Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Thực trạng cán cân thương mại của Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.34 KB, 20 trang )

Đề tài: Thực trạng cán cân thương mại của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
I – Tổng quan về cán cân thương mại
1.Khái niệm
Cán cân thương mại của một quốc gia là một bảng kết toán ghi chép các giao dịch
về mặt giá trị các giao dịch xuất khẩu, nhập khấu hàng hóa và dịch vụ giữa một
nước với phần còn lại của thế giới, trong một khoảng thời gian nhất định, thường là
một năm.
2.Những nhân tố tác động đến cán cân thương mại
Cán cân thương mại chịu tác động của nhiều yếu tố như: tỷ giá, lạm phát, giá cả
hàng hóa, thu nhập, chính sách thương mại quốc tế....
Vì được xác định trên cơ sở các giá trị nên trạng thái của cán cân thương mại phụ
thuộc rất lớn vào tỷ giá hối đoái cũng như độ tin cậy số liệu và phương pháp thu
thập số liệu. Độ tin cậy và chính xác của số liệu đưa ra có thể ảnh hưởng đến việc
nhận dạng bản chất và mức độ nghiêm trọng của thâm hụt thương mại.
3.Vai trò của cán cân thương mại đối với nền kinh tế
Thứ nhất, cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung cầu
tiền tệ của một quốc gia, cụ thể là thể hiện sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng nội
tệ so với đồng ngoại tệ.
Thứ hai, cán cân thương mại phản ánh khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế
của một quốc gia.
Thứ ba, tình trạng của cán cân thương mại phản ánh tình trạng của cán cân vãng
lai, do đó có ảnh hưởng đến ổn định nền kinh tế vĩ mô. Đây là ảnh hưởng quan
trọng nhất của cán cân thương mại tới nền kinh tế và dựa vào đó nhà nước có thể
đưa ra các chính sách để có thể điều chỉnh cán cân thương mại đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, cán cân thương mại thể hiện mức tiết kiệm, đầu tư và thu nhập thực tế: X –
M = (S – I) + (T –G) Nếu cán cân thương mại bị thâm hụt thì điều đó thể hiện quốc
gia chi nhiều hơn thu nhập của mình cũng như tiết kiệm sẽ ít hơn đầu tư và ngược
lại.
1
Vì những tác động to lớn của cán cân thương mại tới nền kinh tế nên các nhà kinh


tế và quản lý luôn tìm cách dự báo những cơ hội cũng như các thách thức để có thể
đề ra những giải pháp thiết thực cho hoạt động xuất – nhập khẩu trong thời gian
sắp tới, từ đó giúp điều tiết vĩ mô một cách tốt hơn.
II – Thực trạng của cán cân thương mại Việt Nam sau khi gia nhập WTO
1.Thực trạng cán cân thương mại VN
Cán cân thương mại được xác định bằng công thức:
TB = (X – M) = - (SE + IC + TR + KL + KS + ΔR)
Trạng thái của cán cân thương mại của một quốc gia trong một năm thường xảy ra
một trong ba trạng thái.
- Trạng thái cân bằng khi thu nhập từ xuất khẩu bằng với chi cho nhập
khẩu hàng hóa của quốc gia. (X – M) = 0
- Trạng thái thặng dư khi thu nhập từ xuất khẩu lớn hơn chi cho nhập khẩu
hàng hóa của quốc gia. (X – M) > 0
- Trạng thái thâm hụt khi thu nhập từ xuất khẩu nhỏ hơn chi cho nhập khẩu
hàng hóa của quốc gia. (X – M) < 0
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết vào năm 2000 và có hiệu lực vào
cuối năm 2001 tạo thuận lợi cho sự gia tăng đáng kể giá trị xuất nhập khẩu của
Việt Nam so với giai đoạn trước đó. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cũng không ổn
định.
Năm KN xuất khẩu
(tr.USD)
Tốc độ tăng
XK (%)
KN nhập khẩu
(tr.USD)
Tốc độ tăng
NK (%)
Cán cân
thương mại
2000 14.482 25,5 15.636 33,2 -1.154

2001 15.027 3,8 16.162 3,4 -1.135
2002 16.705 11,2 19.733 21,8 -3.028
2003 20.176 20,6 25.226 27,8 -5.050
2004 26.500 28,9 31.516 24,9 -5.116
2005 32.447 22,4 36.761 16,6 -4.314
2006 39.826 22,7 44.891. 22,1 -5.065
Theo số liệu của Tổng cục thống kê các năm khác nhau.
2
Sau 4 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), hoạt động ngoại thương
nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam nói riêng, có nhiều
thuận lợi để phát triển.
Năm 2007
Năm 2007, kinh tế toàn cầu được ghi nhận với nhiều biến động lớn về giá hàng
hóa, chủ yếu là giá nguyên, nhiên liệu, nông sản, thực phẩm tăng cao liên tục.
Những biến động thất thường của giá dầu thô, giá vàng cũng với dấu hiệu suy thoái
của kinh tế Hoa Kỳ, đồng đôla mất giá nhanh so với các ngoại tệ mạnh khác đã tác
động không tốt tới nhiều nền kinh tế, trong đó có Việt Nam.
Về xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 48,4 tỷ USD, tăng 21,5% so với
năm 2006 và vượt 15,5% so với kế hoạch. Trong đó, khối doanh nghiệp 100% vốn
trong nước chiếm 42% và tăng 22,3%; Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm 58% và tăng 18,4%. Mặc dù đã là thành viên chính thức của WTO,
những xuất khẩu trong những tháng đầu năm dường như chưa tương xứng với tiềm
năng và cơ hội mang lại. Kết quả là xuất khẩu chỉ tăng bình quân 22%. Xuất khẩu
các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, cao su, gạo… đều có
mức tăng trưởng không cao. Lượng hàng hóa xuất khẩu tăng khá nhưng chưa có
nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn, có khả năng bù đắp phần thiếu hụt khi giá
và lượng dầu thô xuất khẩu giảm. Chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là thủy
sản và thực phẩm chưa thực sự ổn định. Các thị trường xuất siêu của nước ta là
Mỹ, EU…
Về nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 60,8 tỷ USD, tăng 35,5%

so với năm 2006, đứng thứ 41 trên thế giới. Thị trường nhập siêu của nước ta là
Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan…
Như vậy, tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu của Việt Nam năm 2007 là 109,2 tỷ
USD, với tình hình nhập siêu lên tới 12,4 tỷ USD, chiếm 27,5% kim ngạch xuất
khẩu. Mức nhập siêu như vậy là rất cao, vượt xa so với năm trước và cao gấp hơn 2
lần so với kế hoạch.
Năm 2008
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại
3
nguyên liệu, hàng hóa khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng
giữa năm, kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước, từ
đó cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất – nhập khẩu của nước ta năm 2008.
Về xuất khẩu: Tính chung cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt
62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Trong đó, khối doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu; khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm
50,3%. Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, tuy kim ngạch hàng hóa xuất khẩu
năm 2008 tăng khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ giá trị tái xuất sắt,
thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu ( dầu thô, than đá, gạo, cà
phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch hàng hóa xuất khẩu chỉ tăng
13,5%
Về nhập khẩu: Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gần 3,4 lần
so với cùng kỳ năm 2007, lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng còn
lại, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp; một trong những nguyên nhân chính là
do giá hàng hóa nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng
dầu. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước đạt 80,4 tỷ
USD, tăng 28,3% so với năm 2007, trong đó khối doanh nghiệp 100% vốn trong
nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì

kim ngạch nhập khẩu năm 2008 chỉ tăng 21,4% so với năm 2007.
Như vậy, mức thâm hụt cán cân thương mại lên đến 17,5 tỷ USD, cao nhất từ trước
đến nay. Báo động đối với Việt Nam là thâm hụt cán cân thương mại đã ở mức
đỉnh điểm, đặc biệt là thâm hụt thương mại với quốc gia láng giềng là Trung Quốc.
Trong tổng mức thâm hụt 17,5 tỷ USD hàng hóa của Việt Nam với thế giới thì
riêng thâm hụt với Trung Quốc đã lên tới 12 tỷ USD, tiếp đến là thâm hụt với các
đối thủ cạnh tranh là các nước ASEAN và Hàn Quốc… chỉ thặng sư với Hoa Kỳ
và EU.
Năm 2009
Do những hậu quả còn tồn động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008,
nên cán cân thương mại Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thâm hụt cao. Tuy
nhiên, con số thâm hụt đã giảm hơn so với năm trước.
4
Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2009 đạt khoảng 56,6 tỷ
USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% kế hoạch (kế hoạch điều chỉnh
tăng 3% của Quốc hội). Kim ngạch của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,85 tỷ USD, chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu của cả
nước, giảm 13,5% so với năm 2008; khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt
26,7%, chiếm 47,2%, giảm 5,1% so với năm 2008.
Về nhập khẩu: Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2009 đạt khoảng 68,8 tỷ
USD, giảm 14,7% so với năm 2008. Trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD, chiếm 36,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả
nước, giảm 1,8% so với năm 2008; khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt
khoảng 43,96 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với năm 2008.
Năm 2009, Trung Quốc vẫn là thị trường dẫn đầu về cung cấp hàng nhập khẩu cho
nước ta. Tiếp theo là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia… Với nhiều biện
pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng không
cần thiết hoặc trong nước đã sản xuất được, khối lượng một số hàng hóa nhập khẩu
năm 2009 cũng đã giảm hơn so với năm 2008, tuy nhiên một số loại hàng hóa khác
vẫn còn có mức nhập khẩu cao (như máy móc, thiết bị, dược phẩm tơ sợi…). Do

đó, mặc dù giá nhập khẩu giảm nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm chậm, dẫn đến
mức nhập siêu vẫn còn cao hơn mục tiêu đề ra.
Năm 2010
Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2010 đạt khoảng
71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009 và tăng 18% so với kế hoạch. Trong đó,
khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt khoảng 38,8 tỷ
USD, chiếm 54% kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng 27,8%, nếu trừ dầu thô đạt
khoảng 33,8 tỷ USD, tăng 40,1% so với năm 2009; khu vực doanh nghiệp 100%
vốn trong nước đạt khoảng 32,8 tỷ USD, chiếm 46%, tăng 22,7% so với năm 2009.
Về thị trường xuất khẩu, năm 2010, xuất khẩu đã tăng trên tất cả các khu vực thị
trường, trong đó thị trường Châu Á ước tăng 32,6%, tiếp đó đến thị trường Châu
Mỹ, ước tăng 25,8%, thị trường Châu Âu ước tăng 18,2%, thị trường Châu Phi –
Tây Á – Nam Á ước tăng 45% và thấp nhất là Châu Đại Dương ước tăng 13,6%.
5
Về nhập khẩu: Với nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế NK những
mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc trong nước đã sản xuất được, nhiều mặt hàng có
khối lượng nhập khẩu giảm so với năm 2009, mặc dù một số mặt hàng vẫn còn có
mức NK cao. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2010 đạt khoảng 84 tỷ USD, tăng
20,1% so với năm 2009, trong đó nhóm hàng cần thiết nhập khẩu chiếm một tỉ
trọng đáng kể, chủ yếu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong
nước, phục vụ cho đầu tư xây dựng các công trình và dự án. Khu vực doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đạt 36,4 tỷ USD, chiếm 43% tổng KNNK của cả nước,
tăng 39,9%; khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 47,5% tỷ USD,
chiếm 56%, tăng 8,3% so với năm 2009. Về thị trường nhập khẩu, nhập khẩu từ thị
trường Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất là 78% kim ngạch NK cả nước. Trong
đó, từ ASEAN chiếm hơn 19%, các nước Đông Á chiếm 55%, riêng Trung Quốc
chiếm hơn 23%.
Như vậy, năm 2010, xuất khẩu đã đạt được mức tăng trưởng cao, nhập siêu đã dần
được kiểm soát ở mức 17,27% kim ngạch xuất khẩu, đạt 12,37 tỷ USD; nhịp độ
tăng trưởng xuất khẩu đã cao hơn nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu.

Biểu đồ 1,2: Kim ngạch xuất – nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2007 – 2010
(đơn vị: tỷ USD)
6
Biểu đồ 3: Tình hình thâm hụt thương mại của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
(đơn vị: tỷ USD)
7
Biểu đồ 4: Cơ cấu XK theo khối doanh nghiệp 2007-2010
8

×