Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.46 KB, 75 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Quỹ hỗ trợ phát triển ra đời và hoạt động từ ngày 1/1/2000 đã đánh dấu
một bước phát triển mới trong lĩnh vực đầu tư phát triển của Việt Nam.
Với chức năng tập trung, huy động các nguồn lực tài chính trong và
ngoài nước để hỗ trợ các dự án đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế mà Nhà
nước cần khuyến khích đầu tư thông qua các hình thức cho vay đầu tư, bảo lãnh
tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, Quỹ hỗ trợ phát triển trở thành
trung gian tài chính lớn nhất thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Trong 3 hình thức hỗ trợ đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư là một chính sách mới có nhiều ưu điểm vượt trội so với cho vay đầu
tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư, có khả năng mang lại nhiều lợi ích cho cả Nhà
nước và doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
không đòi hỏi nguồn vốn lớn mà vẫn đảm bảo hỗ trợ cho nhiều doanh nghiệp,
chi phí quản lý thấp, không gặp phải rủi ro tín dụng đồng thời xoá bỏ được sự
bao cấp vốn đầu tư như những năm trước đây. Về phía doanh nghiệp, chính sách
hỗ trợ lãi suất sau đầu tư một mặt giảm bớt gánh nặng lãi suất tín dụng cho
doanh nghiệp trong quá trình đầu tư, mặt khác nó phát huy tính chủ động, sáng
tạo của chủ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn vốn, đồng thời gắn việc
vay vốn với trách nhiêm sử dụng vốn có hiệu quả và hoàn trả đúng hạn.
Tuy nhiên, sau hơn hai năm thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu
tư, kết quả đã hoàn toàn không được như mong đợi. Trong năm 2000 và 2001,
toàn bộ hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển chỉ thực hiện được 143 hợp đồng với
tổng số tiền hỗ trợ là 68 tỷ đồng đạt 34% kế hoạch Nhà nước giao. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do
chính sách chưa hoàn thiện đã gây cho doanh nghiệp và Quỹ Hỗ trợ phát triển
không ít khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Sự không hoàn thiện
thể hiện trên nhiều mặt: đối tượng được hưởng chính sách, quy trình lập và
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, điều kiện thủ tục còn rườm rà và


đặc biệt là cơ chế tính mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không hợp lý nên không hỗ
trợ thoả đáng cho doanh nghiệp.
Trong quá trình thực tập tại Vụ Tài chính các ngân hàng và các tổ chức tài
chính, thuộc Bộ tài chính, là cơ quan Nhà nước trực tiếp quản lý hoạt động của
Quỹ hỗ trợ phát triển; đồng thời có tham khảo kinh nghiệm thực tế tại chi nhánh
Quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội, em đã tập trung nghiên cứu về chính sách hỗ trợ
lãi suất sau đầu tư và tiến hành làm luận văn tốt nghiệp với đề tài: "Hoàn thiện
chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư", với hy vọng rằng những kiến nghị do em
đề xuất có thể ứng dụng được trong thực tiễn góp phần đưa chính sách hỗ trợ lãi
suất sau đầu tư thực sự đi vào cuộc sống.
Mục đích nghiên cứu
-Nghiên cứu tình hình thực tế việc thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển, tìm ra những điểm còn chưa hợp lý gây cản trở
đến việc thực thi chính sách.
-Đưa ra những kiến nghị có căn cứ khoa học và thực tiễn đễ sửa đổi
những điểm còn chưa hợp lý của chính sách.
Nội dung của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương I: Khái quát về đầu tư phát triển, hoạt động hỗ trợ đầu tư của
Quỹ hỗ trợ phát triển đồng thời trình bày chi tiết về chính sách hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư.
- Chương II: Phân tích chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và tinh hình
thực hiện chính sách hỗ trợ laĩ suất sau đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển trong
hai năm 2000 và 2001; đánh giá những thành tựu đạt được và những tồn tại cần
phải khắc phục.
- Chương III: Đề xuất những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện chính sách
hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG HỖ
TRỢ ĐẦU TƯ CỦA QUỸ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
I. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
1. Khái niệm về đầu tư phát triển

Khái niệm:
Thuật ngữ " đầu tư " (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với "sự bỏ
ra", "sự hi sinh" những cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất,
trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Chẳng hạn, chúng ta xem xét các tình huống sau dây: Một công ty đã chi
100 triệu đồng để xây dựng thêm một kho chứa nguyên vật liệu. Một nhân viên
văn phòng đã chi tổng cộng hết 4 triệu đồng cho việc học đại học tại chức trong
thời gian bốn năm. Một thương gia bỏ ra 200 triệu mua hàng dự trữ trong thời
vụ tết. Một giáo viên hàng tháng để dành 500.000 đồng đem gửi tiết kiệm để
hưởng lãi suất. Một doanh nhân bỏ ra 50 triệu đồng để mua lại cổ phần của hãng
A từ một cổ đông của hãng. Công ty B bán 400 triệu đồng chứng khoán và dùng
tiền này để xây thêm một phân xưởng mới. Trường đại học X đã chi hàng chục
triệu đồng để mời các chuyên gia kinh tế giỏi đến để báo cáo về thành quả đổi
mới chính sách và quản lý kinh tế ở Việt Nam cho giáo viên của trường.
Tất cả những hành động bỏ tiền ra để tiên hành các hoạt động trên đây
đều nhằm mục đích chung là thu được lợi ích (về tài chính, về cơ sở vật chất, về
nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức...) trong tương lai, lớn hơn những chi phí
bỏ ra. Và vì vậy, nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra
thì các hành động này đều được gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, nếu xem xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất
cả hành động trên đây đều đem laị lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư
của nền kinh tế.
Các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không

hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất, trí tuệ...) cho nền kinh tế. Các hành động
này thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền (gửi tiết kiệm) quyền
sở hữu cổ phần và hàng hoá (mua lại cổ phần và mua tích luỹ hàng hoá) từ
người này sang người khác và do đó chỉ làm cho số tiền thu về của người đầu tư
lớn hơn số tiền mà họ đã bỏ ra tuỳ thuộc vào lãi suất tiết kiệm, lợi tức cổ phần
hoặc giá hàng vào dịp Tết. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây lại chính là
giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm (lãi suất phải trả); của cổ đông đã bán lại cổ phần
( lợi tức cổ phần); của người mua hàng vào dịp tết (với giá cao). Tài sản của nền
kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Các hoạt động bỏ tiền xây dựng thêm kho chứa nguyên vật liệu, chi 4
triệu để đi học đại học tại chức, phát hành chứng khoán để xây dựng thêm một
phân xưởng mới, tổ chức báo cáo khoa học, đã làm tăng thêm các tài sản vật
chất (xây thêm kho chứa nguyên vật liệu, thêm một phân xưởng mới) tài sản trí
tuệ và nguồn nhân lực (học đại học tại chức, bồi dưỡng giáo viên) cho nền kinh
tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế.
Như vậy, đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn
với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân
phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là
đầu tư đối với nền kinh tế.


Phân biệt đầu tư phát triển với các hoạt động đầu tư khác:
Từ sự phân tích trên đây, xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu
tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây:
- Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người
có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định
trước (gửi tiết kiêm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài
chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc

tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá
nhân đầu tư (đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài chính
nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu
cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho công ty thì đây lại
là đầu tư phát triển, nếu được Nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy
chế hoạt động do Nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự
hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ
dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người
có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi
nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
- Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch
gía khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế (nếu không xét đến hoạt động ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài
chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu
hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của
họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của
cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu
cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói
riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
- Đầu tư phát triển: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến
hành các hoạt động nhằm tạo ta tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực
sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo
việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ
tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang
thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực
hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này
nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo một tiềm lực
mới cho nền kinh tế xã hội.

2. Vai trò của đầu tư phát triển đối với nền kinh tế
2.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước:

Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu:
Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm
khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với
tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Trong ngắn hạn, tổng cung chưa kịp
thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường d
1
dịch chuyển
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
sang d
2
) kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q
0
-Q
1
và giá cả của các đầu
vào của đầu tư tăng từ P
o
-P
1
. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E
0
-E
1
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư tác phát huy tác dụng, các năng
lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên
(đường tổng cung dịch chuyển từ vị trí s

1
sang s
2
), kéo theo sản lượng tiềm năng
tăng từ Q
1
-Q
2
và do đó gía cả sản phẩm giảm từ P
1
-P
2
. Sản lượng tăng, giá cả
giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản
xuất tăng hơn nữa. Sản xuất phát triển là là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ,
phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống
của mọi thành viên trong xã hội.
∗Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu
và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là
tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn đình vừa là yếu tố
phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư,
p
s
1
s
2




E
1
P
1
E
0

P
0


E
3
P
2


d
2
d
1

Q
o
Q
1
Q
2
q


Hình 1: Tác động của đầu tư đến tổng cung v tà ổng cầu
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan
tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) dến một mức độ nào đó
dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ,
đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp
hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm
cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển,
thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao
động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển
kinh tế.
Đầu tư giảm cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng
ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh
tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các
chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì
được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.

Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Hàm sản xuất đơn giản nhất và nổi tiếng nhất dược sử dụng để phân tích
sự phát triển kinh tế do các nhà kinh tế Roy Harrod (Anh) Và Evsey Domar
(Mỹ) nêu ra từ những năm 1940 đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với tỷ lệ đầu tư và hệ số gia tăng tư bản- đầu ra (ICOR - Incremental Capital-
Output Ratio) như sau:
i
g= -----
k
Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
i: Tỷ lệ đầu tư trong GDP
k: Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR), k = ∆k/∆y, (∆k-mức tăng của
vốn, ∆y-mức tăng của sản lượng)

Như vậy, theo phương trình trên thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tỷ
lệ thuận với tỷ đầu tư của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với hệ số ICOR. Điều đó
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài của nền kinh tế cần
phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư đồng thời khống chế ở mức chấp nhận
được đối với hệ số ICOR. Nếu hệ số ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng
kinh tế sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào tỷ lệ đầu tư.
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn thiếu lao
động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng nhiều công
nghệ có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2 - 3 do thiếu
vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn,
do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Bảng trên cho thấy có sự thay đổi rõ ràng giữa tốc độ tăng trưởng, đầu tư
và hệ số ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1986-2000. Hệ số ICOR của Việt
Nam có xu hướng tăng, đặc biệt có sự tăng lên mạnh mẽ kể từ năm 1996 do
nhiều nguyên nhân, các nhà kinh tế dự báo rằng hệ số ICOR của Việt Nam sẽ
vẫn tiếp tục tăng. Do vậy để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 7%
trong những năm tới chúng ta cần đảm bảo tỷ lệ đầu tư đạt trên 30% GDP mỗi
năm.

Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có
thể tăng trưởng (từ 9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh
ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông lâm, ngư nghiệp do
những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng
Hệ số ICOR của Việt Nam thời kỳ 1986-2000
86-90 91-95 96-98 1999 2000
Tăng trưởng GDP
(%)
4,34 8,2 7,77 4,8 6,7

Đầu tư so GDP (%)
13,4 22,03 28,37 26,0 28,3
ICOR 3,0 2.7 3,7 5,4 4,3
Bảng 1: Nguồn niên giám thống kê, www.vneconomy.vn
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình
chuyển quá trình chuyển dịch cơ cấu kiinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc
độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế ,
kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn
đạp thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển.

Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của
đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt
Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia
quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam đang nằm ở
giai đoạn 2 và 3. Việt Nam đang là 1 trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với
trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của
Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra dược một chiến lược phát
triển nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự
nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự
nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư.
Mọi phương án đổi nới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những
phương án không khả thi.

2.2. Đối vớ các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Đầu tư quyết định sự ra đời , tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở sản xuất
kinh doanh. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất
kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà, xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và
lắp đặt thiết bị máy nóc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và
thực hiện các chi phí khác gắn liền vớ sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ
sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư
đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại; sau một thời gian
hoạt động các cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở này bị hao mòn, hư hỏng.
Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn
hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để
thích ứng với diều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và
nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội., phải mua sắm các trang thiết bị mới,
thay thế cho các trang thiết bị cũ cũng có nghĩa là phải đầu tư.
3. Tín dụng Nhà nước cho đầu tư phát triển và vai trò của nó đối
với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng mà trong đó Nhà nước vừa là
người đi vay để đảm bảo các khoản chi tiêu của Ngân sách Nhà nước, đồng thời
là người cho vay để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình trong quản lý
kinh tế-xã hội và phát triển quan hệ đối ngoại. Hình thức huy động của tín dụng
Nhà nước thể hiện như: công trái quốc gia, công phiếu kháng chiến trong những
năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; hay trái phiếu kho bạc, trái phiếu địa
phương, trái phiếu đầu tư trong giai đoạn hiện nay.
Tín dụng Nhà nước cho đầu tư phát triển là một bộ phận của tín dụng Nhà
nước. Đây cũng là một hình thức tín dụng, trong đó Nhà nước là người cho các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vay để thực hiện đầu tư phát triển
trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi cho Nhà nước theo quy định của hợp đồng tín
dụng đã ký giữa cơ quan Nhà nước được Uỷ quyền thực hiện tín dụng đầu tư
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

phát triển của Nhà nước với đơn vị vay vốn. Mục đích của tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước là trợ giúp và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế tăng cường đầu tư phát triển, thúc đẩy việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một nguồn vốn quan trọng của
đầu tư phát triển. Ở nước ta, trước năm 1990 vốn Ngân sách nhà nước dành cho
đầu tư phát triển chủ yếu được thực hiện thông qua con đường cấp phát trực tiếp
cho các doanh nghiệp, tín dụng Nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ
quản lý và điều tiết nền kinh tế. Đến giai đoạn 1991-2000 vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước đã tăng trưởng tương đối nhanh cả về giá trị tuyệt đối
lẫn giá trị tương đối. Trong năm 1991-1995, nguồn vốn tín dụng Nhà nước
chiếm 5-6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng lên không ngừng đạt 14,5% giai
đoạn 1996-1998. Riêng năm 2000, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước chiếm tới 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong việc
xoá bỏ bao cấp trong đầu tư:
Trước năm 1996, khi luật ngân sách chưa ra đời, việc đầu tư trực tiếp từ
Ngân sách Nhà nước đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp là một
trong những hình thức bao cấp trong đầu tư. Do việc cấp phát không hoàn lại
trực tiếp, các doanh nghiệp, dân cư thường trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, không
chú trọng tìm kiếm giải pháp kinh doanh hữu hiệu làm cho hiệu quả sử dụng vốn
thấp. Sự bao cấp trong đầu tư là một trong những nguyên nhân của sự trì trệ và
các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Từ năm 1996 trở lại đây, Ngân sách Nhà
nước chỉ cấp phát trực tiếp cho những công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Còn đối với những dự án đầu tư, những
công trình có khả năng thu hồi vốn trực tiếp nhưng lại chưa có đủ khả năng
đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh tự do mà Nhà nước vẫn cần
phải nắm giữ hoặc dự án có hiệu quả kinh tế xã hội gián tiếp cao mà chỉ có khả
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

năng thu hồi một phần vốn đầu tư thì Nhà nước thông qua hình thức vốn tín
dụng Nhà nước để đầu tư phát triển.

Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong điều tết
vĩ mô nền kinh tế
Thông qua vốn tín dụng đầu tư phát triển, Nhà nước thực hiện việc
khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực nhất định theo
ý đồ chủ trương của chiến lược của mình. Bên cạnh các công cụ kinh tế khác
như chính sách đất đai, thuế, chính sách tiền tệ, vốn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước là công cụ đắc lực, trực tiếp, rất hiệu quả trong điều tiết nền kinh
tế vĩ mô. Sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng công cụ tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước được thể hiện như sau:
Bằng công cụ tín dụng đầu tư phát triển, Nhà nước thu hút một lượng vốn
lớn tồn đọng trong dân cư vào đầu tư phát triển nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư của nền kinh tế.
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá hiện
đại hoá: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư
phát triển Nhà nước trong giai đoạn 1991-2000 chủ yếu tập trung ở ngành công
nghiệp như điện, than, xi măng, thép, dệt, da, may, hoá chất, cơ khí điện tử, nhà
máy nước, phương tiện vận tải tải, thiết bị thi công... Vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm trên 60% tổng số
vốn đầu tư (gần 55% số dự án) đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện
chuyển dịch cơ cấu đầu tư cho công nghiệp từ 34,6% (năm 1993) lên 36,6%
(năm 1995) 40% (năm 1998) và 40,2% (năm 2000). Việc chuyển dịch cơ cấu
đầu tư theo hướng tập trung vào ngành công nghiệp đã làm cho giá trị sản xuất
của ngành công nghiệp tăng đáng kể, ngay cả khi nền kinh tế đất nước bị ảnh
hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực và trên thế giới, tăng
từ 12,7% (năm 1993) lên 14,5% (năm 1996) và 15,5% ( năm 2000). Hàng loạt
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

các công trình quan trọng đưa vào khai thác, sử dụng nâng cao năng lực sản xuất
của đất nước.
Ngoài đầu tư vào ngành công nghiệp, một lượng đáng kể vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước tập trung vào ngành công nghiệp chế biến. Nhiều cơ
sở chế biến đông lạnh xuất khẩu, chế biến chè, 3 nhà máy đường và nhiều nhà
máy chế biến nông sản khác vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã
tạo được bước đi ban đầu vững chắc cho sự nghiệp phát triển.
II. QUỸ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ CỦA QUỸ HỖ
TRỢ PHÁT TRIỂN:
1. Quỹ hỗ trợ phát triển:
Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập trên
cơ sở tiếp nhận chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, tài sản của hệ thống Tổng
cục đầu tư phát triển và Quỹ Hỗ trợ đầu tư quốc gia trước đây. Văn bản pháp
quy quy định mô hình tổ chức và hoạt động của Quỹ là Nghị định của Chính
Phủ số 50/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999. Nội dung các hoạt động của Quỹ được
quy định trong Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và nghị định số 50
nói trên.
Quỹ hỗ trợ phát triển là cơ quan thuộc chính phủ, là công cụ tài chính
giúp chính phủ thực hiện chính sách ưu tiên phát triển theo định hướng chung,
Quỹ có chức năng huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các
nguồn vốn của Nhà nước dành cho đầu tư phát triển để thực hiện chính sách hỗ
trợ đầu tư phát triển của Nhà nước.
Hoạt động nghiệp vụ của Quỹ hỗ trợ phát triển bao gồm: cho vay đầu tư
trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế xã hội trong đó hoạt động cho vay là
hoạt động chủ yếu trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động nghiệp vụ của Quỹ
tương tự như hoạt động của một ngân hàng thương mại tuy nhiên Quỹ không
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
phải là một ngân hàng thương mại do đó không phải chịu sự điều chỉnh của các
luật liên quan về hoạt động tín dụng và tổ chức ngân hàng cũng như không phải

chịu sự giám sát trực tiếp của Ngân hàng Trung Ương như các ngân hàng
thương mại khác.
Cơ chế tài chính trong hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển có thể tóm tắt
như sau: Quỹ là tổ chức hoạt động theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận
nhưng có bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí. Theo đó, lãi suất cho vay mà
Quỹ hỗ trợ phát triển thực hiện được quy định bởi Chính phủ, Quỹ được miễn
nộp thuế và các khoản phải nộp Ngân sách khác để giảm lãi xuất cho vay và
giảm chi phí bảo lãnh. Quỹ được Nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất , được bù
đắp rủi ro do nguyên nhân khách quan khi thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước
giao.
Nguồn vốn hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển bao gồm vốn điều lệ, vốn
tiếp nhận và các nguồn vốn huy động từ các cá nhân, tổ chức trong nước và
nước ngoài.
Vốn điều lệ trong thời gian đầu của Quỹ do tiếp nhận từ Quỹ hỗ trợ đầu tư
quốc gia, và được Ngân sách Nhà nước cấp bổ sung hàng năm là 3000 tỉ đồng
(theo quy định của Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999). Cho đến nay vốn
điều lệ của Quỹ đã lên đến 5000 tỷ đồng.
Vốn tiếp nhận của Quỹ hỗ trợ phát triển bao gồm vốn tiếp nhận từ Ngân
sách nhà nước cấp hàng năm cho các mục tiêu được bố trí trong dự toán chi hỗ
trợ đầu tư của Ngân sách Nhà nước: tăng nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư và hỗ trợ việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (trong trường hợp có phát
sinh); toàn bộ nguồn nguồn vốn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ
dùng để cho vay lại các dự án đầu tư phát triển. Ngoài ra, Quỹ còn được tiếp
nhận vốn của các ngành, cơ quan, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tổ chức tín
dụng, các quỹ đầu tư trong nước uỷ thác cho Quỹ để cho vay đầu tư và thu hồi
nợ hoặc cấp phát vốn đầu tư cho các chương trình dự án đầu tư phát triển.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Bên cạnh các nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp và nguồn vốn tiếp
nhận từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước, Quỹ hỗ trợ còn được phép
huy động vốn trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế, trong tương lai

đây sẽ là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Hiện nay,
vốn huy động của Quỹ hỗ trợ phát triển chủ yếu là huy động từ các quỹ: Quỹ
tích luỹ trả nợ nước ngoài, Tiết kiệm bưu điện, vốn tạm thời nhàn rỗi của Bảo
hiểm xã hội Việt nam, khối lượng, kỳ hạn và lãi suất của các khoản vốn trên do
chính phủ quy định. Ngoài ra, vốn huy động của Quỹ còn bao gồm vốn từ phát
hành trái phiếu chính phủ, vốn do Quỹ tự huy động từ thị trường tài chính hầu
như chưa có
.
2. Các chính sách hỗ trợ đầu tư của Quỹ Hỗ trợ phát triển:
Các hình thức hỗ trợ của Quỹ hỗ trợ phát triển được quy định tại nghị
địng 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ bao gồm: Cho vay đầu tư,
bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
2.1. Cho vay đầu tư:
Cho vay đầu tư bằng vốn tín dụng phát triển của Nhà nước là một trong
các hình thức hỗ trợ đầu tư của Nhà nước đối với các dự án đầu tư của các thành
phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà
nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.

Đối tượng cho vay: Đối tượng cho vay là các dự án đầu tư phát triển có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp (bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh
nghiệp mới, cho vay đổi mới thiết bị công nghệ mở rộng sản xuất) của các thành
phần kinh tế. Bao gồm: Những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn thuộc các
ngành:
- Sản xuất điện, khai thác khoáng sản ( trừ dầu khí, nước khoáng, vàng, đá
quý); hoá chất cơ bản, phân bón, thuốc trừ sâu vi sinh
- Chế tạo máy công cụ, máy động lực phục vụ nông nghiệp
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
- Xây dựng cơ sở chế biến: nông sản, lâm sản, thuỷ sản, xây dựng cơ sở
làm muối.
- Sản xuất hàng xuất khẩu

- Trồng rừng nguyên liệu tập trung, trồng cây công nghiệp dài ngày, cây
ăn quả.
- Cơ sở hạ tầng về giao thông, cấp nước, nhà ở
- Các dự án nuôi trồng thuỷ sản, trăn nuôi bò sữa.
- Các dự án thực hiện chủ trương của Chính phủ về xã hội hoá y tế, giáo
dục, văn hóa, thể dục thể thao.
* Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay của Quỹ hỗ trợ phát triển là lãi suất
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước quy định tại nghị định 43/1999/NĐ-CP
bằng 9%, khi lãi suất thị trường tăng hay giảm 10% trở lên, Thủ tướng Chính
phủ sẽ ra quyết định điều chỉnh lãi suất cho vay.
2.2. Bảo lãnh tín dụng đầu tư
Bảo lãnh tín dụng đầu tư là cam kết bằng văn bản của Quỹ hỗ trợ phát
triển với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ , đúng hạn của bên
đi vay . Trong trường hợp bên đi vay không trả được toàn bộ hay một phần nợ
vay ( cả gốc và lãi ) khi đến hạn, Quỹ hỗ trợ phát triển sẽ chịu trách nhiệm trả nợ
thay cho bên đi vay. Bên đi vay vốn phải nhận nợ bắt buộc và hoàn trả cho Quỹ
số tiền được trả nợ thay
Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện
được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn
thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được vay đầu tư
hoặc mới được vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Chủ đầu tư muốn được bảo lãnh phải có đủ các điều kiện: Đã được tổ
chức tín dụng thẩm đinh cho vay và có văn bản yêu cầu bảo lãnh. Được Quỹ hỗ
trợ phát triển chấp thuận phương án tài chính, phướng án trả nợ vốn vay và phải
có tài sản bảo đảm cho bảo lãnh. Nếu là doanh nghiệp Nhà nước có thể dùng tài
sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản bảo đảm còn nếu là doanh nghiệp ngoài
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
quốc doanh thì ngoài việc phải dùng tài sản hình thành từ nguồn vốn tín dụng
làm tài sản bảo đảm còn phải thế chấp tài sản trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn
được bảo lãnh.

Hàng năm, Quỹ hỗ trợ phát triển được trích 5% tổng số vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước (trừ vốn ODA cho vay lại) để dự phòng trả cho các
tổ chức tính dụng khi chủ đầu tư được bảo lãnh không trả nợ đúng hạn.
Hàng năm, chủ đầu tư phải trả cho Quỹ phí bảo lãnh bằng 0,5% tính trên
tổng số tiền đang được bảo lãnh
Tóm lại, với Việt Nam, việc hình thành hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển là
một bước đi phù hợp để hình thành một tổ chức tài chính chính sách có tiềm lực
mạnh có thể giúp chính phủ thực hiện tốt chủ trương, đường lối và chính sách
phát triển kinh tế-xã hội ở các ngành, các địa phương, vùng địa bàn trọng yếu
theo các nội dung: Tín dụng đầu tư phát triển với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Đồng thời, có thể trở thành đầu mối quản lý
một số chương trình mục tiêu của Nhà nước như xoá đói giảm nghèo, các
chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng sâu, vùng xa, phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
III. CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ LÃI SUẤT SAU ĐẦU TƯ:
Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là việc Nhà nước thông qua Quỹ hỗ trợ phát
triển để hỗ trợ một phần laĩ suất cho chủ đầu tư các dự án thuộc diện hưởng ưu
đãi đầu tư theo quy định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành luật khuyến
khích đầu tư trong nước do chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt
động tại Việt Nam để đầu tư, đã hoàn thành đưa vào sử dụng và đã hoàn trả
được vốn vay. Xét về mặt bản chất, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chính là trợ cấp
một phần chênh lệch lãi suất cho các dự án đã đầu tư thuộc đối tượng khuyến
khích đầu tư trong nước. Việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư sẽ thay thế việc chủ dư
án vay vốn tín dụng từ Ngân sách Nhà nước với lãi suất ưu đãi bằng việc chủ dự
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
án được chủ động vay vốn từ bất kỳ tổ chức tín dụng nào thuận tiện nhất để đầu
tư mà vẫn được hưởng lãi suất ưu đãi của Nhà nước.
Nguồn vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được Ngân sách Nhà nước cấp hàng
năm theo kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và được bố trí trong
dự toán chi đầu tư phát triển của Nhà nước hàng năm.

1. Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư:
Theo quy định của nghị định 43, đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
bao gồm:
- Các dự án thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại danh
mục A ban hành kèm theo nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1997 quy định
chi tiết thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước, bao gồm:
+ Các dự án thuộc lĩnh vực trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng
cây lâu năm trên đất hoang hoá đồi núi trọc, khai hoang, làm muối, nuôi trồng
thuỷ sản ở vùng chưa được khai thác.
+ Các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển vận tải công cộng, phát
triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá dân tộc.
+ Sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu
+ Đánh bắt hải sản xa bờ, chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản, dịch vụ
kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
+ Nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, dịch vụ khoa học công
nghệ, tư vấn pháp lý, đầu tư, kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.
+ Đầu tư mở rộng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công
nghệ, cải thiện sinh thái và môi sinh, vệ sinh đô thị, di chuyển cơ sở sản xuất ra
khỏi đô thị, đa dạng hoá ngành nghề, sản phẩm.
+ Một số ngành nghề khác cần ưu tiên phát triển như: Chăn nuôi có quy
mô công nghiệp, cơ khí nông nghiệp...
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
- Bên cạnh các dự án thuộc lĩnh vực ngành nghề quy định tại danh mục A
thì các dự án khác được thực hiện ở các địa bàn kinh tế xã hội khó khăn, dặc biệt
khó khăn quy định ở các danh mục B và C của Nghị định số 51/1999/NĐ-CP
cũng thuộc diện được Nhà nước ưu đãi đầu tư và cũng có thể được hưởng chính
sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
-Tại quyết đính số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của Tthủ tướng
Chính phủ đã mở rộng đối tượng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các doanh nghiệp

sản xuất chế biến, gia công hàng xuất khẩu mà phương án tiêu thụ sản phẩm của
dự án đạt kim ngạch xuất khẩu ít nhất bằng 30% doanh thu hàng năm.
2. Điều kiện để được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Các doanh nghiệp muốn được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư ngoài việc phải
thuộc đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi như nêu ở trên còn phải đáp ứng
đầy đủ một số điều kiện khác như:
- Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu
tư. Thủ tục cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư theo quy định của Nghị định
51/1999/NĐ-CP thì tại địa phương, sở kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm giúp
Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố tiếp nhân hồ sơ đề nghị ưu đãi đầu tư của các
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiêm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty
hợp doanh, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã kinh doanh ngành nghề, các doanh
nghiệp nhà nước thuộc địa phương quản lý, doanh nghiệp thuộc các tổ chức
chính trị, chính trị- xã hội nghề nghiệp do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh cho
phép thành lập, cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá có giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động, các doanh nghiệp do người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người
nước ngoài thường trú tại Việt Nam thành lập theo luật của Việt Nam... Riêng
Uỷ ban nhân dân cấp quận, huyện được phép tiếp nhận hồ sơ xin ưu đãi đầu tư
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
của các hợp tác xã (không thuộc đối tượng do Sở Kế hoạch và đầu tư giải quyết)
của các cá nhân và nhóm kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp do Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập hoặc do Thủ tướng Chinh phủ uỷ quyền, phân
cấp cho Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền của Trung ương quyết
định thanh lập thì Bộ Kế hoạch và đầu tư là cơ quan có trách nhiệm xem xét,
giải quyết hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
- Dự án xin hỗ trợ lãi suất sau đầu tư phải là dự án chưa được vay đầu tư
hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
- Dự án đã đăng ký và được bố trí kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư trong
kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển hàng năm của Nhà nước.
- Dự án phải được Quỹ Hỗ trợ phát triển chấp thuận và ký hợp đồng hỗ

trợ lãi suất sau đầu tư.
- Chủ đầu tư phải lập và gửi đầy đủ hồ sơ đến Quỹ Hỗ trợ phát triển. Hồ
sơ gồm:
+ Giấy đề nghị hỗ trợ lãi suất sau đầu tư (Theo mẫu do Quỹ Hỗ trợ phát
triển quy định).
+ Quyết định đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Hợp đồng tín dụng ký giữa chủ đầu tư và tổ chức tín dụng cho vay vốn.
- Biên bản thanh lý hợp đồng tín dụng hoặc chứng từ gốc trả nợ trong
năm.
3. Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được quy định tại điều 28 Nghị định số
43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước và được cụ thể hoá trong quyết định số 14/2000/QĐ-HĐQL ngày
2/3/2000 của Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ phát triển về việc ban hành tạm thời
quy chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư. Theo đó mức hỗ trợ được tính như sau:
-Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho cả dự án:
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho cả dự án được xác định một lần căn cứ
vào tổng số vốn đã vay đầu tư của các tổ chức tín dụng và mức lãi suất vay vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được tính tại thời điểm vay vốn và ổn
định trong suốt thời hạn vay vốn (theo quy định của Nghị địng 43/1999/NĐ-CP,
mức lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là 9%/năm và khi lãi suất
thị trường tăng giảm 10% Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định thay đổi lãi suất
cho vay) được xác định như sau:
- Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hàng năm:
Mức hỗ thợ lãi suất sau đầu tư hàng được tính trên cơ sở số nợ gốc chủ
đầu tư trả cho tổ chức tín dụng theo hợp đồng tín dụng đã ký và được xác định
như sau:
4.Trình tự lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư:
Kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một bộ phận của kế hoạh tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước được Thủ tướng chính phủ quyết định giao hàng
năm cho Quỹ Hỗ trợ phát triển về nguồn vốn, tổng mức vốn hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư theo cơ cấu ngành, lĩnh vực vụng kinh tế.
Mức hỗ trợ lãi
suất sau đầu tư
h ng nà ăm của
dự án
=
Số nợ gốc
đã trả trong
năm
x
50% mức lãi suất
vay vốn tín dụng
đầu tư phát triển
của Nh nà ước
Mức hỗ trợ lãi
suất sau đầu tư
cho dự án
=
Tổng số vốn đã
vay đầu tư của
tổ chức tín dụng
x
50% mức lãi suất
vay vốn tín dụng
đầu tư phát triển
của Nh nà ước
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Trình tự lập và thông báo kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư như sau:


Lập kế hoạch: Hàng năm vào thời gian lập dự toán Ngân sách Nhà nước,
căn cứ vào tiến độ hoàn thành dự án, hợp đồng tín dụng đã ký giữa chủ đầu tư
và tổ chức tín dụng cho vay vốn, hợp đồng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã ký giữa
Quỹ hỗ trợ phát triển với chủ đầu tư, văn bản hướng dẫn lập kế hoạch của Nhà
nước, chủ đầu tư lập kế hoạch vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư gửi Bộ, Cơ quan
ngang Bộ, các Tổng công ty Nhà nước, Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực
thuộc Trung ương.
Đầu tháng 9 hàng năm, các Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố và các tổ
chức có liên quan tổng hợp kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước thuộc phạm vi quản lý trong đó có kế hoạch hỗ
trợ lãi suất sau đầu tư có chia ra theo cơ cấu ngành, lĩnh vực, vùng gửi Bộ Kế
hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính và Quỹ hỗ trợ phát triển.

Thông báo kế hoạch:
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Thủ tướng chính phủ quyết định giao
kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển cho Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ sẽ thông báo
bằng văn bản kế hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các Bộ, Uỷ ban nhân dân
tỉnh thành phố và các tổ chức có liên quan
Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được thông báo của Quỹ, các Bộ,
Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố và các tổ chức có liên quan phải đăng ký kế
hoạch hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với Quỹ (danh mục dự án và mức hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư của từng dự án). Việc bổ sung, điều chỉnh kế hoạch năm được thực
hiện vào quý 3 năm đó.
5. Cấp vốn và quyết toán vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Việc cấp tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được thực hiện một năm một lần
vào cuối năm trên cơ sở số nợ gốc chủ đầu tư đã trả cho tổ chức tín dụng. Để
được cấp tiền hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, chủ đầu tư phải trình cho Quỹ hỗ trợ
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
phát triển hồ sơ cấp vốn gồm: Biên bản kiểm nghiệm thu bàn giao công trình

hoặc hạng mục công trình hoàn thành đưa vào sử dụng, khế ước nhận nợ có xác
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chứng từ gốc trả nợ trong năm của
chủ đầu tư cho tổ chức tín dụng cho vay vốn.
.
6. Tính ưu việt của chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư so với các
hình thức hỗ trợ đầu tư khác.
Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là một hình thức hỗ trợ đầu tư đã được ứng dụng
từ rất lâu ở nhiều nước trên thế giới để hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển tuy
nhiên lại rất mới mẻ đối với Việt Nam. Đây là hình thức hỗ trợ đầu tư có nhiều
ưu điểm so với các hình thức hỗ trợ đầu tư mà Nhà nước ta đã áp dụng trước đây
và hiện nay. Các ưu điểm đó thể hiện trên các mặt sau:
Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư kích thích tính chủ động trong hoạt động kinh
doanh, phát huy năng lực của chủ đầu tư. Nếu được hỗ trợ bằng hình thức này,
chủ đầu tư được chủ động tìm kiếm nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng bất kỳ
thuận lợi nhất, có thể rút vốn vay bất kỳ lúc nào tuỳ thuộc vào tiến độ của dự án.
Chủ đầu tư không phải trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn tín dụng của nhà nước mà
vẫn được hưởng ưu đãi về lãi suất như các dự án được vay vốn. Mặt khác, khi
vay vốn từ các tổ chức tín dụng chủ đầu tư phải tính toán kỹ hiệu quả đầu tư, sử
dụng vốn tiết kiệm vì phải hoàn trả vốn và lãi đúng hạn cho tổ chức tín dụng.
Chính việc phải hoàn trả vốn vay trong thời hạn vay vốn làm cho các nhà đầu tư
phải tư duy động não, suy tính để hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, hoàn trả được vốn vay. Ngoài ra, việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng làm
cho luồng vốn tiết kiệm trong dân cư được vận động đưa vào sản xuất kinh
doanh, nâng cao hiệu suất sinh lời của đồng vốn, làm cho hoạt động trên thị
trường tài chính thêm phần sôi động.
Vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là loại vốn "mồi" có tính đòn bẩy rất mạnh.
Chỉ với một lượng vốn nhỏ dùng để hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Nhà nước có thể
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
lôi kéo được một lượng vốn lớn hơn gấp nhiều lần đang tồn tại dưới "trạng thái
nghỉ" trong túi dân chúng và trong két sắt của các tổ chức tín dụng. Ví dụ: Giả

sử Nhà nước bỏ ra 2 tỷ đồng để hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án, theo
nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999, mức lãi suất hỗ trợ toàn dự án là 50%
lãi suất vay vốn tín dụng Nhà nước, nếu mức lãi suất này bằng 7% như hiện nay
thì với 2 tỷ đồng đó Nhà nước đã lôi kéo được 2tỷ/(50%x7%)=54,14 tỷ đồng
đầu tư cho nền kinh tế. Trong bối cảnh rất thiếu vốn đầu tư phát triển như nước
ta hiện nay và Nhà nước không đủ tiềm lực tài chính để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp thì tính đòn bẩy cao của hỗ trợ lãi suất sau đầu tư quả thật là rất hữu ích.
Đó thực sự là một công cụ tài chính mạnh của Nhà nước để thực hiện chính sách
kích thích đầu tư phát triển.
Bên cạnh các ưu điểm nêu trên, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư còn là một giải
pháp nhằm làm giảm gánh nặng cho Nhà nước, trước hết là gánh nặng về huy
động vốn. Nếu Nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp bằng hình thức cấp vốn trực
tiếp như những năm trước đây hoặc cho vay đầu tư thì Nhà nước sẽ phải huy
động một lượng vốn lớn hơn rất nhiều so với trường hợp hỗ trợ lãi suất sau đầu
tư. Ngoài ra, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư không đòi hỏi Nhà nước phải tham gia
vào quá trình thẩm định dự án, giám sát đầu tư- công việc này đã được các tổ
chức tín dụng tài trợ cho dự án làm thay, việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chỉ diễn
ra khi việc trả nợ vốn gốc của chủ đầu tư cho tổ chức tín dụng đúng như hợp
đồng tín dụng- do đó giảm được chi phí quản lý cho Nhà nước. Việc hỗ trợ lãi
suất sau đầu tư cũng không đòi hỏi công tác thu hồi vốn nên cũng không tiềm
tàng các rủi ro tín dụng cho Nhà nước so với các hình thức cấp vốn trực tiếp hay
cho vay đầu tư.

×