Tản mạn về cán cân thanh toán Việt Nam
năm 2009
TS. Trương Quang Thông (*) Đại học Kinh tế TPHCM
TBKTSG) - Trong khi suy nghĩ về những số liệu kinh tế vĩ mô Việt Nam của năm 2009
sắp kết thúc, chúng ta vẫn phải tự hỏi: có hay không những mầm mống bất ổn có thể gây
bất lợi cho mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững mà Việt Nam mong muốn?
Các phân tích về cán cân vãng lai Việt Nam
Chúng tôi bắt đầu từ các số liệu của cán cân thanh toán Việt Nam trong khoảng thời gian
2005-2009. Nguồn dữ liệu chúng tôi lấy từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), do những dữ liệu
khả dụng, công khai từ các cơ quan Việt Nam còn manh mún và không đầy đủ. Một số chỉ
tiêu có thể có những sai lệch so với các số liệu công bố của các cơ quan hữu quan của Việt
Nam, thế nhưng, đôi khi những sự sai lệch đó vẫn có thể trở thành một chủ đề thảo luận
nào đó.
Từ bảng số liệu của IMF, chúng ta nhận thấy, thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam
gia tăng rất nhanh qua các năm. Trong khi IMF dự báo mức thâm hụt cán cân thương mại
năm 2009 là 7 tỉ đô la Mỹ trong bối cảnh suy thoái kinh tế, thì thông tin trong tháng
11-2009 cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ước tính con số đó cho cả năm 2009 là 11 tỉ
đô la Mỹ.
Nếu như trong các năm 2005-2006, kiều hối (chiếm hơn 90% khoản mục “Chuyển giao”)
đã vượt quá nhu cầu cần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại, làm giảm nhẹ đáng kể thâm
hụt của cán cân vãng lai, thì nay, tình hình trên đã trở nên xấu hơn nhiều trong năm 2009.
Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TPHCM cho biết, trong 10 tháng đầu năm,
lượng kiều hối nhận được tại các ngân hàng trên địa bàn vào khoảng 2,6 tỉ đô la Mỹ, chỉ
bằng 60% so với cùng kỳ năm ngoái. Chúng ta biết rằng, TPHCM là nơi nhận gần 60%
tiền kiều hối cả nước. Con số kiều hối cả nước nhận được trong năm 2009 được giới
chuyên môn ước tính sẽ xấp xỉ 6 tỉ đô la.
Kết hợp với nguồn số liệu của IMF, nếu như các luồng tiền ròng về dịch vụ và thu nhập
của năm 2009 không đổi so với năm 2008 (thâm hụt xấp xỉ 4,2 tỉ đô la) thì với thâm hụt
thương mại ước tính 11 tỉ đô la, sau khi trừ đi 6 tỉ đô la kiều hối, thì thâm hụt cán cân vãng
lai có thể ước tính ở mức 9-10 tỉ đô la Mỹ cho năm 2009.
Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nợ nước ngoài của Việt Nam
Theo lý thuyết, cán cân vãng lai là một trạng thái lý tưởng để diễn tả quan hệ nợ nần của
một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nếu cán cân vãng lai thặng dư, thì chúng ta nợ
nước ngoài ít hơn nước ngoài nợ chúng ta, và ngược lại. Thâm hụt cán cân vãng lai có thể
được bù đắp bằng thặng dư của cán cân vốn, trong đó, chúng ta mong muốn rằng, với mục
tiêu ổn định và cân bằng kinh tế vĩ mô, những nguồn bù đắp đó phải là những nguồn dài
hạn và ổn định.
Trong bối cảnh Việt Nam, đó chính là các nguồn FDI và những khoản vay dài hạn nước
ngoài. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI giải ngân trong 11 tháng đầu năm là 9 tỉ đô
la Mỹ, bằng 89,6% so với cùng kỳ năm 2008. Mức 10 tỉ đô la là kỳ vọng cho tổng giải
ngân FDI năm 2009 tại Việt Nam. Trong khi chúng tôi không có số liệu nào về vốn đầu tư
gián tiếp, và với giả định rằng mức 10 tỉ đô la giải ngân FDI là có thể đạt được trong năm
2009, thì luồng tiền FDI gần như đã bù đắp được thâm hụt trong năm của cán cân vãng lai.
Mức bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai còn cao hơn do Việt Nam ngày càng mang nợ nhiều
hơn. Đồ thị bên dưới diễn tả mức chênh lệch ròng giữa rút vốn và tổng trả nợ các khoản nợ
chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh trong các năm 2004-2008, qua đó, chúng ta có thể
thấy mức chênh lệch ròng có xu hướng ngày càng dãn rộng ra. Hàng năm, nước ta vay nợ
nhiều hơn là trả nợ. Chênh lệch ròng năm 2008 đã vượt qua con số 2 tỉ đô la Mỹ.
Giả định rằng con số đó không đổi trong năm 2009, cộng với các khoản nợ “đột xuất” phát
sinh trong năm 2009 là 2 tỉ đô la Mỹ (vay của ADB, Ngân hàng Thế giới và Nhật Bản), thì
luồng tiền ròng từ vay nợ nước ngoài có thể lên đến 4 tỉ đô la Mỹ. Cuối cùng, bỏ qua việc
nhầm lẫn và bỏ sót, trong khi chưa có dữ liệu gì về nguồn vốn đầu tư gián tiếp cũng như
các luồng vốn ngắn hạn khác, thì con số 4 tỉ đô la đó có thể tạm xem như là thặng dư của
cán cân tổng thể (?!)
Thế nhưng, tại sao trong kỳ họp Quốc hội vừa qua (tháng 10, 11-2009), Chính phủ đã dự
báo mức thâm hụt cán cân tổng thể năm 2009 có thể lên đến con số 1,9 tỉ đô la Mỹ?
Về mặt kỹ thuật, theo chúng tôi, có thể có những vấn đề sau đây:
- Như trên đã nói, các giả định và tính toán phía trên của chúng tôi vẫn chưa đề cập đến
những chu chuyển tài chính ngắn hạn có thể gây ra những thâm hụt nặng nề hơn cho cán
cân tổng thể. Chúng ta chưa có dữ liệu gì về các luồng vốn đầu tư gián tiếp và cả những
luồng vốn ngắn hạn cho năm 2009.
Theo IMF, cán cân thanh toán Việt Nam đã ghi nhận một mức thặng dư kỷ lục của đầu tư
gián tiếp lên đến 6,2 tỉ đô la Mỹ trong năm 2007. Ghi nhận và quản lý các luồng vốn gián
tiếp vẫn còn là một vấn đề chưa được giải quyết rốt ráo hiện nay ở Việt Nam. Cũng theo
IMF, trong năm 2008 Việt Nam đã chứng kiến một mức thâm hụt 400 triệu đô la Mỹ đối
với đầu tư gián tiếp. Có hay không những luồng vốn đầu tư gián tiếp tiếp tục đảo chiều
trong năm 2009 và chúng diễn ra với mức độ nào? Đó chính là một câu hỏi lớn vẫn còn
chờ lời giải đáp.
- Vẫn còn những tranh luận về mức độ chính xác của số liệu về các khoản giải ngân FDI
hàng năm, đặc biệt là bản chất của các nguồn giải ngân. Xin đơn cử một ví dụ sau đây.
Một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam có mức vốn đầu tư 100 triệu đô la
Mỹ, trong đó, công ty mẹ chỉ cấp một số vốn điều lệ 20 triệu đô la. Phần còn lại phải đi
vay trung dài hạn ngân hàng thông qua bảo lãnh của chính công ty mẹ.
Giả sử doanh nghiệp FDI đó vay số tiền 80 triệu đô la từ một ngân hàng 100% vốn nước
ngoài tại Việt Nam và việc giải ngân được thực hiện bằng chuyển khoản, từ tài khoản của
ngân hàng đó mở tại New York, về tài khoản vốn chuyên dùng (Capital Account) của
doanh nghiệp mở tại ngân hàng cho vay tại Việt Nam. Bản chất của giao dịch vay vốn trên
không hề làm gia tăng quỹ ngoại hối cho nền kinh tế Việt Nam, vì thực chất, đó là giao
dịch giữa người cư trú - người cư trú. Đúng là tiền từ nước ngoài chuyển về cho giải ngân
FDI, nhưng không phải là một luồng tiền được ghi nhận vào cán cân thanh toán.
- Cũng như vậy đối với các khoản vay mượn. Chúng ta biết rằng đối với một số điều kiện
vay ODA, đặc biệt là vay tín dụng xuất khẩu (Export Credit), một tỷ lệ giải ngân không
nhỏ sẽ được chuyển ngân trực tiếp cho các nhà cung cấp nước ngoài (người không cư trú-
người không cư trú).
Trong một chừng mực nào đó, đối với các khoản nhập khẩu được tài trợ bằng ODA và tín
dụng xuất khẩu, thì một sự “thâm hụt” cán cân thương mại chưa chắc đã là điều xấu. Còn ở
phân tích nguồn đối ứng, các luồng vốn ODA và tín dụng xuất khẩu tạo “thặng dư” cho
cán cân vốn dài hạn chưa hẳn là một điều tốt, những luồng thặng dư thực sự, với kỳ vọng
bù đắp cho thâm hụt của cán cân vãng lai.
Thay cho lời kết
Bài viết này, tuy xoay quanh các phân tích về cán cân thanh toán quốc tế, nhưng vẫn mang
tính tản mạn. Chúng tôi hy vọng rằng nó có thể là một gạch nối cho một chủ đề sâu xa hơn,
chỉn chu hơn, đó là việc sử dụng cán cân thanh toán quốc tế như là một công cụ quan trọng
trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ và cơ chế tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước
nói riêng và Chính phủ nói chung.
Người ta tự hỏi, phải chăng những khó khăn trong tính toán, thống kê, phân tích và dự báo
những đại lượng kinh tế vĩ mô thể hiện trong bảng cán cân thanh toán là một trong những
nguyên nhân chính gây nên sự thụ động, lúng túng của các cơ quan hữu quan trong thời
gian qua trong việc điều hành chính sách tiền tệ?
Chẳng hạn, nếu như cán cân cơ bản (= cán cân vãng lai + cán cân vốn dài hạn) được dự
báo là thặng dư, thì đó chính là hàm ý của một khả năng lên giá đồng nội tệ. Thế nhưng, tại
sao cuối cùng lại là một sự thâm hụt lớn ngoài dự đoán của cán cân tổng thể, được xem là
một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc giảm giá đồng nội tệ vào những ngày
cuối tháng 11-2009?
Rõ ràng, chúng ta vẫn còn lúng túng và chồng chéo trong việc quản lý các nguồn vốn đầu
tư gián tiếp. Việc phối hợp quản lý các luồng FDI, ODA, tín dụng xuất khẩu vẫn chưa thực
sự thông suốt giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và một số
cơ quan khác.
(
*
)
Đại học Kinh tế TPHCM
Cán cân thanh toán tổng thể 2009 thâm
hụt 1,9 tỉ USD Đăng ngày: 28/10/09
Cán cân thanh toán tổng thể đã bị thâm hụt, trong khi
nguồn ngoại tệ của đất nước vẫn khá dồi dào.
Theo báo cáo của Chính phủ, việc điều hành tỷ giá và thị
trường ngoại hối chưa thật linh hoạt, dẫn đến tình trạng
găm giữ đôla, gây căng thẳng không đáng có và cán cân
thanh toán tổng thể đã bị thâm hụt, trong khi nguồn ngoại
tệ của đất nước vẫn khá dồi dào.
Nguồn: Báo cáo của Chính phủ
Theo SGTT
IMF: VIỆT NAM CẦN CẢI THIỆN CÁN CÂN THANH TOÁN, NIỀM
TIN VÀO TIỀN ĐỒNG
Tổ chức Tiền tệ Quốc tế – IMF nhận định rằng muốn đạt mức tăng trưởng kinh tế 6%
trong năm 2010, Việt Nam cần phải cải thiện cán cân thanh toán và tăng niềm tin vào tiền
đồng.
Hãng tin tài chính Bloomberg trích lời ông Benedict Bingham, trưởng đại diện cao cấp của
IMF tại Hà Nội, nói rằng mức tăng trưởng năm nay sẽ được quyết định một phần bởi cán
cân thanh toán.
Hồi tháng trước, IMF nhận định gói kích cầu kinh tế của chính phủ đã ảnh hưởng đến cán
cân thanh toán trong năm ngoái và đe dọa đến sự ổn định kinh tế của Việt Nam.
Theo ông Bingham mức thâm hụt thương mại lớn và niềm tin vào tiền đồng giảm sút, đặc
biệt là niềm tin của các nhà đầu tư Việt Nam là nguyên nhân gây nên áp lực đối với cán
cân thanh toán.
Ngân hàng nhà nước đã giảm giá tiền đồng hồi tháng 11 sau khi tỉ giá giữa các ngân hàng
và thị trường chợ đen chênh lệch tới hơn 11%.
Theo ông Johanna Chua, người đứng đầu nhóm nghiên cứu kinh tế Châu Á tại Citigroup
Inc, xuất khẩu của Việt Nam sẽ được tăng cường trong năm nay do tỉ giá cạnh tranh hơn.
Trong khi ông Bingham nhận định hồi tháng 12, hoạt động xuất khẩu đã diễn ra khá tốt
trong khi nhập khẩu giảm so với dự kiến đã giúp cải thiện tình trạng thâm hụt thương mại.
Tỉ lệ lạm phát trong tháng 12 đã tăng lên 6,52% so với mức 4,35% trong tháng 11 khi tăng
trưởng kinh tế đạt 6,9% trong quí tư.
Theo ông Bingham giới hữu trách cần theo dõi chặt chẽ tình trạng lạm phát đặc biệt là khi
giá cả hàng hóa tiếp tục duy trì ở mức cao trong năm nay.
Theo ông Bingham, mặc dù chỉ số giá tiêu dùng tăng trong thời gian gần đây, chủ yếu là do
giá gạo và xăng dầu, tuy nhiên tỉ lệ lạm phát đã hiệu chỉnh trong 3 tháng hiện ở mức 10%
là vẫn cao.
Nguồn: Bloomberg, IMF
VOA
Theo IMF, Việt Nam có thể tăng trưởng 6% trong 2010
Trong một bài phỏng vấn dành cho hãng tin Bloomberg vào hôm nay, 12/01/2010, ông
Benedict Bingham, đại diện thường trú của IMF tại Việt Nam đã tỏ ý lạc quan về
mức tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2010.
Theo đại diện IMF, mức tăng trưởng 6% trong năm nay nằm trong tầm tay của Việt Nam,
nếu chính quyền cải thiện được cán cân thanh toán và tăng cường được lòng tin của mọi
giới vào đồng tiền Việt Nam.
Hãng Bloomberg cho biết, vào năm 2009 vừa kết thúc, tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam chỉ
đạt 5,3%, mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Việt Nam đã bị thâm thủng mậu dịch hơn