Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động đến các nền kinh tế mới nổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 115 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, các nền
kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nhân tố bên ngoài. Càng gia nhập sâu
rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì các nền kinh tế càng chịu ảnh
hưởng lớn bởi các yếu tố đó.
Nền kinh tế thế giới đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với các cuộc
phát triển thăng hoa cũng như các cuộc suy thoái, đại suy thoái. Một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc suy thoái, đại suy thoái đó là
các cuộc khủng hoảng tài chính nội tại của một nền kinh tế hoặc do chịu ảnh
hưởng dây chuyền từ các nền kinh tế khác trong khu vực hay trên thế giới.
Trong thời gian gần đây, kinh tế thế giới đang hứng chịu một cuộc
khủng hoảng tài chính lớn đang lan rộng ra toàn cầu. Người ta chưa biết cuộc
khủng hoảng này sẽ gây ra những hậu quả lớn tới mức nào và khi nào sẽ dừng
lại. Thậm chí Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) trong một bài phát
biểu thời điểm đầu tháng 10-2008 đã bày tỏ lo ngại sẽ diễn ra đại suy thoái
kinh tế toàn cầu. Và cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan sang các nước
Tây Âu, Nhật Bản và trở thành khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tác động của
cuộc khủng hoảng trong ngắn hạn và dài hạn là hết sức to lớn.
Nền kinh tế thế giới nói chung và các nền kinh tế mới nổi nói riêng
đang đứng trước những khó khăn to lớn do chịu tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Để giúp nền kinh tế đứng
vững và có thể bước ra khỏi khủng hoảng tài chính và rơi vào suy thoái, mỗi
quốc gia cần phải có một chiến lược và những bước đi đúng đắn. Muốn vậy,
chúng ta cần nắm vững được bản chất vấn đề này, tìm hiểu nguyên nhân,
những dấu hiệu cảnh báo, diễn biến và các giải pháp ngăn chặn khủng hoảng,
ngăn chặn suy thoái. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, em xin lựa chọn đề tài
-1-
“Khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động đến các nền kinh tế mới
nổi” làm chủ đề nghiên cứu nhằm tìm ra các nguyên nhân, thực trạng và đề
xuất các giải pháp điều chỉnh đối với nền kinh tế phù hợp với tình hình hiện


nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm ra nguyên nhân, diễn biến, và tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính hiện nay.
- Rút ra bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đối phó và ngăn chặn cuộc khủng
hoảng tài chính đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế mới nổi
nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Nghiên cứu thực trạng nền kinh tế của các nước khu vực Đông Á mới
nổi. Cụ thể là 10 quốc gia trong Hiệp hội các nước Đông nam á (ASEAN);
Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa; Hồng Kông,Trung Quốc; Cộng Hoà Hàn
Quốc; Đài Bắc, Trung Quốc và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu tới các nền kinh tế này.
- Nghiên cứu kinh nghiệm khắc phục cuộc khủng hoảng tài chính năm
2008 và các biện pháp điều chỉnh kinh tế - tài chính của các nước trên thế giới
hiện nay.
- Nghiên cứu đề xuất giải pháp điều chỉnh chính sách kinh tế - tài chính
đối với nền kinh tế Đông Á mới nổi .
-2-
4. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp tiếp cận thu thập thông tin, tác giả sử dụng cách tiếp
cận phân tích và tổng hợp, hệ thống và cấu trúc nhằm tập hợp những nguồn
thông tin đa dạng và phong phú.
Về phương pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp tư duy logic, phương pháp
khảo nghiệm tổng kết thực tiễn để nghiên cứu đánh giá và đề xuất giải pháp.
5. Kết cấu của khoá luận
Phù hợp với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên,
ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khoá luận được kết cấu thành 3

chương như sau:
CHƯƠNG 1. Một số vấn đề lí luận về khủng hoảng tài chính và nền
kinh tế mới nổi.
CHƯƠNG 2. Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính đến nền kinh tế thế
giới và các nền kinh tế Đông Á mới nổi
CHƯƠNG 3. Một số giải pháp khắc phục khủng hoảng tài chính đối
với các nền kinh tế Đông Á mới nổi
Do những hạn chế về thời gian, trình độ và điều kiện tiếp cận các
nguồn tài liệu tham khảo của người viết nên khoá luận chắc chắn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những lời chỉ bảo,
những ý kiến đóng góp và phê bình của các thầy, cô giáo để khoá luận được
hoàn chỉnh hơn.
Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn Ts. Trịnh Thị Thu Hương đã
hướng dẫn và có những ý kiến đóng góp quý báu để em hoàn thiện khoá luận
này.
-3-
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH VÀ NỀN KINH TẾ MỚI NỔI
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH
1. Khái niệm khủng hoảng tài chính
1.1. Lý luận của Mác về khủng hoảng kinh tế chu kỳ
Khủng hoảng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng kinh
tế mất ổn định kéo dài mà không điều chỉnh được của quá trình tái sản xuất
trong nền kinh tế gây ra những chấn động và hậu quả kinh tế xã hội trong quy
mô rộng hoặc hẹp. Khủng hoảng kinh tế diễn ra trong mọi lĩnh vực của nền
sản xuất xã hội trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất.
Khủng hoảng kinh tế chu kỳ gồm có 4 giai đoạn:
- Khủng hoảng: đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ kinh tế. Khủng
hoảng đã phá huỷ nghiêm trọng lực lượng sản xuất, người lao động thất

nghiệp đông đảo, đời sống hết sức khó khăn.
- Tiêu điều: Là giai đoạn tiếp sau của khủng hoảng. Đặc điểm giai đoạn
này, sản xuất không tiếp tục giảm sút nữa nhưng cũng không tăng lên, nền sản
xuất ở trạng thái trì trệ.
- Phục hồi: là giai đoạn tiếp nối với giai đoạn tiêu điều. Nền kinh tế từ
tiêu điều chuyển sang phục hồi và bắt đầu phát triển. Sản xuất được mở rộng
đạt mức trước khủng hoảng. Số người làm việc tăng lên, giá cả hàng hoá cũng
tăng lên, lợi nhuận thu được cũng tăng, nền kinh tế bước sang giai đoạn mới,
giai đoạn hưng thịnh.
-Hưng thịnh: là giai đoạn phát triển cao nhất của chu kỳ kinh tế. Ở giai
đoạn này cung cầu về hàng hoá tăng lên, sản xuất mở rộng và phát triển vượt
mức cao nhất của chu kỳ trước.Và giai đoạn này lại tạo điều kiện cho một
cuộc khủng hoảng mới bắt đầu và chín muồi.
-4-
1.2. Lý thuyết chung về khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của
nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình.
Khủng hoảng tài chính được định nghĩa là tình huống khi tài sản nợ của
một bộ phận lớn các tổ chức tài chính cao hơn giá trị thị trường của tài sản có
dẫn tới việc rút tiền một cách hoảng loạn làm cho một số tổ chức tài chính sụp
đổ và chính phủ phải đứng ra can thiệp. Như vậy, thuật ngữ khủng hoảng đề
cập tới tình huống nợ quá hạn gia tăng, thua lỗ nặng (do biến động của tỷ giá
hay lãi suất hoặc do các nghĩa vụ nợ ngoại bảng…) và giá trị tài sản có giảm
gây ra các vấn đề về mất khả năng chi trả trong hệ thống tài chính và dẫn đến
việc thanh lý, sát nhập hay cơ cấu lại các khu vực kinh tế. Khủng hoảng
thường xảy ra khi nền kinh tế bị chấn động. Khủng hoảng gây ra suy thoái
kinh tế và làm tình trạng cán cân thanh toán trở nên trầm trọng hơn.
Một số dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là:
- Các ngân hàng thương mại không hoàn trả được các khoản tiền gửi
của người gửi tiền.

- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng
không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
2. Đặc điểm và biểu hiện của khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là hiện tượng rất phức tạp. Nó bao hàm cả ba
loại hình khủng hoảng: (i) Khủng hoảng ngân hàng, (ii) Khủng hoảng tiền tệ,
và (iii) Khủng hoảng nợ nước ngoài.
Để hiểu rõ hơn về khủng hoảng tài chính, chúng ta tiếp tục xem xét
những đặc điểm và biểu hiện của nó:
-Thứ nhất: khủng hoảng tài chính nổ ra, làm cho đồng tiền của quốc gia
mất giá hàng chục phần trăm, thậm chí hàng trăm phần trăm, các khoản nợ
-5-
xấu tăng lên nhanh chóng có thể chiếm tới hàng chục phần trăm tổng mức cho
vay.
-Thứ hai: song song với việc mất giá đồng tiền là sự sụt giảm của thị
trường chứng khoán, chỉ số chứng khoán liên tục giảm, nhất là khi có dấu
hiệu bất ổn về tình trạng hoạt động của các công ty bất dộng sản và các tổ
chức tài chính.
-Thứ ba: khủng hoảng tài chính nổ ra đẩy nền kinh tế quốc gia vào thời
kỳ suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP giảm sút nặng nề.
Ngoài ra khủng hoảng tài chính còn có thể làm xấu đi các thông số kinh
tế cơ bản như sau: thâm hụt cao hơn về cán cân thương mại, cán cân tài khoản
vãng lai, ngân sách chính phủ, lạm phát gia tăng, tình trạng thất nghiệp trở
nên trầm trọng…
3. Các hình thức của khủng hoảng tài chính
Không phải tất cả các cuộc khủng hoảng tài chính đều giống nhau cho
dù đa phần các biểu hiện bề ngoài là có vẻ như nhau. Căn cứ vào các đặc
điểm chính của các cuộc khủng hoảng, người ta đề cập tới năm hình thức chủ
yếu của khủng hoảng tài chính mà trên thực tế có thể thấy trong bất cứ giai
đoạn nào:

3.1. Khủng hoảng phát sinh do chính sách kinh tế
Theo mô hình chính thức của Krugman (1953), nhà kinh tế học người
Hoa Kỳ, giáo sư của Đại học Princeton, một cuộc khủng hoảng về cán cân
thanh toán (mất giá tiền tệ, giảm mạnh tỷ giá hối đoái cố định) xuất hiện khi
sự mở rộng tín dụng trong nước của ngân hàng trung ương không phù hợp với
tỷ giá hối đoái cố định. Mà sự mở rộng này thường là kết quả của quá trình
chuyển hoá các khoản thâm hụt ngân sách của chính phủ thành tiền. Dự trữ
ngoại hối giảm dần cho tới khi ngân hàng trung ương có thể bị rút tiền ồ ạt và
bất ngờ. Điều này cuối cùng dẫn tới những khoản dự trữ còn lại bị cạn kiệt và
nền kinh tế bị đẩy vào tình trạng tỷ giá thả nổi.
-6-
3.2. Hoảng loạn tài chính
Theo mô hình của Dybvig Diamond (1983) về sự đổ xô đi rút tiền ở
ngân hàng, sự hoảng loạn về tài chính trong trường hợp cả những cân bằng
phức trong các thị trường tài chính. Sự hoảng loạn là kết quả của trạng thái
cân bằng bất lợi trong đó những chủ nợ ngắn hạn đột nhiên rút lại các khoản
cho vay từ một người vay có khả năng thanh toán. Nhìn chung, cơn hoảng
loạn có thể xảy ra khi xuất hiện ba điều kiện:
+ Các khoản nợ vượt quá tài sản ngắn hạn.
+ Không một chủ nợ nào trong thị trường tư nhân đủ lớn để cung cấp
tất cả các khoản tín dụng cần thiết trả cho các khoản nợ ngắn hạn hiện còn
tồn.
+ Không có người cho vay cuối cùng nào.
Trong trường hợp này, cũng là hết sức hợp lý khi mỗi một chủ nợ rút
tín dụng của mình nếu các chủ nợ khác cùng rút vốn từ người vay, cho dù
trước đây mỗi chủ nợ thường sẵn sàng cho vay nếu những chủ nợ khác cũng
làm như vậy. Cơn hoảng loạn này có thể gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế
(ví dụ như sự tạm ngừng sớm các dự án đầu tư, thanh lý công ty vay nợ, sự
rút tiền hàng loạt của các chủ nợ…).
3.3. Bong bong vỡ

Theo Blanchard và Watson (1982) cùng nhiều học giả khác, "bong
bóng" về tài chính ngẫu nhiên diễn ra khi những kẻ đầu cơ mua một tích sản
tài chính cao hơn giá trị thật của nó với hy vọng thu được lợi nhuận sau đó.
Trong từng giai đoạn, “bong bóng” này (được xác định là mức chênh lệch
giữa giá bán và giá gốc của tích sản) có thể phồng to hoặc có thể vỡ hoàn
toàn. Sự tan vỡ này, khi xảy ra không hề được mong đợi song không phải là
không thể biết trước được vì các đối tác của thị trường nhận biết được “bong
bóng” và phạm vi ảnh hưởng của sự vỡ “bong bóng” này.
-7-
“Bong bóng” vỡ ở mức độ rộng và nghiêm trọng gây ra các tác động
hết sức sâu sắc tới nền kinh tế: làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp trực
tiếp tham gia đầu cơ, làm thiệt hại nặng nề cho các doanh nghiệp liên quan tới
thị trường “bong bóng”, cho các nhà đầu tư, tài trợ, đặc biệt là hệ thống ngân
hang gây rối loạn thị trường tài chính và nền kinh tế.
3.4. Khủng hoảng rủi ro tinh thần
Theo Akerlof và Romer (1996), khủng hoảng rủi ro tinh thần xảy ra do
các ngân hàng có thể vay tiền mặt trên cơ sở những đảm bảo nguồn cho các
khoản nợ của ngân hàng. Nếu các ngân hàng bị thiếu vốn hoặc thiếu sự điều
tiết thì họ sẽ dùng những vốn tiền mặt này vào các hoạt động kinh doanh đầy
rủi ro hoặc thậm chí mang tính chất tội phạm. Hai học giả trên đây cho rằng,
vấn đề kinh doanh phi pháp, trong đó các ngân hàng dùng hậu thuẫn của nhà
nước dành cho để “ăn cắp tiền gửi” trên thực tế xảy ra phổ biến hơn mức
người ta tưởng và nó đã đóng “một vai trò lớn” trong khủng hoảng về tiết
kiệm và vay nợ của Mỹ.
3.5. Tình trạng hỗn loạn hay khủng hoảng “gánh nặng nợ”
Theo Sachs (1995), hiện tượng hỗn loạn trên xảy ra khi một bên vay nợ
phá sản hoặc không có tiền mặt gây ra một làn sóng đòi nợ của các chủ nợ và
bên vay nợ bị buộc phải thanh lý, cho dù bên vay nợ này vẫn là một doanh
nghiệp đang hoạt động và vẫn còn có giá trị. Tình trạng hỗn loạn xảy ra, đặc
biệt khi các thị trường hoạt động không đem lại lợi ích theo sự sắp xếp giữa

các chủ nợ thông qua luật phá sản. Vấn đề này còn được gọi là "gánh nặng
nợ". Thực chất những vấn đề sắp xếp giữa các chủ nợ đã ngăn cản các hoạt
động cung cấp vốn có hiệu quả tới bên vay nợ đang gặp khó khăn về tài chính
và làm trì hoãn hoặc cản trở việc thanh toán các khoản nợ khó đòi. Đối mặt
với vấn đề “gánh nặng nợ” này không chỉ là hệ thống các doanh nghiệp hoạt
động trong nền kinh tế mà còn bao gồm cả các chính phủ.
-8-
II. NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
1. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính
Cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ hiện nay bắt nguồn từ chính sách
cho vay tín dụng dưới chuẩn (Subprime)
1
hay còn gọi là tín dụng thế chấp rủi
ro cao đối với thị trường bất động sản và việc thực thi chính sách tiền tệ nới
lỏng, "đồng USD rẻ" duy trì trong thời gian dài của chính quyền Mỹ, trong
khi thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ của chính phủ, đã dẫn đến sự hình thành
"siêu bong bóng" tài chính và bất động sản. Sự phát triển của nhiều dịch vụ và
sản phẩm tài chính mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, biến đổi các
khoản cho vay thành công cụ đầu tư, khiến thị trường tín dụng phục vụ cho
thị trường bất động sản trở thành sân chơi cho nhiều nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Trong điều kiện không có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước,
quá trình này đã tích tụ, dẫn đến châm ngòi nổ cho sự đổ vỡ đối với thị trường
tín dụng nhà đất, sau đó lan dây chuyền sang hệ thống tài chính ngân hàng
Mỹ. Chính việc phá sản của các tập đoàn như Fannie Mae và Freddie Mac và
1
Cho vay dưới tiêu chuẩn (subprime lending): là hình thức cho vay rất phổ biến, đặc biệt
tại Mỹ. Thuật ngữ “dưới tiêu chuẩn - subprime” ở đây liên quan đến vị thế tín dụng của
người cho vay. Tín dụng dưới chuẩn (subprime) là loại tín dụng thế chấp rủi ro cao đã
được các ngân hàng lạm dụng quá mức để các hộ gia đình mua bất động sản với năng lực
trả nợ của họ không cao; giá trị món vay lại tùy thuộc vào thời giá của ngôi nhà định mua.

“Những người đi vay dưới tiêu chuẩn thường có quá khứ tín dụng (tiền sử tín dụng) không
tốt, như thường có các khoản thanh toán quá hạn, và có thể có những vấn đề nghiêm trọng
như phải ra toà, phá sản. Họ cũng có thể có khả năng thanh toán thấp xét trên những tỷ số
như điểm tín dụng thấp hơn 620, chiếm gần 25% dân số Mỹ. Do uy tín của người vay thấp
và tình hình tài chính không mấy sáng sủa nên nhìn chung các khoản vay dưới tiêu chuẩn
có lãi suất cao hơn lãi suất thị trường và điều này lại càng làm tăng thêm khó khăn tài
chính cho người vay, đặc biệt khi lãi suất thị trường gia tăng.
Cho vay thế chấp nhà đất dưới tiêu chuẩn (subprime housing mortgage): là một trong
những loại hình thuộc lĩnh vực vay dưới tiêu chuẩn và đặc biệt phát triển mạnh từ đầu thế
kỉ 21, trở thành một ngành công nghiệp ở Mỹ”. Nói như vậy có nghĩa là hình thức thế
chấp nhà đất trở thành một loại hình kinh doanh đầy lợi nhuận không chỉ với ngân hàng
cho vay mà còn với cả cả dân đầu cơ địa ốc. Một điều đặc biệt là hầu hết các ngân hàng,
tổ chức tín dụng ở Mỹ cho vay dưới hình thức này đều chấp nhận đảm bảo bằng tài sản
hình thành từ vốn vay. Như vậy, trước hết ta có thể thấy nguy cơ rủi ro là rất cao do đối
tượng của nó là nhà đất - vốn thường xuyên rơi vào chu kỳ đóng băng.
-9-
các ngân hàng lớn như Lehman Brothers (ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ)
và gần đây là City Bank Group đã cho thấy rõ điều đó. Hiện nay gần 1.200
ngân hàng Mỹ nộp đơn xin trợ cấp từ Chương trình hỗ trợ của chính phủ để
tránh lâm vào khủng hoảng.
Từ khi cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ nổ ra, các nhà phân tích đã
đưa ra nhiều nguyên nhân để giải thích, trong đó một số nguyên nhân được
nhắc đến nhiều nhất là:
- Sự thay thế Đạo luật bức tường lửa Glass-Steagall bởi Đạo luật
Glamm-Leach-Bliley, cho phép các ngân hàng thương mại được tham gia vào
các lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm như nghiệp vụ chứng khoán hóa và bán
các khoản vay bất động sản khiến nhiều ngân hàng đẩy mạnh cho vay bất
động sản dưới chuẩn, nhằm thu về những khoản lợi lớn. Tuy nhiên, các ngân
hàng vẫn nắm giữ một lượng khá lớn các khoản chứng khoán phái sinh này,
một phần do không bán được, một phần do mua của ngân hàng khác nhằm đa

dạng hóa danh mục đầu tư. Các ngân hàng cho vay bất động sản thua lỗ khi
thị trường bất động sản bị vỡ bong bóng và nhiều khoản cho vay không thu
hồi được, cộng với các khoản chứng khoán bất động sản bị giảm giá không
phanh.
- Chính sách nới lỏng tiền tệ và chính sách "nhà cho người có thu nhập
thấp" của Chính phủ Mỹ với lãi suất thấp để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng.
Tín dụng bất động sản đã có sự tăng trưởng mạnh, trong đó có một phần lớn
là tín dụng dưới chuẩn.
- Thị trường bất động sản bị giảm giá, gây ra các khoản nợ xấu khổng
lồ trong hệ thống ngân hàng, trong đó phần lớn là bất động sản dưới chuẩn.
Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này
là sự suy sụp của thị trường bất động sản. Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân
khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lãi lẫn vốn trong một thời gian
dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình
-10-
trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người
ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường
giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất
động sản:
Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ,
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các
ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại
lãi suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ
cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay
thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm
2000, thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục
được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
Thứ hai, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính
phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm

dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được
thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và
Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách
mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành
các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (Mortgage-
Backed Securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt
là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho
vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị
trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng
thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó
-11-
đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng
vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm
MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát
thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng
tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi
vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành
MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay,
bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất
nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi
mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao
hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời
gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3
năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định theo thời điểm đó).
Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần được cho vay với loại lãi suất
dưới chuẩn (subprime rate).

Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho
vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160
tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007.
Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo
hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn
như Lehman Brothers.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại MBS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì
cho tới trước năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ
bong bóng. Hơn nữa, họ cũng phần nào được trấn an khi vẫn có thể mua
thong thả các hợp đồng hợp đồng hoán đổi tín dụng CDS từ các công ty bảo
hiểm và đầu tư khác. Các bảo hiểm (CDS - Credit Default Swap) nhằm bảo
-12-
đảm cho các nhà đầu tư MBS trong trường hợp những người vay tiền mua
nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì sẽ được bồi thường.
Nhiều các công ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG, đã sẵn
sàng nhảy vào để bán bảo hiểm cho các nhà đầu tư MBS, bất chấp khả năng
bảo đảm của mình.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá
bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn
năm từ 2001 (năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn
đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn
sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ
nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong
bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản.
Tuy nhiên, có lẽ đòn bẩy tài chính (cho vay đòn bẩy)
2
mới là nguyên
nhân chính của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ lần này. Đòn bẩy tài chính là
quá trình công ty sử dụng vốn vay để tài trợ cho tăng trưởng tài sản, được tính
bằng tỷ lệ tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu. Và đây chẳng qua cũng chỉ là một

khâu, mắt xích yếu nhất của hệ thống tư bản mà thôi, sự ‘bục” ra đó mới chỉ
là biểu hiện ban đầu, sự lan tỏa của nó mới là thực chất của cuộc khủng hoảng
chu kỳ.
Đòn bẩy tài chính quá cao là nguyên nhân chính cho sự ra đi của Bear
Stearns, Freddie Mac và Fannie Mae, Lehman Brothers và Merrill Lynch. Sự
sụp đổ của các định chế tài chính này là ngòi nổ của cuộc khủng hoảng, dẫn
đến sự khủng hoảng niềm tin của thị trường, dẫn đến sự hạ thấp tín nhiệm và
2
Đòn bẩy tài chính là quá trình công ty sử dụng vốn vay để tài trợ cho tăng trưởng tài
sản, được tính bằng tỷ lệ tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu. Leverage: “cho vay đầu cơ”
hay “cho vay đòn bẩy”. Trong lĩnh vực tài chính, nhà đầu tư lợi dụng vốn thông qua việc
vay tiền hoặc sử dụng các dạng vay mượn khác (công cụ phái sinh) để tăng vốn đầu tư khả
dụng. Nhà đầu tư hi vọng số vốn vay này, khi được tái đầu tư vào các công cụ tài chính, sẽ
đem lại lợi nhuận cao hơn chi phí vay vốn phải trả.
-13-
sự ra đi của AIG; dẫn đến làn sóng rút tiền cả trên phố và trên mạng gây ra
khủng hoảng thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân
hàng liên quan đến cho vay bất động sản như Wamu và Wachovia.
2. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu
hiện rõ nét nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại
những mốc sự kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như
thế nào:
Năm 2002 - 2004: Giá cả ở các bang Arizona, California, Florida,
Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
Năm 2005: “Bong bóng” thị trường nhà đất ở Mỹ vỡ tung vào tháng
08/2005. Thị trường bất động sản tạm gián đoạn ở một vài bang của Mỹ vào
cuối mùa Hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có
nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.
Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá nhà giảm,

hoạt động kinh doanh bất động sản trầm lắng dẫn đến một lượng nhà dư thừa
đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở Mỹ giữa tháng 8 giảm hơn 40% so với một
năm trước đó.
Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại
chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu
tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được
đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng
đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị
trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của
Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
-14-
Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn
kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho
vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ
- công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập
dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ
chức vào ngày 4/11.
Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang Châu Úc với
nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn
bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ
phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney.
Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:
Ngày 11/1/2008: Bank of America - Ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về
tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide
Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do
các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự
phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do

những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các
nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản
mất giá là 1,36 tỷ euro.
16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP
Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.
29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một
khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho
-15-
các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp
bất động sản
11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng
IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất
từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong
vòng 11 ngày.
31/7/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo
là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche
Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín
dụng toàn cầu.
7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền
kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac
nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để
bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
14/9/2008: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29
USD/CP sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.
15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này
mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001.
Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch

bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group (AIG) - tập
đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản
thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ
USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và
ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm
gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ
-16-
80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc
Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm
mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng
khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống.
19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ
công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó
khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính.
20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập
đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại
Phố Wall.
22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để
thâu tóm hoạt động của Lehman tại Châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại
Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua
20% cổ phần Morgan Stanley
23/9/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman
Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và
Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân
hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho
vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền

kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất
Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài
sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc
hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ
USD.
-17-
29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị
trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công
nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh
nhất từ trước tới nay.
1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ
USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo
luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân
sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo
hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD.
2.1 Tình hình khủng hoảng kinh tế Mỹ và thế giới trong thời gian qua
Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và thế giới đã có mầm mống khởi
nguồn từ trước ngày 6/8/2007 khi công ty thế chấp nhà Mỹ (American Home
Mortgage) làm đơn xin phá sản. Tiếp theo sự khởi nguồn này là nhiều ngân
hàng và công ty lâm vào khó khăn và bộc lộ rõ nét là sự sụp đổ và khó khăn
của các ngân hàng và công ty tài chính lớn và nổi tiếng ở Mỹ (Wachovia,
Washington Mutual Inc, Bear Stern, Fannie Mae, Fredie Mac, Lehman
Brothers, Merrill Lynch, Tập đoàn bảo hiểm Quốc tế Mỹ (AIG), Goldman
Sachs, Morgan Stanley…).
Bên cạnh sự sụp đổ của các tên tuổi lớn, hàng loạt các tổ chức tài chính
khác cũng đã đổ theo với các khoản nợ có liên quan tới các vụ sụp đổ nói trên
và sự giảm mạnh về giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Ngày 3/10, với
263 phiếu thuận và 171 phiếu trống, hạ viện Mỹ đã thông qua kế hoạch 700 tỷ
USD nhằm giải cứu ngành tài chính nước này thoát khỏi khủng hoảng.

Mặc dù đã có rất nhiều biện pháp của chính phủ Mỹ đã đưa ra nhưng
đến đầu tháng 11 năm 2008, các cơ quan của Mỹ đã buộc phải đóng cửa thêm
một ngân hàng nữa là Feedom Bank đưa tổng số ngân hàng bị giải thể là 17
ngân hàng. Sau đó, nhiều người dân Mỹ thi nhau xin phá sản, cụ thể là tháng
-18-
10/2008, cá nhân nộp đơn xin phá sản tăng 8% so với tháng trước (108.905
lượt người).
Các thị trường chứng khoán trên thế giới đồng loạt sụt giảm mạnh
trước diễn biến thị trường tài chính Mỹ. Đặc biệt, ngày 17/9/2008, bất chấp
nỗ lực giải cứu AIG, thị trường chứng khoán Mỹ đã có mức sụt giảm kỷ lục
do đợt bán tháo cổ phiếu được coi là tồi tệ nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
Do mức độ trầm trọng lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ,
EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nền kinh tế trên thế giới đã và đang phải
đối mặt với những tác động tiêu cực và đã có nền kinh tế lâm vào khủng
hoảng mặc dù các nước này đã phối hợp sử dụng một nguồn lực tài chính lớn
chưa từng có (tới hàng nghìn tỷ USD) và gần như tất cả các biện pháp có thể
để hỗ trợ thanh khoản và cứu hệ thống tài chính khỏi sụp đổ. Đối với Châu Á,
khủng hoảng kinh tế đã tràn vào và Inđônêxia là nước hứng chịu đầu tiên.
Tiếp theo là các nền kinh tế ở Châu Á khác cũng đang từng bước bị ảnh
hưởng ở mặt này hay ở mặt khác với mức độ nặng nhẹ khác nhau, thể hiện ở
hàng loạt thị trường chứng khoán ở Châu Á bị rơi tự do, nhiều công ty tài
chính ngân hàng khó khăn, thua lỗ và có nguy cơ phá sản. Nền kinh tế Nhật
Bản đang lâm vào khủng hoảng trong những ngày gần đây: giá chứng khoán
giảm mạnh, nhiều ngân hàng, công ty đã và đang trên bờ vực thẳm.
Như vậy cuộc khủng hoảng này đã được coi là khủng hoảng kinh tế thế
giới. Đánh giá ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế Mỹ tới thời điểm hiện nay là
rất khó, nhưng có thể thấy đây là một con số khổng lồ. Mới đó mà nhiều quốc
gia đã phải bơm ra hàng trăm tỷ USD để cứu vãn tình hình và ổn định kinh tế.
Đó là chưa kể đến những thiệt hại tiếp theo từ kinh tế suy giảm, không tăng
trưởng, rối loạn và thất nghiệp đang chờ ở phía trước. Cho tới thời điểm hiện

tại tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này đã làm thay đổi hoàn toàn
nền công nghiệp và tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu.
-19-
2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bị lún sâu vào tháng 9 năm 2008
khi một số định chế tài chính bị nổ tung, dẫn đến khủng hoảng niềm tin vào
chính hệ thống tài chính.
Khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay bắt nguồn từ khủng hoảng
cho vay thế chấp dưới chuẩn của Mỹ. Sự suy thoái chất lượng tín dụng của
các khoản vay thế chấp dưới chuẩn đã lan nhanh sang nhiều hạng mục tài sản
Có của các nhà đầu tư trên toàn cầu. Khả năng thanh khoản bị bay hơi, các thị
trường tiền tệ, tín dụng bị tác động mạnh. Khi các thị trường bị đóng băng,
các ngân hàng trung ương trên thế giới cùng hành động khẩn cấp và bơm tiền
mặt vào lưu thông. Tiếp đến là các gói cứu trợ diện rộng của chính phủ các
nước. Cuộc khủng hoảng hiện nay cũng cho thấy sự mất cân đối kinh tế vĩ mô
và tài chính trong cái vỏ ngoài tăng trưởng nhanh của nửa đầu thập kỉ này.
Khi bong bóng bất động sản của Mỹ bị nổ tung, sự xuống giá nhanh chóng
của những tài sản liên quan tới cho vay thế chấp của Mỹ dẫn tới những tác
động xấu tới bảng cân đối định chế tài chính làm giảm nền tảng vốn của họ.
Những tổn thất to lớn đối với những tài sản không có tính thanh khoản và bị
làm suy yếu đầu tiên đã gây tổn thất đối với những quĩ phòng hộ bị ảnh
hưởng mạnh. Bên cạnh đó, sự sụp đổ của hai quỹ Bear Stearns vào tháng 6
năm 2007 đã đánh dấu sự mở màn của hàng loạt những sự sụp đổ theo sau.
Cuộc khủng hoảng đã tạo nên một thảm hoạ đối với khuynh hướng trong
tháng 9/2008. Khi Lehman Brothers bị phá sản, Merrill Lynch đã bị mua bởi
ngân hàng Mỹ, và American Internation Group (AIG) đã nhận được gói cứu
trợ từ Cục dự trữ liên bang Mỹ (US Fed), tất cả các sự kiện đều diễn ra trong
vòng có vài ngày. Một số lượng các định chế tài chính bị thất bại và do vậy
những sự cứu trợ tài chính đã đưa đến những thay đổi đáng kể trong bối cảnh
tài chính toàn cầu, đòi hỏi phải có những sự can thiệp về chính sách chưa từng

có tiền lệ nhằm đối phó với khủng hoảng gia tăng.
-20-
Dưới đây khóa luận xin tóm tắt diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu:
- Sự xuống cấp trong chất lượng tín dụng của việc vay thế chấp đã lan
rộng nhanh chóng đối với các hạng mục tài sản được nắm giữ bởi hàng loạt
các nhóm nhà đầu tư trên toàn cầu. Các hệ thống ngân hàng chính trên toàn
thế giới do vậy đã gánh chịu những tổn thất liên quan tới các khoản cho vay
dưới chuẩn tới 965 tỉ $ từ tháng 7/2007.
- Khả năng thanh khoản bị bay hơi, các thị trường tiền tệ tín dụng bị tác
động mạnh:
Tình hình của các định chế tài chính rất căng thẳng. Giá các tài sản liên
quan đến cho vay thế chấp rớt mạnh. Giá cả sụt giảm cùng với các áp lực về
lãi suất, lợi nhuận và tăng vốn đã làm cho các định chế tài chính này buộc
phải bán tháo tài sản khiến cho những tài sản này lại càng bị rớt giá. Vòng
xoáy cũng gần như làm lung lay toàn bộ hệ thống tài chính. Các thị trường tín
dụng đóng băng, đã gần như đặt dấu chấm hết cho việc khôi phục giá. Tính
thanh khoản đã bị bốc hơi. Đặc biệt, cùng với sự phá sản của Lehman
Brothers và việc đóng cửa hàng loạt quỹ thị trường tiền tệ chính, những rủi ro
ngầm định gia tăng dẫn đến việc cạn kiệt tính thanh khoản đối với các thị
trường liên ngân hàng. Các ngân hàng dừng việc cho vay lẫn nhau.
- Khi các thị trường bị đóng băng, các ngân hàng trung ương trên thế
giới cùng hành động khẩn cấp và bơm tiền mặt vào lưu thông. Tiếp đến là các
gói cứu trợ diện rộng của chính phủ các nước.
Các ngân hàng trung ương chính trên thế giới đã bơm tiền vào các thị
trường tài chính với hàng loạt những điều kiện thuận lợi, nhằm phá vỡ tảng
băng của thị trường tín dụng. Các chính phủ đã nhất trí mua lại những tài sản
đang bị khó khăn, trực tiếp bơm vốn vào các ngân hàng đang gặp khó khăn,
mua hối phiếu thương mại, hay nắm giữ tạm thời vốn cổ phiếu…
-21-

- Cuộc khủng hoảng hiện nay cũng cho thấy sự mất cân đối kinh tế vĩ
mô và tài chính trong cái vỏ ngoài tăng trưởng nhanh của nửa đầu thập kỉ này:
Sự mất cân đối kinh tế vĩ mô bao gồm việc hình thành thâm hụt tài
khoản vãng lai lớn ở Mỹ và tương ứng với sự thặng dư ở những nước còn lại
trên thế giới, đáng lưu ý là Châu Á và Trung Đông. Sự vượt quá giới hạn về
tài chính trong giai đoạn này liên quan đến sự phát triển của việc gia tăng ồ ạt
những lực đẩy đòn bẩy và việc nắm giữ các rủi ro; những bong bóng trong tài
sản và thị trường vốn; sự xuống dốc trong tín dụng dưới chuẩn; và sự chèn ép
mạnh mẽ của những rủi ro lan rộng đối với hàng loạt các công cụ tài
chính.Với khủng hoảng đang bộc lộ, sự mất cân bằng đã bắt đầu trải ra khi tỉ
lệ tiết kiệm cá nhân ở Mỹ tăng đáng kể, những rủi ro là tái định giá, và lực
đẩy của đòn bẩy là giảm trở lại. Phản ứng của chính phủ Mỹ đối với khủng
hoảng tài chính cũng là hàm ý ám chỉ cho những mất cân bằng toàn cầu đáng
kể này, điều này có thể chuyển sang một tiến trình có thể nhìn thấy rõ nhiều
khó khăn và xáo động.
- Sự điều chỉnh theo hệ thống tài chính Mỹ đã lây lan sang các nước do
mức độ phụ thuộc tài chính lẫn nhau cao, kể cả do việc chuyển giao rủi ro
thông qua các sản phẩm chứng khoán hỗn hợp và tăng mạnh rủi ro:
Cầu ở Mỹ và nhiều nước trên thế giới sụt giảm. Sự bất ổn tín dụng vẫn
tiếp tục mở rộng do các nhà đầu tư vẫn đánh giá rủi ro ở mức cao. Tăng
trưởng kinh tế đang bị suy yếu, xuất khẩu giảm mạnh, hàng hoá đã bị trượt
giá mạnh mẽ từ mức đỉnh cao trong đầu năm nay.
3. Sự khác nhau giữa khủng hoảng tài chính hiện nay với cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1997
Khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 – 1998 là cuộc khủng
hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7/1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng tới các thị
trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả tài sản khác ở một vài
nước Châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là “những con hổ Đông
-22-
Á”. Cuộc khủng hoảng lúc đó còn được gọi là khủng hoảng tiền tệ Đông Á.

Một số nước như Indonesia, Hàn quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh
hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào,
Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục
Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều.
Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi cuộc khủng hoảng, song nền
kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân
mình.
Cuộc khủng hoảng tài chính của những năm 1990 là khủng hoảng cơ
cấu mang tính chất khu vực còn cuộc khủng hoảng hiện nay mang tính toàn
cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính lần này mức độ trầm trọng hơn trong bối
cảnh toàn cầu hóa, không chỉ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mà đã lan
sang các ngành sản xuất, dịch vụ và tác động ở quy mô toàn cầu, thời gian có
khả năng kéo dài hơn, do vậy việc khắc phục hậu quả sẽ khó khăn hơn.
III. ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN KINH TẾ MỚI NỔI
1. Khái niệm nền kinh tế mới nổi
Các nền kinh tế mới nổi là những nền kinh tế đang trong giai đoạn quá
độ từ nền kinh tế đang phát triển thành nền kinh tế phát triển.
Nền kinh tế đang phát triển là các quốc gia có mức sống còn khiêm tốn,
có nền tảng công nghiệp kém phát triển và có chỉ số phát triển con người
(Human Development Index - HDI) không cao. Ở các nước này, thu nhập đầu
người ít ỏi, nghèo nàn phổ biến và cơ cấu tư bản thấp. "Nước đang phát triển"
gần nghĩa với Thế giới thứ ba thường dùng trong Chiến tranh Lạnh.
Nước đang phát triển, nói chung, là các quốc gia có mức sống thấp,
chưa đạt được mức độ công nghiệp hóa tương xứng với quy mô dân số. Có
một sự tương quan chặt chẽ giữa mức thu nhập bình quân đầu người thấp với
sự gia tăng dân số nhanh chóng, kể cả giữa các quốc gia và giữa các nhóm
dân cư trong một quốc gia.
-23-
Việc áp dụng thuật ngữ nước đang phát triển cho toàn thể các nước
chưa đạt trình độ nước phát triển trong nhiều trường hợp là không thích hợp,

không ít quốc gia nghèo không hề có những cải thiện tình hình kinh tế thậm
chí là suy giảm.
Thuật ngữ "Nước đang phát triển" nhiều khi được thay thế bởi "Nước
kém phát triển", "Nước chậm phát triển", “Thế giới thứ ba”, “Nam bán cầu”,
thậm chí là "Nước kém phát triển nhất”.
Nền kinh tế phát triển là các quốc gia có tỷ lệ tổng sản phẩm quốc nội
từ các hoạt động công nghiệp cao hơn một ngưỡng nhất định.Ví dụ về các
nước được coi là nước công nghiệp, hay còn gọi là có nền công nghiệp phát
triển, là Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý, Nhật, Canada
Ở những nước công nghiệp hiện nay, mức thu nhập bình quân đầu
người thường cao so với những nước nông nghiệp. Điều này khiến nhiều
nước nông nghiệp trên thế giới muốn thực hiện công nghiệp hóa, tức là phát
triển công nghiệp có tỉ trọng cao hơn so với các ngành khác. Các nước công
nghiệp cũng thường có Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc vào loại cao,
và các quốc gia này còn hay được nhắc tới là các nước phát triển, nước tiên
tiến, hay các nước thuộc Thế giới thứ nhất.
Sự phát triển của một đất nước được đo đạc bằng các chỉ số thống kê
như tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP/người), tuổi thọ trung
bình, tỷ lệ người biết chữ, v.v. Liên hợp quốc xây dựng Chỉ số phát triển con
người, một chỉ số tổng hợp của các thống kê trên để xác định mức độ phát
triển con người ở mỗi quốc gia.
Mức độ phát triển của một xã hội bao hàm cơ sở hạ tầng hiện đại (cả về
mặt vật chất và thể chế) và sự thoát khỏi những lĩnh vực sản xuất tạo ra giá trị
gia tăng thấp như nông nghiệp và khai thác tài nguyên tự nhiên. Ở các quốc
gia phát triển, hệ thống kinh tế dựa trên sự tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững
ở những lĩnh vực dịch vụ, giáo dục, nghiên cứu phát triển, thông tin, v.v Các
-24-
quốc gia có sự tiến bộ vượt trội các nước đang phát triển nhưng chưa với tới
trình độ các nước phát triển được đưa vào nhóm nước công nghiệp hóa mới.
2. Tiêu chí đánh giá nền kinh tế mới nổi

Căn cứ để xếp loại gồm: tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tính theo đầu
người, tốc độ tăng trưởng hàng năm, tỉ trọng các ngành công nghiệp chế biến
và chế tạo trong tổng sản phẩm quốc dân, khối lượng và tỉ trọng hàng công
nghiệp xuất khẩu, tổng số vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Tuy nhiên, cho đến nay, những tiêu chuẩn để phân loại chỉ là ước lệ,
chưa có quy định cụ thể của Liên hợp quốc.
Không có tiêu chí rõ ràng và phổ biến nào để xác định một nền kinh tế
có phải là nền kinh tế mới nổi lên hay không. Quĩ Tiền tệ quốc tế (IMF)
thường xếp chung các nền kinh tế mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển
vào cùng một nhóm trong các tài liệu về kinh tế thế giới của mình mà không
chia thành hai nhóm riêng. The Economist có tiêu chí xác định riêng dựa vào
thông tin về đầu tư. Morgan Stanley Capital International cũng có cách xác
định riêng, và những nước sau được tổ chức này coi là thuộc nền kinh tế khu
vực Đông Á mới nổi cụ thể là: Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa; Hồng Kông,
Trung Quốc; Cộng Hoà Hàn Quốc; Đài Bắc, Trung Quốc trong hiệp hội các
nước Đông nam á (ASEAN) bao gồm các nước Indonesia, Philippines,
Singapore, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam.
3. Đặc điểm của nền kinh tế mới nổi
Đây là những nước có dân số lớn, diện tích rộng. Về mặt kinh tế, đây là
các nền kinh tế mơ nổi lên có tiềm lực kinh tế, đang cải cách mạnh mẽ và đều
có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao.
Đây là các quốc gia chưa đạt được trình độ tiến bộ kinh tế xã hội như
các nước thuộc thế giới thứ nhất nhưng có sự phát triển vượt trội so với các
nước đang phát triển thuộc thế giới thứ ba. Một đặc điểm của các nước này là
có tốc độ tăng trưởng cao (thường là hướng về xuất khẩu), quá trình công
-25-

×