai người cùng
học một thầy nhưng kết quả tuỳ theo chất lượng tự học ở từng người. Ngoại
lực tác động đến nội lực như thế nào thì đó chính là thước đo chất lượng
dạy học. Tác động đó có thể kìm hãm nếu thầy áp đặt, là kích thích nội lực
phát triển nếu thầy gợi mở, khuyến khích sáng tạo, mà đỉnh cao là tạo nên
được sự cộng hưởng của nội lực.
1.1.1.2. Khái niệm năng lực tự học.
Hoạt động tự học muốn diễn ra thực sự thì một yêu cầu đặt ra là cần
phải hình thành được ở người học năng lực tự học. Chỉ khi người học đã có
được năng lực tự học cho bản thân thì mới tự mình tiến hành việc học tập một
cách tự chủ, độc lập, sáng tạo như đòi hỏi của giáo dục đào tạo ngày nay.
Vậy “năng lực” là gì ? Theo Từ điển tiếng Việt (Trung tâm từ điển
ngôn ngữ Hà Nội, Việt Nam, Hà Nội - 1992): “Năng lực là phẩm chất tâm
lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hồn thành một loại hoạt động
nào đó với chất lượng cao”.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Giáo trình “Tâm lí học đại cương” (Nxb ĐHQGHN, 1998) chia khả
năng thành ba mức độ khác nhau: năng lực, tài năng, thiên tài. Nếu năng
lực là một mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị khả năng
hồn thành có kết quả một hoạt động nào đó, tài năng là mức độ năng lực
cao hơn biểu thi sự hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào đó,
thì thiên tài là mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị mức kiệt xuất, hoàn
chỉnh nhất của các vĩ nhân trong lịch sử nhân loại.
Khi phân loại, người ta chia năng lực ra làm hai loại: năng lực chung
và năng lực riêng biệt.
Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động
khác nhau, chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, về trí tuệ (quan sát, trí
nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngơn ngữ... ) là những điều kiện cần thiết để giúp
cho nhiều lĩnh vực hoạt động có hiệu quả.
Cịn năng lực riêng biệt (chuyên biệt, chuyên môn) là sự thể hiện độc
đáo các phẩm chất riêng biệt, có tính chun mơn nhằm đáp ứng yêu cầu của
một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao, chẳng hạn năng lực văn
học, năng lực thể dục thể thao, năng lực hội hoạ, năng lực âm nhạc...
Hai năng lực này ln có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Giữa năng lực
và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo ln có sự thống nhất biện chứng (không thể
không đồng nhất chúng với nhau). Một ngƣời có năng lực trong một lĩnh
vực nào đấy có nghĩa là có tri thức, kĩ năng kĩ xảo nhất định của lĩnh
vực này. Vấn đề phát hiện, bồi dưỡng năng lực, năng khiếu của mỗi người
là một trong những vấn đề cơ bản của chiến lược giáo dục nhằm nâng cao
dân lực, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất, nhưng điều chủ yếu là
năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của con
người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Vậy ngƣời có
năng lực tự học là ngƣời có khả năng tự mình động não, suy nghĩ, sử
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
15
dụng các năng lực trí tuệ, và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất,
động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một
lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình
qua sách vở, qua bạn bè, qua thầy giáo.
Nếu nội lực được xem là nhân tố quyết định sự phát triển của bản
thân người học thì năng lực tự học được xem là có ý nghĩa quyết định đến
q trình tự học.
Trong qúa trình tự học, trị là chủ thể, tự mình chiếm lĩnh tri thức
chân lý bằng hành động của chính mình, tự phát triển từ bên trong.
Thầy là tác nhân hướng dẫn, tổ chức cho trò tự học. Người thầy giỏi
là người dạy cho trò biết tự học. Người học giỏi là người biết tự học sáng
tạo suốt đời. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã viết trong thư gửi Hội thảo
khoa học nghiên cứu quá trình tự học, tự đào tạo: “Tự học là tự đào tạo, là
một con đường phát triển suốt đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã
hội nước ta hiện nay và cả mai sau, đó là truyền thống quý báu của người
Việt Nam và của dân tộc Việt Nam”.
Tuy nhiên - tự học thuộc quá trình cá nhân hoá việc học - tự học rất
cần sự đơn thân nổ lực bên trong, một mình ngồi lặng im mà suy nghĩ,
nghiền ngẫm, có khi cũng cần sự tương tác với các bạn , trong môi trường xã
hội dưới sự hướng dẫn của thầy và sự hợp tác của các bạn - ngoại lực. Tác
động của thầy và môi trường xã hội sẽ kém hiệu lực nếu không phát huy
được năng lực tự học của người học. Nói cách khác, quá trình tự học phải
kết hợp với quá trình hợp tác của các bạn trong cộng đồng lớp học và qúa
trình dạy học của giáo viên. Kết hợp quá trình dạy với quá trình tự học là
nhằm làm cho “dạy” và “tự học” cộng hưởng với nhau tạo ra chất lượng và
hiệu quả cao để đạt mục tiêu đào tạo con người lao động tự chủ, năng động,
sáng tạo, có năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Hệ phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm gọi tắt
theo đúng thực chất của nó là hệ phương pháp dạy tự học đã chỉ rõ: người
học - chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra kiến thức bằng hành động
của chính mình. Người học khơng phải được đặt trước những kiến thức có
sẵn trong SGK hay bài giảng được chuẩn bị sẵn của thầy mà tự đặt mình
trước các tình huống, các vấn đề thực tế của cuộc sống. Từ đó, người học
có nhu cầu hay hứng thú phát hiện và giải quyết những vật cản, mâu thuẫn
trong nhận thức của mình để tự mình tiến xa “cái chưa biết”, “cái cần khám
phá”, “cái mới”. Tự đặt mình vào những tình huống học, người học quan
sát, suy nghĩ, tự nghiên cứu tra cứu, làm thí nghiệm, đặt giả thiết, đặt vấn
đề ... để tự mình tìm ra kiến thức, chân lý cùng với cách xử lý tình huống,
cách giải quyết vấn đề. Tri thức và phương pháp người học đã tự lực khám
phá ra khơng rập khn theo một khn mẫu sẵn có, đều là tri thức và
phương pháp mới.
Muốn phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học thì cần
rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh. Ngày nay, việc dạy phương
pháp học được quan tâm ngay từ đầu bậc tiểu học và càng lên cao hơn càng
được coi trọng. Nói tới phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học.
Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Một
yếu tố quan trọng đảm bảo thành công trong học tập và nghiên cứu khoa
học là khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề dặt ra. Nêú rèn luyện cho
người học có được kĩ năng phương pháp, thói quen tự học, biết ứng dụng
những điều đã học vào tình huống mới, biết tự lực phát hiện và giải quyết
những vấn đề gặp phải thì sẽ tạo cho họ lịng ham học, khơi dậy tiềm năng
vốn có trong mỗi người. Học sinh có thể tự học khi vào đời, dễ dàng thích
ứng với cuộc sống lao động, cơng tác trong xã hội. Vì những lí do trên,
ngày nay trong q trình dạy học người ta nhấn mạnh hoạt động học, tạo ra
sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động.
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Như vậy, phát triển năng lực tự học cho học sinh miền núi phía Bắc
có nghĩa là giúp học có ý thức tự học, dám vượt qua những trở ngại chủ
quan và khách quan của môi trường miền núi đồng thời phát triển năng lực
nhận thức tích cực, sáng tạo, chủ động cho học sinh, là hình thành cho học
sinh khả năng phát huy tới mức cao nhất tính tự lực trong học tập và thể
hiện được cá tính sáng tạo riêng của mình, thực hiện tốt nhất những mục
đích, nhiệm vụ mà mơn học đề ra. Nói cách khác, hình thành năng lực tự
học cho học sinh chính là hình thành tri thức và kĩ năng tự học cho học
sinh. Do đó, vai trị của các biện pháp giúp hình thành năng lực tự học có ý
nghĩa rất quan trọng.
Tự học - là con đường lựa chọn cho mỗi người đứng trước mâu thuẫn
giữa hoàn cảnh ngặt nghèo, khắc nghiệt của cuộc sống cá nhân với khát
vọng cao đẹp về học vấn.
Tự học trở thành chiếc chìa khố vàng mở cánh cửa của thời đại bùng
nổ thông tin như ngày nay. Cho nên, ngành giáo dục hiện đại tiên tiến trên
thế giới đều đề cao nỗ lực cá nhân, coi trọng vấn đề tự học, tự mình giáo
dục, tự mình phát triển, tự mình điều khiển. “Tự học là con đường tự khẳng
định, là con đường sống, con đường thành đạt của mỗi con người muốn
bước vào lĩnh vực trí tuệ của thời đại mới”.
Để hoạt động tự học đạt kết quả như mong muốn , người học cần phải
nắm được đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học. Vậy đặc điểm và bản
chất của hoạt động tự học là gì ?
1.1.1.3. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học.
Nghiên cứu về hoạt động tự học ở các góc độ khác nhau, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra những đặc điểm sau đây về hoạt động tự học.
Trong cuộc sống thường nhật, mỗi cá nhân có thể có những cách học
khác nhau. Một trong những cách học thơng thường đó là cách học ngẫu
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên
18
nhiên trong cuộc sống sinh hoạt và lao động. Qua trải nghiệm cuộc sống,
ông cha ta đã đúc kết thành kinh nghiệm sống để truyền lại cho thế hệ sau
qua câu tục ngữ “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Cách học này
giúp người học nắm được tri thức, kĩ năng kĩ xảo, kinh nghiệm... thông qua
nhiều hoạt động, có thể ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống. Tuy nhiên,
cách học này cũng có những hạn chế nhất định: người học chỉ lĩnh hội tri
thức một cách vụn vặt, tự do, khơng có hệ thống.
Khác với cách học ngẫu nhiên là cách học chủ định. Đây là cách học
có mục đích và đối tượng. Nó được điều khiển một cách có ý thức nhằm
tiếp nhận tri thức, kĩ năng kĩ xảo và hình thành cả các cách thức chiếm lĩnh
chúng. Mục đích của hoạt động học là chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội lịch
sử thông qua sự tái tạo của cá nhân người học và vận dụng tri thức đó để
cải tạo thực tiễn chính bản thân mình.
Đã có những quan niệm về tự học dưới các góc độ khác nhau.
Có quan niệm cho rằng: Học tập là biến đổi vững chắc trong hành vi
hoặc trong năng lực ứng xử theo một cách nào. Sự biến đổi đó là kết quả
của thực hành hoặc của hình thức thể nghiệm khác. Tác giả Skiner đứng
dưới góc độ lý thuyết hành vi quan niệm : Học tập là quá trình lĩnh hội kiến
thức mới hoặc kỹ năng mới, sự học tập được xác định dưới những hành
động mà học sinh cần phải thực hiện được, cách học là một chuỗi hành
động thử và sai. Song thực tế, học tập là hoạt động có mục đích và ln
ln được thúc đẩy bởi một hệ thống những động cơ nhất định...
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang trong “Nhà sư phạm, người góp phần
đổi mới lí luận dạy học” (Nxb GD, ĐHQG Hà Nội -1998), đứng trên quan
điểm nghiên cứu cấu trúc hệ thống của quá trình dạy học và mối quan hệ
giữa các thành tố cấu trúc đó, đặc biệt là nghiên cứu mối quan hệ thống
nhất biện chứng giữa dạy và học, giữa thầy và trò với nội dung tri thức khái
niệm: “Học tập là quá trình tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khoa học,
Số hóa bởi Trung tâm Học Liệu – Đại học Thái Nguyên