Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

luận văn luật khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư - thực tiễn tại tỉnh hậu giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.51 MB, 104 trang )

Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đất đai là một tư liệu sản xuất vô cùng quý giá, là thành phần quan trọng hàng
đầu của môi trường sống; trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước thì
việc Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế là một điều tất yếu. Trong giai đoạn hiện nay,
khi nền kinh tế của nước ta đã chính thức hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì việc
đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ, do đó áp lực cho
công tác giải phóng mặt bằng là rất lớn. Việc Nhà nước thu hồi đất dẫn đến những tác
động lớn cho đời sống của người dân, vì vậy để bảo vệ quyền lợi cho người dân đồng
thời phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ trong công tác quản lý nhà nước thì điều 74
Hiến pháp năm 1992 quy định người dân có quyền khiếu nại về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và bất cứ cá nhân nào; cụ thể hóa quy định trên tại điều 138 Luật đất đai năm
2003 quy định người dân có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành
chính về quản lý đất đai, trong đó bao hàm quyền khiếu nại trong lĩnh vực thu hồi đất
và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Do tính chất phức tạp và mức độ ảnh hưởng lớn nên
khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư luôn chiếm tỉ lệ cao trong
tổng số vụ khiếu nại, điển hình theo một báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường
trong những năm gần đây thì mỗi năm bình quân Bộ tiếp nhận 10.000 lượt đơn khiếu
nại về đất đai, trong đó khiếu nại liên quan đến thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư để thực hiện các dự án là 98,9% tổng lượng đơn thư
1
. Bên cạnh đó, các vụ
khiếu nại đông người, phức tạp trên địa bàn các tỉnh, thành hầu hết đều phát sinh
trong công tác thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đơn cử như trên địa bàn


tỉnh Hậu Giang trong năm năm (2005-2009) đã phát sinh 54 vụ khiếu nại đông người,
trong đó nguyên nhân từ việc đền bù, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là 53 vụ
2
. Pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong thời gian qua đã luôn được thay đổi nhằm
phù hợp thực tế, đảm bảo quyền lợi của người dân và cải thiện tình hình khiếu nại
trong lĩnh vực này, điển hình là sự ra đời của Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định bổ
sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
ngày 13/8/2009, có hiệu lực từ ngày 01/10/2009. Thiết nghĩ, bên cạnh việc thay đổi

1

2
“Báo cáo tổng kết 5 năm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đông người trên địa bàn tỉnh Hậu Giang” của Ủy
ban nhân dân tỉnh tháng 10/2009.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 2

những chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì pháp luật về khiếu nại và giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực này cũng nên có những thay đổi để góp phần cải thiện
tình hình khiếu nại; nhưng không như vậy, khung pháp lý về khiếu nại và giải quyết
khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến nay vẫn chưa có sự
chuyển biến nào, Luật đất đai năm 2003, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính đã sửa đổi, bổ sung năm 2006, Nghị định 84/2007/NĐ-CP, Nghị định
69/2009/NĐ-CP đều có những quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng những quy định ấy vẫn chưa có
sự thống nhất chung, còn chồng chéo và mâu thuẫn nhau như: quy định về thời hiệu,
thẩm quyền thụ lý,… Đây cũng là nguyên nhân làm cho tình hình khiếu nại trong thời
gian qua diễn biến phức tạp, làm phát sinh khiếu nại vượt cấp, khiếu nại đông người.

Trước tình hình khiếu nại diễn biến phức tạp như hiện nay, khung pháp lý chưa chặt
chẽ đòi hỏi việc vận dụng pháp luật tại các địa phương cần phải linh hoạt, phù hợp
tình hình thực tế thì mới mang lại những kết quả khả quan cho tình hình khiếu nại
trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, Hậu Giang là tỉnh điển hình cho
vấn đề này. Trong năm 2009, số vụ khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư trên địa bàn tỉnh đã giảm 1,63 lần so với năm 2008
3
; số vụ khiếu nại có
tính chất phức tạp giảm, các đoàn khiếu nại đông người đều giải quyết tốt ở cơ sở,
không phát sinh đoàn khiếu nại đông người đến các cơ quan ở Trung ương. Nhận thấy
rằng khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một vấn đề phức
tạp nhưng Hậu Giang đã giải quyết tốt vấn đề này trong khuôn khổ pháp luật về nó
vẫn chưa có sự thống nhất chung nên người viết đã chọn tỉnh Hậu Giang để nghiên
cứu thực tiễn đề tài; thông qua nghiên cứu thực tiễn để chứng minh cho kết quả
nghiên cứu lý luận của đề tài, phân tích và kiến nghị nhân rộng những giải pháp đạt
hiệu quả cao trong công tác giải quyết khiếu nại trên địa bàn tỉnh.
Vì những lẽ trên người viết chọn đề tài “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư – Thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang”
làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trọng tâm của đề tài được người viết xác định là những quy định của pháp luật
về khiếu nại và quy trình giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư theo quy định hiện hành tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP. Qua phân
tích những quy định trên người viết so sánh với những quy định trong Luật khiếu nại,
tố cáo, phân tích những quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành

3
Báo cáo công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại năm 2009, Thanh tra tỉnh Hậu Giang.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.

GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 3

chính; từ đó chỉ ra những mâu thuẫn, chồng chéo trong quy định của pháp luật hiện
hành. Tìm hiểu những nguyên nhân chính phát sinh khiếu nại trong chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, phân tích những điểm mới trong Nghị định 69/2009/NĐ-
CP để tìm ra giải pháp nhằm giải quyết triệt để những nguyên nhân phát sinh khiếu
nại. Song song đó, người viết còn tìm hiểu giải pháp thực tế của tỉnh Hậu Giang về
công tác giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong
thời gian qua. Từ những nghiên cứu trên góp phần hoàn thiện pháp luật, nhân rộng
những giải pháp hiệu quả trong giải quyết khiếu nại nhằm ổn định trật tự xã hội, đẩy
nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng để phát triển kinh tế xã hội.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về
khiếu nại và giải quyết khiếu nại khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất và quá trình thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân có đất bị thu hồi. Thu hồi đất được
đề cập đến là trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế. Đồng thời người viết
phân tích nguyên nhân phát sinh khiếu nại trong chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư như: giá đất bồi thường, những vấn đề về tái định cư, trình tự, thủ tục thu hồi
đất. Trong phạm vi nghiên cứu pháp luật về khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư thì người viết chỉ nghiên cứu, so sánh với Luật khiếu nại, tố cáo
những quy định nào mà hiện nay còn chồng chéo, chưa thống nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Nhằm hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất người viết đã vận dụng một vài
phương pháp nghiên cứu để làm công cụ phục vụ cho việc nghiên cứu của mình như:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích nghiên cứu lý luận trên tài liệu sách vở liên
quan đến khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư.
- Phương pháp phân tích luật viết để phân tích những quy định của pháp luật
hiện hành.

- Phương pháp đối chiếu, so sánh những quy định của pháp luật về cùng một
vấn đề, so sánh giữa lý luận và thực tiễn.
Bên cạnh đó người viết còn sử dụng một số phương pháp thực tế như:
- Phương pháp sưu tầm, thống kê, tổng hợp số liệu thực tế của cả nước và trên
địa bàn tỉnh Hậu Giang.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 4

- Phương pháp phỏng vấn và xử lý các ý kiến phỏng vấn về cuộc điều tra “Mức
độ hiểu biết về quyền khiếu nại của người dân khi Nhà nước thu hồi đất, đền bù thiệt
hại” trên 100 phiếu tại tỉnh Hậu Giang.
5. Kết cấu của đề tài
Trong bài luận văn này ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài
liệu tham khảo và Phụ lục thì kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Người viết tập trung nghiên cứu những cơ sở lý luận về khiếu nại,
giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, cụ thể qua các
nội dung sau: khái niệm, đặc điểm, lịch sử phát triển…
Chương 2: Nghiên cứu quy định của pháp luật về khiếu nại, giải quyết khiếu
nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Qua đó, phân tích, so sánh
những quy định hiện hành nhằm hoàn thiện pháp luật.
Chương 3: Với nội dung nghiên cứu thực tiễn khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại tỉnh Hậu Giang. Nguyên nhân
và hướng hoàn thiện. Nghiên cứu thực tiễn nhằm minh họa sinh động cho phần lý luận
của đề tài, đồng thời tìm ra những giải pháp hiệu quả trong thực tiễn để cải thiện tình
hình khiếu nại trong thời gian tới.
Do có phần hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nên trong quá trình
nghiên cứu đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp tận tình của quý Thầy, Cô và các bạn để người viết bổ sung thêm kiến
thức và bài luận văn được hoàn chỉnh hơn.















Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG
THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ.
Với mục đích nắm rõ những cơ sở lý luận của vấn đề, từ đó có nền tảng vững
chắc để nghiên cứu, chương này tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về
khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
thông qua việc nghiên cứu về lịch sử phát triển, khái niệm, đặc điểm, những nguyên
tắc cơ bản về khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư…
1.1 Khái niệm và đặc điểm của khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất
và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
1.1.1 Khái niệm

* Khái niệm khiếu nại nói chung:
Việc xây dựng, củng cố và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Kể từ khi Luật đất đai năm 1993 thừa nhận
giá trị của đất đai trong nền kinh tế thị trường và mở rộng quyền năng cho người sử
dụng đất thì Nhà nước cũng phát huy quyền dân chủ của người dân trong công tác thu
hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thông qua những quy định của pháp luật về
quyền khiếu nại của công dân trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Để
hiểu và nắm rõ được khái niệm khiếu nại của công dân trong thu hồi đất và bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư thì cần làm rõ thế nào là khiếu nại, giải quyết khiếu nại.
Khiếu nại xuất phát từ tiếng La-tinh là “complaint” nghĩa là cầu cứu, kêu nài,
kêu oan, nài nỉ
4
. Trong ngôn ngữ tiếng việt, khiếu nại có nghĩa là đề nghị cơ quan có
thẩm quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái phép hay không hợp

5
. Xét ở góc độ luật học thì khiếu nại là: “việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán
bộ, công chức theo thủ tục do luật quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật
cán bộ công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình” (căn cứ theo quy định tại khoản 1 điều 2
Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004). Đây là một khái niệm
khoa học và phù hợp với thực tế, người viết chọn khái niệm này làm nền tảng để đưa
ra khái niệm khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Bên cạnh
đó cần làm rõ một số khái niệm liên quan như:

4
Từ điển Anh-Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
5
Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, 1998, tr.483.

Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 6

- Khiếu nại lần đầu: là khiếu nại trực tiếp với cơ quan, cá nhân, tổ chức đã ban
hành quyết định hoặc thực hiện hành vi mà người khiếu nại cho rằng quyết định, hành
vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Khiếu nại lần hai: là khiếu nại đến cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan giải
quyết khiếu nại lần đầu.
- Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng: là quyết định có hiệu lực thi hành
và người khiếu nại không được khiếu nại tiếp
6
. Việc gọi là quyết định giải quyết khiếu
nại lần hai hoặc cuối cùng ảnh hưởng đến quyền khiếu nại, khiếu kiện tiếp của công
dân, bởi nếu đó là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì nó sẽ có hiệu lực pháp
luật và người dân sẽ không được khiếu nại, khiếu kiện tiếp; còn nếu là quyết định giải
quyết khiếu nại lần hai thì khi không đống ý người dân có quyền khiếu kiện ra Tòa án.
Từ khái niệm khiếu nại ta thấy rằng đề nghị này xuất phát từ nhận thức chủ
quan của người khiếu nại khi họ cho rằng quyền và lợi ích chính đáng của họ bị xâm
phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính. Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chỉ có thể kết luận là có sự vi phạm hay không sau khi đã xem xét một cách
khách quan và thận trọng nội dung vụ việc cùng những tài liệu và chứng cứ liên quan.
Qua đó nhận thấy rằng không phải lúc nào có khiếu nại là có sai phạm xảy ra, khiếu
nại cũng không là một sự phản ứng tiêu cực của người dân trước quyết định của cơ
quan nhà nước vì vậy không nên có định kiến gay gắt đối với hoạt động khiếu nại.
Theo quy định tại khoản 13 điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ
sung năm 2004 thì giải quyết khiếu nại là: “việc xác minh, kết luận và ra quyết định
giải quyết của người giải quyết khiếu nại”. Như vậy ta thấy rằng giải quyết khiếu nại
là một quá trình phải xác minh thu thập nguồn tin về vụ việc, phân tích các chứng cứ
và hoàn cảnh cụ thể, đưa ra kết luận về vụ việc và từ đó ra quyết định giải quyết khiếu

nại.
Do đề tài người viết nghiên cứu về khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong thu hồi
đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vì vậy không chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu khái
niệm của khiếu nại và giải quyết khiếu nại mà phải làm rõ những khái niệm liên quan
để từ đó có cách hiểu thống nhất và chính xác trong nghiên cứu, chẳng hạn như các
khái niệm liên quan trực tiếp đến quá trình nghiên cứu đề tài: thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư, tìm hiểu đối tượng của khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư.
* Khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:

6
Theo khoản 15 điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã sửa đổi, bổ sung năm 2004. Hiện nay thì khái niệm
này không còn tồn tại trong Luật khiếu nại, tố cáo, nó chỉ còn tồn tại trong điều 138 Luật đất đai năm 2003.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 7

Khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là: “cá nhân, tổ
chức theo thủ tục do luật định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính trong công tác thu hồi đất và bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Quyền khiếu nại của công dân trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư tác động trực tiếp đến đối tượng khiếu nại là quyết định hành chính, hành vi hành
chính trong công tác thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Từ khái niệm quyết
định hành chính tại khoản 10 điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ sung
năm 2004 ta có thể hiểu khái quát về quyết định hành chính trong thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư là: “quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà
nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng
một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể trong hoạt động thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư” (một số quyết định điển hình là: quyết định thu hồi đất,
quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư…)
Hành vi hành chính là đối tượng khiếu nại của quyền khiếu nại trong thu hồi
đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ thu
hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật. Ví dụ như: hành
vi kiểm kê tài sản áp giá bồi thường…
Thu hồi đất là: “việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu hồi lại quyền
sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý
theo quy định của Luật đất đai”
7
. Các trường hợp thu hồi đất được quy định cụ thể tại
điều 38 Luật đất đai năm 2003. Như đã khẳng định phạm vi nghiên cứu của thu hồi
đất trong đề tài chỉ đề cập đến trường hợp thu hồi đất có đặt ra vấn đề bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư, cụ thể là trường hợp thu hồi quy định tại khoản 1 điều 38 Luật đất đai
năm 2003: thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng, phát triển kinh tế.
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
8

- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi
đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa
điểm mới.
9


7
Theo khoản 5 điều 4 Luật đất đai năm 2003.
8

Theo khoản 6 điều 4 Luật đất đai năm 2003.
9
Theo khoản 7 điều 4 Luật đất đai năm 2003.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 8

- Tái định cư trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất là: Hộ gia đình, cá nhân
khi Nhà nước thu hồi đất ở mà không còn chỗ ở nào khác thì được giao đất ở hoặc nhà
ở tái định cư
10
.
Từ những khái niệm trên, chúng ta tiếp tục phân tích để tìm ra những đặc điểm
của khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư.
1.1.2 Đặc điểm:
Khiếu nại và công tác giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư có những đặc điểm nổi bật sau:
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại là một khâu trong quy trình quản lý nhà
nước, phát huy quyền dân chủ, giúp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước. Nghĩa là
trong quản lý nhà nước xuất hiện việc khiếu nại là một hoạt động thường nhật, nhưng
khi khiếu nại với số lượng nhiều, gay gắt và kéo dài thì công tác quản lý nhà nước cần
phải được xem xét lại.
- Khiếu nại là trong đó bao giờ cũng hàm chứa những dữ liệu chứng tỏ có sự vi
phạm theo đánh giá chủ quan của người khiếu nại hoặc cho là xâm phạm quyền và lợi
ích được pháp luật bảo vệ, cho nên việc khiếu nại không phải là hoạt động mang tính
phòng ngừa mà là việc bảo vệ tích cực quyền và lợi ích của công dân, cơ quan, tổ
chức. Tuy nhiên, thông qua việc giải quyết khiếu nại đã phát hiện những thiếu sót, sai
trái để khắc phục kịp thời nên hoạt động khiếu nại cũng góp phần phòng ngừa những
sai phạm trong công tác quản lý nhà nước.

- Quyền khiếu nại là quyền cơ bản của công dân bảo vệ các quyền khác không
bị xâm phạm khi Nhà nước thực hiện chức năng quản lý. Nói lên đặc thù của quyền
khiếu nại là chỉ phát sinh khi người khiếu nại cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp khác
của họ bị xâm phạm và là công cụ khôi phục lại các quyền bị xâm phạm ấy. Khiếu nại
trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chỉ xuất hiện khi Nhà nước tiến
hành thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho chủ thể bị thu hồi mà họ nhận
thấy rằng không thỏa đáng, quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm thì lúc bấy giờ khiếu
nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mới phát sinh.
- Quyền khiếu nại chỉ phát sinh trong một thời gian nhất định trong từng vụ
việc cụ thể. Khi hết thời hạn luật định mà công dân không khiếu nại thì xem như mất
quyền khiếu nại về vụ việc đó. Sở dĩ có đặc điểm này vì hoạt động quản lý nhà nước
mang tính thường xuyên, liên tục, hoạt động sau kế thừa hoạt động trước nên quyền

10
Theo điều 19 Nghị định 69/2009/NĐ-CP Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 9

khiếu nại về một vụ việc chỉ phát sinh trong một thời hạn nhất định và đảm bảo cho sự
phát triển ổn định trong công tác quản lý nhà nước. Đồng thời việc quy định thời hiệu
giúp nâng cao trách nhiệm của người dân trong việc thực hiện quyền khiếu nại.
- Về chủ thể, trong hoạt động khiếu nại xuất hiện hai chủ thể là bên khiếu nại
và bên bị khiếu nại.
+ Bên khiếu nại: Là chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm
phạm.
+ Bên bị khiếu nại: Là bên có quyết định, hành vi mà người khiếu nại cho
rằng quyết định, hành vi đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ (thường là cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức thuộc cơ quan nhà nước khi thực hiện công vụ).

- Đối tượng của hoạt động khiếu nại: Là quyết định hành chính, hành vi hành
chính do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước ban hành, thực hiện. Quyết định hành chính ở đây chỉ là quyết định cá
biệt thể hiện bằng văn bản, còn quyết định chủ đạo và quyết định quy phạm không
phải là đối tượng khiếu nại.
- Trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải theo quy định của
pháp luật. Tức phải tuân thủ quy định của Luật về thời hiệu khiếu nại, thời hạn giải
quyết khiếu nại, hình thức khiếu nại,… điển hình như: khiếu nại phải bằng văn bản
cho dù họ khiếu nại bằng văn bản hay trình bày trực tiếp; vì khi người khiếu nại trình
bày trực tiếp thì người có trách nhiệm phải hướng dẫn họ viết thành đơn hoặc giúp họ
ghi lại nội dung khiếu nại.
Do công tác thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý hành chính của mình, nên khi người dân khiếu nại trong lĩnh
vực đó được xem là khiếu nại hành chính. Vậy khiếu nại hành chính khác khiếu nại tư
pháp như thế nào? Phải phân biệt được hai lĩnh vực khiếu nại này thì mới tìm hiểu
chính xác được quyền, nghĩa vụ của người dân khi khiếu nại, trình tự, thủ tục khiếu
nại và giải quyết khiếu nại cụ thể là trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư.
Dựa vào các căn cứ sau để phân biệt khiếu nại hành chính với khiếu nại tư pháp:


Khiếu nại hành chính Khiếu nại tư pháp
Nội dung
Khiếu nại về quyết định hành
chính, hành vi hành chính trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích của người khiếu nại; là
Là khiếu nại về tính hợp
pháp của quyết định tố tụng,
hành vi tố tụng là những sự

việc phát sinh trong hoạt
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 10

những sự việc phát sinh trong
hoạt động quản lý hành chính
(cụ thể trong phạm vi nghiên
cứu là quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong thu
hồi đất và bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư).
động tố tụng
11
.
Phạm vi
Có phạm vi khiếu nại rất rộng. Giới hạn trong một số loại
hoạt động nhất định của cơ
quan và người tiến hành tố
tụng.
Thời hiệu
Là 90 ngày từ nhận được quyết
định hành chính hoặc biết được
có hành vi hành chính
12
.
Khiếu nại tư pháp theo quy
định của Bộ luật tố tụng
hình sự, Bộ luật tố tụng dân
sự (như trong Bộ luật tố

tụng dân sự thời hiệu là 15
ngày
13
).
Thủ tục khiếu
nại và giải
quyết khiếu
nại
Theo quy định của Luật khiếu
nại, tố cáo và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
Theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự, Bộ luật tố
tụng dân sự.
Chủ thể giải
quyết khiếu
nại.
Là chủ thể quản lý hành chính
nhà nước (chủ yếu là cơ quan
hành chính nhà nước).
Là chủ thể tiến hành tố tụng
(chủ yếu là cơ quan tư
pháp).

1.2 Lịch sử phát triển của khiếu nại trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư.
1.2.1 Giai đoạn trước năm 1993
Quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại có vai trò vô cùng quan trọng không
chỉ có tác dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân mà còn thông qua đó để
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần củng cố và tăng cường pháp chế xã hội

chủ nghĩa. Chính vì sự quan trọng ấy, những quy định pháp luật về quyền khiếu nại

11
Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2006.
12
Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005.
13
Điều 394 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 11

của công dân đã ra đời từ rất sớm. Nguyên tắc đảm bảo quyền dân chủ của công dân
luôn là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt nội dung quy định của các bản Hiến pháp.
Những quy định cụ thể về khiếu nại đã được ban hành như: Thông tư số
436/TTg ngày 13 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng quy định trách nhiệm, quyền hạn
về tổ chức của các cơ quan chính quyền trong việc giải quyết thư khiếu tố, trách
nhiệm của các cơ quan trong việc giải quyết thư khiếu tố. Đến ngày 31 tháng 12 năm
1959 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thông qua Hiến pháp năm 1959 đã
cụ thể hóa quyền khiếu nại của công dân thành một điều trong Hiến pháp: “Công dân
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền khiếu nại và tố cáo bất cứ cơ quan nhà
nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước. Những việc
khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì
hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường”
14
thể
hiện sự phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ trong công tác quản lý nhà nước. Sau đó cụ
thể hóa những quy định của Hiến pháp thì hàng loạt các Nghị quyết, Quyết định quy
định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại được ban hành: Nghị quyết 164/CP ngày

31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về tăng cường công tác thanh tra, Nghị quyết số
165/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban
thanh tra của Chính phủ, việc giải quyết và thanh tra việc giải quyết các vụ khiếu nại,
tố cáo của công dân; Quyết định 25/TTg ngày 09/01/1976 của Thủ tướng Chính phủ
về tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân ở các đơn vị cơ sở chính quyền,
kinh tế, sự nghiệp, và nhiều văn bản khác.
Đến ngày 27/11/1981 văn bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực
khiếu nại, tố cáo ra đời đó là Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước quy định việc xét và
giải quyết các khiếu nại, tố cáo, thẩm quyền, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đây
là văn bản có tính pháp điển cao, điều chỉnh khá đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo và
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Trong quá trình triển khai thi hành Pháp
lệnh thì một số văn bản quan trọng được ban hành để người dân dễ dàng thực hiện
quyền khiếu nại như: Nghị định 58/HĐBT ngày 20/3/1982 của Hội đồng Bộ trưởng về
việc thi hành Pháp lệnh ngày 27/11/1981, Thông tư số 02 ngày 04/5/1982 của Ủy ban
thanh tra của Chính phủ quy định vấn đề tiếp dân, nhận đơn thư khiếu tố, Nghị quyết
26/HĐBT ngày 15/02/1984 về việc tăng cường và nâng cao hiệu lực của Thanh tra.
Nhằm phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, giám sát quá trình giải quyết khiếu tố
chặt chẽ, nâng cao vai trò của thanh tra thì Pháp lệnh thanh tra đã được ban hành ngày
01/4/1990. Để đáp ứng sự phát triển của xã hội, tạo hành lang pháp lý cụ thể hơn, đầy

14
Hiến pháp năm 1959, chương III điều 29.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 12

đủ hơn để người dân thực hiện quyền khiếu nại của mình thì Pháp lệnh ngày
27/11/1981 đã được thay thế bằng Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân ngày
07/5/1991.
Đó là sự phát triển của những quy định pháp luật về quyền khiếu nại của công

dân. Tuy nhiên, cụ thể về quyền khiếu nại của công dân trong lĩnh vực thu hồi đất và
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong giai đoạn này chưa được quan tâm điển hình như:
trong Luật đất đai năm 1987 và Nghị định 30-HĐBT ngày 23/3/1989 về việc thi hành
Luật đất đai chưa có những quy định chi tiết về quyền khiếu nại của công dân khi bị
thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Nhìn chung giai đoạn này giải phóng
mặt bằng còn đơn giản mang phong cách “huy động thời chiến”, đặt lợi ích của xã
hội, cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân một cách mạnh mẽ. Hơn nữa đất đai trong thời
kỳ này không được xem là một loại tài sản lưu thông trên thị trường nên nếu có thu
hồi đất thì tài sản trên đất được bồi hoàn
15
còn đất thì chủ yếu là hoán đổi. Do đất đai
không xem là tài sản có giá nên sự hoán đổi mang tính tượng trưng, điều này dựa trên
cơ sở lý luận: “ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước quản lý; người sử dụng
đất được Nhà nước giao, nên khi cần thì Nhà nước lấy lại và giao lại một miếng đất
khác”
16
. Cũng chính những lý do trên nên những quy định về quyền khiếu nại của
công dân trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở giai đoạn này chưa
được quan tâm, khi xảy ra khiếu nại trong thu hồi đất, bồi hoàn, hoán đổi đất thì giải
quyết theo những quy định chung của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
1.2.2 Giai đoạn Luật đất đai năm 1993
Trong giai đoạn này quá trình lập pháp chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Hiến
pháp năm 1992 và quyền khiếu nại của công dân cũng vậy. Hiến pháp quy định quyền
khiếu nại của công dân tại điều 74 chỉ ra đối tượng rộng hơn, cụ thể hơn về quyền
khiếu nại so với các bản Hiến pháp trước đây. Cụ thể hóa những quy định của Hiến
pháp về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân thì Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ tư đã
thông qua Luật khiếu nại, tố cáo ngày 18/12/1998, đây là văn bản pháp luật có giá trị
pháp lý cao nhất quy định chi tiết về khiếu nại, tố cáo của công dân (trước đây cao
nhất điều chỉnh bằng Pháp lệnh). Từ tháng 7 năm 1996 trở về trước việc khiếu nại của
người dân chỉ được giải quyết trong phạm vi cơ quan hành chính nhà nước. Để góp

phần giải quyết triệt để các khiếu nại của người dân, mở rộng thẩm quyền giải quyết
các vụ khiếu nại thì Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 ngày 28/10/1995 đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân, trong đó quy định: Tòa hành

15
Bồi hoàn: trả lại mang tính chất tương đối không ngang giá.
16
TS Phan Trung Hiền: Giáo trình Luật hành chính đô thị, nông thôn, lưu hành nội bộ, Cần Thơ, 2009, tr 56.

Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 13

chính thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/7/1996. Nhằm triển khai hoạt động
của Tòa hành chính trên thực tế, ban hành những căn cứ để Tòa án thụ lý giải quyết
các khiếu nại khi những vụ việc bị chủ thể của nó khởi kiện ra Tòa hành chính thì
Pháp Lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được Ủy ban thường vụ Quốc
hội thông qua ngày 21/5/1996, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào năm 1998.
Do thể chế hóa Nghị quyết Đại hội VI năm 1986 của BCH Trung ương Đảng,
trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 Luật đất đai năm 1993 đã được ban hành. Luật đất đai
năm 1993 bắt đầu ghi nhận quyền năng của người sử dụng đất trong nền kinh tế thị
trường. Đất đai có giá và vì vậy phải được bồi thường tương xứng khi Nhà nước thu
hồi vào mục đích công cộng, quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia. Chính vì sự mở
rộng quyền năng, thừa nhận giá trị của đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993
nên khi thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã bắt đầu phát sinh và diễn biến
phức tạp trong giai đoạn này. Văn bản pháp lý quy định chi tiết hướng dẫn người dân
thực hiện quyền khiếu nại trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
là: Quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng được ban hành kèm theo
Nghị định 90-CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ. Quy định cụ thể là chỉ có UBND

cấp tỉnh có quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thu hồi đất và đền bù thiệt hại
quyết định của UBND cấp tỉnh có hiệu lực thi hành mà không quy định việc khiếu nại
tiếp hay khởi kiện
17
. Lúc bấy giờ quy định về thời hiệu khiếu nại rất ngắn chỉ 15 ngày
từ ngày nhận được quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Những quy định về
khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và đền bù thiệt hại chỉ được quy
định gói gọn trong một điều của Nghị định nên chưa đầy đủ và chặt chẽ. Sau đó đến
ngày 24/4/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/1998/NĐ-CP thay thế Nghị định
90-CP ngày 17/8/1994. Trong Nghị định 22/1998/NĐ-CP quy định quyền khiếu nại
và giải quyết khiếu nại của công dân trong thu hồi đất và đền bù thiệt hại được giải
quyết theo quy định của pháp luật khiếu nại và tố cáo của công dân. Đây là sự tiến bộ
khi đồng nhất những quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và
đền bù thiệt hại với những quy định chung về khiếu nại. Tuy nhiên vấn đề thời hiệu
vẫn chưa được điều chỉnh thỏa đáng vì vẫn là 15 ngày
18
.
Đây là giai đoạn thu hồi đất và đền bù thiệt hại trở thành một vấn đề nóng của
xã hội. Do mới thừa nhận giá trị của đất nên sự quản lý giá đất trong thời kỳ này còn

17
Điều 17 Nghị định 90-CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ Quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
18
Điều 38 Nghị định 22/1998/NĐ-CP quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, anh ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 14


yếu kém dẫn đến những cơn “sốt” giá và vì vậy vấn đề khiếu nại trong thu hồi đất và
đền bù thiệt hại ở giai đoạn này chiếm số lượng nhiều nhất và gay gắt nhất. Những
quy định về thu hồi đất và đền bù thiệt hại, những quy định về công tác giải quyết
khiếu nại trong giai đoạn này chưa cụ thể và hợp lý cũng là nguyên nhân làm cho
khiếu nại trong thu hồi đất và đền bù thiệt hại ở thời kỳ Luật đất đai năm 1993 diễn
biến phức tạp. Vì vậy cần đặt ra những quy định cụ thể hơn, hợp lý hơn nhằm giải
quyết hiệu quả khiếu nại trong thu hồi đất và đền bù thiệt hại.
1.2.3 Giai đoạn Luật đất đai năm 2003
Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường ở nước ta. Việc đưa
pháp luật của quốc gia tiếp cận với nền pháp luật quốc tế là một điều cần thiết cho sự
phát triển của đất nước. Điều trước hết chúng ta cần phải làm là phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ của công dân, kiện toàn công tác quản lý nhà nước thông qua việc tạo
điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền khiếu nại và đẩy mạnh, chú trọng
công tác giải quyết khiếu nại. Đáp ứng nhu cầu trên thì Luật khiếu nại, tố cáo trong
giai đoạn này đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung qua các năm: 2004, 2005 kèm
theo đó là các văn bản hướng dẫn thi hành. Hiện nay văn bản phổ biến được áp dụng
trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo là: Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 được sửa đổi, bổ
sung năm 2004 và 2005, Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo (sau đây gọi là Nghị định 136/2006/NĐ-
CP). Bên cạnh đó, để phát huy mạnh mẽ quyền khiếu nại của công dân và giải quyết
hiệu quả các khiếu nại thì Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được
sửa đổi, bổ sung vào năm 2006. Đồng thời để thúc đẩy công tác giám sát quá trình giải
quyết khiếu nại, quy định quyền hạn nhiệm vụ của thanh tra trong thời kỳ mới do đó
Luật thanh tra đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004
thay thế Pháp lệnh thanh tra ngày 29/3/1990.
Luật đất đai năm 2003 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2004) ra đời để đáp ứng nhu
cầu phát triển của xã hội. Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong đất đai nói chung
đã được quy định cụ thể tại điều 138 Luật đất đai năm 2003. Cụ thể hóa Luật đất đai
năm 2003, Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (sau đây
gọi là Nghị định 197/2004/NĐ-CP). Về giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư Nghị định quy định giải quyết theo Luật đất đai, Nghị định
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 15

181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về hướng dẫn thi hành Luật đất đai
19
. Lúc bấy giờ
công tác giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo
một quy định khác so với Luật khiếu nại, tố cáo. Thực tế cho thấy quá trình giải quyết
khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư còn gặp nhiều khó khăn,
bên cạnh đó nhằm đưa những quy định về giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư lại gần với những quy định về giải quyết khiếu nại chung
trong quản lý hành chính, đúc kết được các kinh nghiệm từ thực tiễn, ngày 25/5/2007
Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về
đất đai (sau đây gọi là Nghị định 84/2007/NĐ-CP) thay thế những quy định về khiếu
nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại Nghị
định 197/2004/NĐ-CP. Nghị định quy định chi tiết về công tác giải quyết khiếu nại
của chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh tại điều 63, 64 của Nghị định. Nghị định đã
hệ thống hóa lại trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư nhằm đạt hiệu quả cao trong công tác giải quyết khiếu nại.
Những quy định về thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư không ngừng
hoàn thiện, ngày 13/8/2009 Chính phủ ban hành Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định
bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư (sau đây gọi là Nghị định 69/2009/NĐ-CP). Trong Nghị định 69/2009/NĐ-CP đã

kế thừa những quy định về khiếu nại và công tác giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất
và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
20
của Nghị định 84/2007/NĐ-CP. Nhìn chung những
quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư trong giai đoạn này không ngừng hoàn thiện và tiến bộ hơn so với những giai
đoạn trước, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định như: các văn bản
vẫn chưa thống nhất về thời hiệu khiếu nại, sẽ được người viết phân tích cụ thể trong
chương tiếp theo.
1.3 Những nguyên tắc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư.
Khiếu nại và công tác giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư là khiếu nại về một lĩnh vực trong công tác quản lý nhà nước. Vì vậy phải
tuân theo những nguyên tắc cơ bản về khiếu nại và giải quyết khiếu nại chung. Việc

19
Điều 49 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
20
Điều 40 Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định việc giải quyết khiếu nại thực hiện theo điều 138 Luật đất đai,
điều 63, 64 Nghị định 84/2007/NĐ-CP…
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 16

tuân thủ các nguyên tắc khi khiếu nại và giải quyết khiếu nại đảm bảo có hiệu quả
việc công dân vận dụng quyền khiếu nại của mình đồng thời giúp việc giải quyết
khiếu nại đạt kết quả cao.
- Nguyên tắc pháp chế: Được thể hiện qua việc Hiến pháp quy định cụ thể về
quyền khiếu nại của công dân. Khiếu nại là ranh giới chuẩn mực giữa cái đúng và cái

sai, vì khi khiếu nại thì giữa các chủ thể đã có sự bất đồng nhất định. Sự đúng sai ấy
phải căn cứ vào những quy định của pháp luật làm chuẩn mực để giải quyết. Nguyên
tắc pháp chế còn thể hiện cụ thể qua thủ tục khiếu nại, giải quyết khiếu nại được hình
thành trên cơ sở Hiến pháp. Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các vi phạm Hiến pháp và pháp luật…”. Áp dụng vào lĩnh vực này, có nghĩa là
người khiếu nại thực hiện quyền khiếu nại phải tiến hành đúng thủ tục luật định: gửi
đơn, trình bày trực tiếp trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, tuân theo thời
hiệu khiếu nại. Đối với giải quyết khiếu nại thì chỉ cơ quan nào có thẩm quyền giải
quyết theo luật định mới được thực hiện thủ tục và phải thực hiện đúng trình tự do
pháp luật quy định với những phương tiện, biện pháp và hình thức được pháp luật cho
phép. Khi giải quyết khiếu nại phải tuân theo thời hạn giải quyết khiếu nại, ví dụ: cơ
quan nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền thì phải xem xét và thụ lý trong thời hạn
10 ngày từ ngày nhận đơn
21
. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là không quá 60
ngày từ ngày thụ lý đơn
22
.
- Nguyên tắc chân lý khách quan: Có quan hệ trực tiếp đến nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này đòi hỏi công dân phải trung thực khi khiếu nại,
phải phản ánh đúng sự thật khách quan, không lợi dụng quyền khiếu nại để vu khống.
Người khiếu nại tuân thủ nguyên tắc này thì sẽ không xảy ra những vụ lợi dụng quyền
khiếu nại để xuyên tạc, chống phá Nhà nước. Nguyên tắc chân lý khách quan ảnh
hưởng nhiều đến kết quả giải quyết khiếu nại vì nếu cung cấp thông tin không chính
xác dễ dẫn đến việc giải quyết không đúng của cơ quan có thẩm quyền. Nguyên tắc
này được cụ thể hóa, được bảo đảm bởi các quy định về trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước phải thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu, về thủ tục lập biên bản, tiếp nhận hồ

sơ…đồng thời cơ quan, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm tạo mọi điều kiện

21
Điều 34 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005.
22
Điều 36 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 17

thuận lợi, phải cung cấp thông tin, tài liệu để công dân thực hiện quyền khiếu nại,
không cản trở trù dập người khiếu nại.
- Nguyên tắc công khai: Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ bảo đảm cho nguyên
tắc chân lý khách quan. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ việc khiếu nại của công dân
phải lập thành văn bản rõ ràng, ghi rõ nội dung khiếu nại cần giải quyết. Việc gặp gỡ
người dân để hòa giải, giải quyết khiếu nại phải diễn ra công khai. Các quyền và nghĩa
vụ của người khiếu nại, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại được niêm yết công khai.
Quá trình giải quyết khiếu nại phải báo cáo công khai với các cơ quan giám sát và
người dân được biết. Nguyên tắc công khai đảm bảo cho quyền khiếu nại của người
dân được thực hiện dễ dàng không bị trù dập, các vụ khiếu nại không bị che giấu.
Ngoài ra, nguyên tắc này còn giúp việc giải quyết khiếu nại đúng luật, nhanh chóng và
chính xác, giúp các cơ quan giám sát thực hiện tốt quyền giám sát đối với công tác
giải quyết khiếu nại qua đó đôn đốc và kịp thời có được những biện pháp thích hợp
cho tình hình mới.
- Nguyên tắc bình đẳng giữa các bên tham gia thủ tục giải quyết khiếu nại:
Trong thủ tục giải quyết khiếu nại các bên đều có quyền chứng minh, đưa ra các
chứng cứ, lý do cho mình, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Chẳng
hạn, người khiếu nại có nghĩa vụ trình bày về sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu một
cách trung thực, thì người bị khiếu nại có quyền đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp
của quyết định hoặc việc làm khi bị khiếu nại, kiến nghị lại cơ quan nhà nước có thẩm

quyền xem xét lại quyết định của cơ quan đã giải quyết. Nguyên tắc này còn được thể
hiện cụ thể trong quy định về thủ tục giải quyết khiếu nại là người giải quyết khiếu nại
phải gặp gỡ đối thoại trực tiếp với người khiếu nại
23
; đôi bên có quyền tự do đưa ra
những yêu cầu, căn cứ bảo vệ cho lý lẽ của mình. Nhưng suy cho cùng nguyên tắc
bình đẳng ở đây chỉ mang tính tương đối do ảnh hưởng từ vị trí của hai chủ thể: một
bên có quyền quản lý còn bên kia là bên chịu sự quản lý.
- Nguyên tắc trách nhiệm: Người khiếu nại phải chịu trách nhiệm trước những
gì trình bày trong đơn khiếu nại, phải thực hiện quyền khiếu nại theo quy định của
pháp luật. Nếu người khiếu nại cố tình lợi dụng quyền khiếu nại để thực hiện những
hoạt động phi pháp như: tuyên truyền chống phá Nhà nước, gây rối trật tự công cộng,
vu khống…thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Bên cạnh đó thì người bị khiếu
nại cũng phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp luật mà mình đã thực
hiện và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Trong công tác
giải quyết khiếu nại thì người giải quyết phải chịu trách nhiệm trước những quyết định

23
Theo khoản 10 và 18 điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật khiếu nại tố cáo năm 2005.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 18

của mình. Tóm lại, tất cả các chủ thể trong hoạt động khiếu nại đều phải chịu trách
nhiệm trước những hành vi, quyết định của mình, như vậy sẽ đảm bảo việc khiếu nại
và giải quyết khiếu nại đạt hiệu quả.
Có thể khẳng định rằng các nguyên tắc trên có ý nghĩa quan trọng trong việc
khiếu nại và giải quyết khiếu nại đặc biệt trong lĩnh vực khiếu nại và giải quyết khiếu
nại về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Khi giải quyết khiếu nại cần nghiêm
chỉnh chấp hành đồng bộ các nguyên tắc trên, nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan

các khiếu nại. Ngoài ra, trong công tác giải quyết khiếu nại đòi hỏi phải linh hoạt, tùy
trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể để đưa ra những cách giải quyết thật thỏa đáng
làm dung hòa quyền lợi của cá nhân và xã hội.
1.4 Vai trò quyền khiếu nại của công dân trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt
không gì thay thế được của sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh và quốc phòng. Đất đai là thành phần quan
trọng cấu thành lãnh thổ của một quốc gia. Đặc biệt đối với nước ta một nước nông
nghiệp đặc thù sản xuất cây lúa nước, khoảng 80% dân số sản xuất nông nghiệp, tuy
hiện nay công nghiệp phát triển mạnh nhưng tỉ lệ người dân tham gia sản xuất nông
nghiệp vẫn còn cao. Từ đó thấy được tầm quan trọng của đất đai đối với cuộc sống
của người Việt Nam.
Các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý quy hoạch, xây dựng và
phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp. Việc đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước đưa đất nước ngày càng phát triển thì xây dựng các cơ sở hạ tầng là
điều cần thiết và cấp bách. Đất đai thì không rộng thêm, hầu hết diện tích đất hiện nay
đều đã được đưa vào khai thác vì vậy để có diện tích xây dựng các công trình phục vụ
lợi ích công cộng, phát triển kinh tế… thì Nhà nước phải thu hồi đất của người dân.
Khi Nhà nước thu hồi đất của người dân ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của
họ, chính vì thế Nhà nước đã đặt ra những quy định về việc bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư cho người có đất bị thu hồi. Bên cạnh đó để phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ
và quyền giám sát của người dân trong lĩnh vực này Nhà nước còn quy định người
dân có quyền khiếu nại khi việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư diễn ra mà
họ có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của họ. Việc quy định cho người dân có quyền khiếu nại trong lĩnh vực
này vô cùng quan trọng vì những ảnh hưởng to lớn của đất đai đối với đời sống của
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.

GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 19

người dân. Quyền khiếu nại của công dân khi Nhà nước thu hồi đất và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư có những vai trò to lớn:
- Đối với Nhà nước: Là một trong những cơ chế đảm bảo kiểm tra, giám sát
hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư. Nhờ có quy định về quyền khiếu nại của công dân mà quản lý nhà
nước trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thận trọng hơn. Giúp cho cơ
quan nhà nước phát hiện những vi phạm của cán bộ, công chức trong công tác thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thấy được những sai sót, những quy định chưa hợp
lý trong hệ thống pháp luật hiện hành từ đó có những đề xuất khắc phục kịp thời.
- Đối với xã hội: Là một trong những cơ chế phát huy dân chủ mạnh mẽ trong
xã hội. Cơ quan nhà nước có quyền quyết định thu hồi đất, đưa ra chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, thì người dân cũng có quyền khiếu nại cơ quan nhà nước
khi có những quyết định, hành vi mà người dân cho rằng xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của họ.
- Đối với cá nhân, tổ chức: Quyền khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư là công cụ đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được
hưởng khi bị thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
1.5 Mối quan hệ giữa khiếu nại và khiếu kiện trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư.
1.5.1 Mối quan hệ
Giữa khiếu nại và khiếu kiện vụ án hành chính (cụ thể là trong lĩnh vực thu hồi
đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư) có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong cùng
một vụ việc khiếu nại và khiếu kiện có cùng một đối tượng là quyết định hành chính,
hành vi hành chính về vụ việc đó. Ví dụ như khi tiến hành thu hồi đất, quyết định thu
hồi đất bị khiếu nại thì khi khiếu kiện vụ án hành chính đối tượng của khiếu kiện vẫn
xoay quanh quyết định thu hồi đất đã bị khiếu nại.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì khiếu nại là điều kiện bắt buộc của
khiếu kiện vụ án hành chính và trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư thì điều kiện bắt buộc ấy vẫn được áp dụng
24
. Có thể lý giải cho điều kiện trên bởi
những nguyên nhân sau:
- Giúp chính cơ quan đã có quyết định, hành vi bị khiếu nại xem xét lại và giải
quyết cho phù hợp, bởi trong quá trình quản lý nhà nước đôi khi các cơ quan, cá nhân
mắc phải những thiếu sót nhất định nên khi chúng ta phản ảnh trực tiếp lại với những

24
Theo điều 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 sửa đổi, bổ sung các năm 1998,
2006.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 20

chủ thể ấy thì công việc sẽ được giải quyết triệt để hơn. Khi xét xử Tòa án chỉ giải
quyết những vấn đề trong tính hợp pháp, còn giải quyết khiếu nại mặc dù luật không
quy định rõ là phải xem xét tính hợp lý nhưng thực tiễn trong giải quyết khiếu nại
người có thẩm quyền phải xem xét tính hợp lý của quyết định, hành vi bị khiếu nại vì
vậy quyền lợi của người dân được đảm bảo hơn.
- Quy định trên giúp tiết kiệm thời gian, công sức và giảm áp lực công việc cho
Tòa án. Vì khi giải quyết Tòa án phải đi xác minh thu thập thông tin lại từ đầu nếu
như vụ việc chưa trải qua khiếu nại thì rất mất thời gian và công sức. Bên cạnh đó,
nếu không quy định khiếu nại là điều kiện tiên quyết của khiếu kiện, vậy thử hỏi tất cả
khiếu nại hiện nay đều yêu cầu Tòa án giải quyết thì những vụ việc đó sẽ bị kéo dài
đến bao giờ.
Nói tóm lại, để khiếu kiện vụ án hành chính trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư thì điều kiện cần phải có là đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền về
vấn đề đó. Nhưng khi đã khiếu nại thì không nhất thiết phải diễn ra khiếu kiện vì nếu
khiếu nại đó đã được giải quyết thỏa đáng và người khiếu nại không khởi kiện thì sẽ

không xảy ra vụ kiện và vụ việc được giải quyết ổn thỏa ở giai đoạn khiếu nại.
1.5.2 Phân biệt khiếu nại với khiếu kiện
Để phân biệt hai quyền trên ta phải nắm rõ được khái niệm của chúng. Về
khiếu nại người viết không đề cập lại khái niệm mà dựa theo phần khái niệm đã trình
bày trước đó.
Khiếu kiện là một thuật ngữ rất thông dụng, được sử dụng rất nhiều trên các
phương tiện thông tin đại chúng và cả trong văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên
đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một giải nghĩa nào trong các văn bản quy phạm
pháp luật đối với từ khiếu kiện, cụ thể là Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính năm 1996 đã sửa đổi, bổ sung các năm 1998, 2006 sử dụng thuật ngữ khiếu kiện
rất nhiều nhưng lại không giải nghĩa như đã làm với các thuật ngữ khác. Có quan
niệm cho rằng “khiếu kiện hành chính” được sử dụng để chỉ hai hoạt động, hai sự kiện
pháp lý là khiếu nại hành chính và khởi kiện vụ án hành chính
25
. Theo quan niệm của
người viết khiếu kiện là: khởi kiện vụ án ra Tòa án về vụ việc đã khiếu nại.
Với khái niệm trên, dựa vào một số tiêu chí sau người viết phân biệt giữa khiếu
nại và khiếu kiện trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như sau:



25
TS Nguyễn Thanh Bình: Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành chính của Tòa án, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, 2004,
tr.21.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 21


Khiếu nại Khiếu kiện

Đối tượng
Quyết định hành chính cá biệt,
hành vi hành chính cụ thể
trong thu hồi đất và bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư.
Quyết định hành chính cá biệt,
hành vi hành chính cụ thể thuộc
khoản 17 điều 11 Pháp Lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành
chính năm 1996 sửa đổi, bổ
sung năm 2006 và phải khiếu
nại rồi.
Thẩm quyền
giải quyết
Chủ thể ban hành quyết định,
thực hiện hành vi hoặc cấp
trên của chủ thể ấy.
Tòa hành chính (Tòa án nhân
dân).
Thủ tục
Theo thủ tục hành chính Theo thủ tục tố tụng hành chính
Thời hiệu
90 ngày đối với quyết định
hành chính, hành vi hành
chính của chủ tịch UBND cấp
huyện. 30 ngày đối với quyết
định hành chính, hành vi hành
chính của chủ tịch UBND cấp
tỉnh
26

.
45 ngày từ ngày nhận được
quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu
27
.
Chủ thể
Gồm người khiếu nại và người
bị khiếu nại.
Đương sự, người bảo vệ quyền,
lợi ích của đương sự, người làm
chứng.

Khi so sánh giữa quyền khiếu nại và khiếu kiện của công dân ta thấy được sự
khập khiễng trong cơ sở pháp lý của hai quyền. Quyền khiếu nại được ghi nhận từ rất
sớm và được Hiến pháp quy định cụ thể; được văn bản luật thể chế hóa. Đối với khiếu
kiện thì văn bản pháp lý cao nhất và ghi nhận cụ thể nhất là Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính. Từ đó, khẳng định tầm quan trọng về quyền khiếu nại của
công dân trong công tác quản lý nhà nước, có thể nói khiếu nại là hoạt động thiết thân
với quản lý nhà nước.

26
Điều 63, 64 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
Nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
27
Điểm c khoản 2 điều 30 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 sửa đổi, bổ sung năm
2006.
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.

GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 22

Tóm lại, việc thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ảnh hưởng lớn đến
đời sống của người dân nên việc quy định công dân có quyền khiếu nại trong lĩnh vực
này là vô cùng quan trọng, là công cụ bảo vệ quyền lợi của người dân mà họ được
hưởng khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Chính vì
vậy, việc phát huy quyền khiếu nại của công dân trong lĩnh vực này cần được Nhà
nước quan tâm đúng mức, còn người dân thực hiện quyền khiếu nại của mình phải
đúng luật và có hiệu quả.
Qua tìm hiểu về cơ sở lý luận và lịch sử phát triển của quyền khiếu nại và công
tác giải quyết khiếu nại, chứng minh rằng khiếu nại có vị trí quan trọng trong quản lý
nhà nước và cụ thể trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Chương này đã hệ thống những cơ sở lý luận quan trọng về quyền khiếu nại, nêu lên
những đặc điểm nổi bật của khiếu nại và giải quyết khiếu nại, mối quan hệ mật thiết
giữa khiếu nại và khiếu kiện cũng như sự thiết thân của hoạt động khiếu nại trong
công tác quản lý nhà nước cụ thể là trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư. Trên nền tảng lý luận đó, người viết sẽ tập trung làm rõ những quy định của pháp
luật hiện hành và sự tác động của những quy định ấy đối với công tác giải quyết khiếu
nại trong chương tiếp theo.



















Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 23

CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ.
Luật khiếu nại, tố cáo đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung qua các năm
2004, 2005; song song đó pháp luật về thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã
liên tục thay đổi trong thời gian gần đây điển hình là sự ra đời của Nghị định
69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009. Những thay đổi, bổ sung ấy đã mang lại
hiệu quả nhất định, đặc biệt là sự chuyển biến trong công tác giải quyết khiếu nại về
thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Ở chương này người viết tập trung
nghiên cứu những quy định của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại theo
quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo, qua đó đối chiếu với những quy định về
khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Trong phạm vi phân tích những quy định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong thu
hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, người viết tìm hiểu những quy định của
pháp luật hiện hành, so sánh giữa các Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Nghị định
197/2004/NĐ-CP, Nghị định 84/2007/NĐ-CP và Nghị định 69/2009/NĐ-CP từ đó
phân tích những ưu điểm và hạn chế trong quy định hiện nay. Những khiếu nại về giá
đất khi bồi thường, số tiền hỗ trợ, những vấn đề về khu tái định cư luôn chiếm tỉ lệ cao
trong những năm gần đây cụ thể là theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường

chiếm 98,9% tổng lượng đơn thư khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
28
. Sự ra đời của
Nghị định 69/2009/NĐ-CP có những thay đổi rất đáng kể về công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư trong thu hồi đất như thay đổi về: giá đất khi bồi thường, hỗ trợ, về tái
định cư…Vì vậy, khi nghiên cứu những điểm mới của Nghị định 69/2009/NĐ-CP
người viết sẽ đánh giá sự tác động của những quy định ấy đối với công tác giải quyết
khiếu nại. Khi phân tích thấu đáo những vấn đề trên, sẽ có được những phương hướng
hoàn thiện nhằm làm giảm và giải quyết tốt các vụ khiếu nại trong thời gian tới.
2.1 Quy định của pháp luật về thu hồi đất.
2.1.1 Các trường hợp thu hồi đất và thẩm quyền thu hồi đất.
2.1.1.1 Các trường hợp thu hồi đất.
Thu hồi đất là việc chuyển đổi quyền sử dụng đất từ một chủ thể đang sử dụng
sang một chủ thể khác. Theo quy định của pháp luật hiện hành thu hồi đất có rất nhiều
lý do như: do quy hoạch xây dựng, người sử dụng tự nguyện trả đất, người sử dụng

28
/>seaction=3&articleid=2659


Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 24

đất vi phạm pháp luật đất đai,… nhưng trong phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ tập trung
vào trường hợp thu hồi đất có đặt ra vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nghĩa là
trường hợp Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế theo quy hoạch đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt.
* Cơ sở pháp lý về thu hồi đất: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất

đai…Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài…”
29
. Như
vậy việc giao đất cho người dân sử dụng có cơ sở hiến định. Việc thu hồi đất ảnh
hưởng rất nhiều đến cuộc sống của họ như đã phân tích ở chương đầu, cũng để tương
xứng với cơ sở pháp lý khi giao đất thì cơ sở để thu hồi đất phải được Hiến pháp quy
định. Tuy nhiên, trong Hiến pháp việc quy định Nhà nước có quyền thu hồi đất sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và mục
đích phát triển kinh tế là chưa được đề cập đến. Hiện nay cơ sở pháp lý cao nhất của
hoạt động thu hồi đất là điều 38 Luật đất đai năm 2003, đối với phạm vi nghiên cứu đề
tài thì cơ sở chỉ là khoản 1 điều 38 Luật đất đai năm 2003. Qua đó thấy rằng cơ sở
pháp lý của hoạt động thu hồi đất còn thấp, chưa tương xứng với tầm quan trọng của
hoạt động. Bên cạnh đó, từ khoản 2 đến khoản 12 điều 38 Luật đất đai năm 2003 cũng
quy định những trường hợp thu hồi đất do chủ thể sử dụng không còn nhu cầu hoặc vi
phạm pháp luật. Ngay trong cùng một điều luật mà chúng ta gộp chung tất cả những
trường hợp Nhà nước thu hồi đất là không công bằng đối với những chủ thể bị thu hồi
mà họ rất có nhu cầu sử dụng và không vi phạm pháp luật. Qua phân tích, ta thấy
trường hợp thu hồi đất theo quy định tại khoản 1 điều 38 Luật đất đai năm 2003 có
đặc điểm là: chủ thể sử dụng hợp pháp, không vi phạm pháp luật, Nhà nước chuyển
dịch trái với ý muốn của họ nên rất dễ hình thành một định hướng tiêu cực trong suy
nghĩ của những người có đất bị thu hồi. Vì vậy, cần quy định những cơ sở pháp lý thật
chặt chẽ, những chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hợp lý cho vấn đề thu hồi
đất trong trường hợp người sử dụng không vi phạm pháp luật.
* Các trường hợp thu hồi đất: để lý giải cho trường hợp chủ thể bị thu hồi
đất không vi phạm pháp luật đất đai thì căn cứ vào mục đích thu hồi đất chúng ta có
hai nhóm lý do chính đó là:
- Nhóm 1: Thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng
30
.


29
Trích dẫn điều 18 Hiến Pháp năm 1992.
30
Các trường hợp cụ thể quy định tại điều 39 Luật đất đai năm 2003 và khoản 1 điều 36 Nghị định
181/2004/NĐ-CP:
a) Sử dụng đất cho mục đích quốc phòng, an ninh,
Đề tài: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -
thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang.
GVHD: Ts. Phan Trung Hiền SVTH: Châu Hoàng Thân 25

- Nhóm 2: Thu hồi đất sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế
31
. Theo quy
định pháp luật hiện hành có các trường hợp sau:
* Các trường hợp do Nhà nước thu hồi
32
:
+ Sử dụng đất để đầu tư xây dựng khu công nghiệp quy định tại điều 90
Luật đất đai, khu công nghệ cao quy định tại điều 91 Luật đất đai, khu kinh tế quy
định tại điều 92 Luật đất đai;
+ Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư có nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA);
+ Sử dụng đất để thực hiện dự án có một trăm phần trăm vốn đầu tư nước
ngoài đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc cho phép đầu tư mà
dự án đó không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
+ Thực hiện các dự án phát triển kinh tế quan trọng, khu dân cư, phát triển
kinh tế trong khu đô thị khu dân cư nông thôn
33
.

* Trường hợp do chủ đầu tư thỏa thuận với dân: do các dự án không rơi
vào những quy định nêu trên, do nhà đầu tư chọn phương thức tự thỏa thuận hoặc do
chủ đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền
sử dụng đất của người sử dụng đất. Hiện nay nếu phương thức thu hồi này diễn ra tốt
đẹp thì quyền lợi các bên đều được đảm bảo. Tuy nhiên trên thực tế phương thức này
rất khó thực hiện vì:
- Một dự án thường có nhiều chủ đầu tư nên việc thống nhất chọn phương thức
tự nguyện là khó thực hiện. Song song đó do nguồn lực tài chính của nhà đầu tư khác
nhau nên vấn đề huy động một lượng tiền lớn ngay từ đầu để giải phóng mặt bằng lại
càng khó hơn.
- Người dân có khi không chịu thương thảo hoặc đưa ra những điều kiện quá
cao.
* Trường hợp nhà đầu tư không thỏa thuận được với người dân: Đối với
dự án phát triển kinh tế thuộc diện Nhà nước thu hồi đất mà nhà đầu tư được chấp
thuận thực hiện theo phương thức tự thỏa thuận nhưng sau một trăm tám mươi ngày từ
ngày có văn bản chấp thuận mà còn người sử dụng đất không đồng thuận với nhà đầu

b) Sử dụng đất làm nghĩa trang, nghĩa địa,
c) Sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo,

31
Theo điều 40 Luật đất đai năm 2003.
32
Theo khoản 2 điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP.
33
Xem chi tiết tại điều 34 Nghị định 84/2007/NĐ-CP.

×