Tiểu luận
Đánh giá tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đến cán
cân tài khoản vãng lai của Việt Nam
và xu hư#ng sau khủng hoảng
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu xẩy ra củng như bùng cháy lên một ngọn lửa. Và ngọn
lửa đó bắt đầu cho một đám cháy lớn. Ở thế giới này nền kinh tế của mỗi khu vực, mỗi quốc gia đều
có sự liên kết chặt chẽ và chịu ảnh hưởng nhất định khi tài chính có sự biến động. Chứng minh cho
điều đó là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ năm 2008 và đã lan tỏa đến Châu Á và Việt
Nam chúng ta củng không thoát khỏi sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đó. Cụ thể cuộc khủng
hoảng Mỹ đã lan ra thị trường thế giới. Các sàn chứng khoán của các nước đã giảm 2 đến 7%. Nhiều
nền kinh tế đều có đầu tư vào Mỹ, do đó mất giá ở Mỹ sẽ đẩy mạnh mất giá trên toàn cầu. Cụt vốn
khắp nơi không thể không ảnh hưởng đến đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, nếu khủng hoảng ảnh
hưởng trực tiếp đến sản xuất vì giảm tiêu dùng như đang hình thành ở Mỹ thì hàng nhập khẩu vào Mỹ
sẽ giảm, đưa đến giảm xuất khẩu của nhiều nước. Việt Nam cũng khó tránh khỏi vấn đề này, nhất là
thị trường Mỹ vào năm 2008 đã chiếm tới 24% trị giá hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Khủng hoảng ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế của một quốc gia. Trong đấy có
cán cân tài khoản vãng lai. Và đề tài “
!"sẻ nói rỏ hơn về tác
động của cuộc khủng hoảng đến Việt Nam. Cụ thể để nói lên vấn đề này chúng ta sẻ lấy cuộc khủng
hoảng mới nhất bắt nguồn từ MỸ năm 2008.
Với nội dung:
PHẦN MỞ ĐẦU
TÌM HIỂU MỘT SỐ KHÁI NIỆM
Phần 1: Sơ lược về khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ Mỹ năm 2008
Phần 2: Tìm hiểu lý thuyết tài khoản vãng lai.
Phần 3: Phân tích tác động của khủng hoảng tới cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam
như thế nào?
Phần 4: Đưa ra đánh giá nêu ra xu hướng sau khủng hoảng từ năm 2008 đến nay.
#$%&'())*+(),)-&
./012 034567589:;<=>?#5@95
A?#BCDE.
TÌM HIỂU MỘT SỐ KHÁI NIỆM
- Khủng hoảng tài chính: là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng
đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Hay nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh
khoản của các tập đoàn tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính và.
Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là:
+ Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
+ Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng xếp loại A cũng không thể hoàn trả các khoản vay cho
ngân hàng.
+ Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định
- Khủng hoảng tài chính 2008-2010 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống
ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở
nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ.
CHƯƠNG 1:
SƠ LƯỢC VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU BẮT ĐẦU TỪ NƯỚC MỸ
NĂM 2008
1.2 Nguyên nhân hình thành nên cuộc khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt
của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Năm 2008 cũng chứng
kiến nỗ lực chưa từng có của các nền kinh tế để chống chọi với cơn "bão" này.
Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ.
Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng
cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách hàng. Bong bóng bất
động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều
quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm.
1.3 Diễn biến
Chúng ta hãy đi qua vài mốc thời gian quan trọng năm 2008 để tìm hiểu diễn biến khủng hoảng tài
chính bắt nguồn từ đất nước Mỹ này.
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường -
đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này
thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 17 đến 28 /2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock. và Đức đưa ngân hàng DZ bank
vào danh sách nạn nhân của cuộc khủng hoảng.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau
khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo
bởi các khoản thế thấp bất động sản.
* 11 đến 31 /7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp.
và sau đó Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng
toàn cầu.
* 14 đến 29/9/ 2008: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi từ
chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers. và Phố Wall trở nên tồi tệ, Ngân hàng trung ương các
nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ, Các thị trường chứng khoán thế giới
tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn,
Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã
đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp
* 1/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25)
Và có rất nhiều diễn biến quan trọng khác từ các nước Châu Âu và Châu Á. Trong thời gian này.
Và nhiều quốc gia đã đưa ra các chiến lược nhằm giảm thiểu rủi ro, tuy nhiên, trái lại nó tạo ra hiệu
ứng sụp đổ dây chuyền và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn nữa. Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra
vào ngày 7/9 khi hai nhà cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải
được Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ
vỡ với những tên tuổi lớn khác.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm cũng chứng kiến các cơn sốt dầu, lương thực, và lạm
phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu, từ mức 90 đôla một thùng vào đầu năm
đã leo lên trên 100 đôla vào 20/2 và lập kỷ lục trên 147 đôla một thùng vào 11/7 năm 2008.
Bước vào quý IV, cuộc khủng hoảng kinh tế được đẩy lên một nấc thang mới khi nền tài chính và
kinh tế của nhiều quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng.
Mỹ và EU lại một lần nữa rung chuyển khi vào giữa tháng 12 vụ lừa đảo lớn chưa từng có do Benard
Madoff thực hiện bị phanh phui.
1.3 – Tác động của cuộc khủng hoảng tới Việt Nam
Mở cửa kinh tế và hội nhập đã mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam nhưng đồng thời cũng khiến
chúng ta phải đối mặt với nhiều nguy cơ hơn khi xảy ra biến động. Tác động của cuộc khủng hoảng
này có tính hai mặt, song chủ yếu là tác động tiêu cực tới kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do
hội nhập chưa đi sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới nên Việt Nam cũng chịu những tác động nhất
định có giới hạn.
1.3.1 Tác động trực tiếp
Về phía Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp thì cũng có giới hạn vì Việt Nam chưa hội nhập sâu và tham
gia nhiều vào thị trường tài chính thế giới và không tham gia mua bán chứng khoán phái sinh.
Nhưng khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng
(Libor và Sibor, ) thường được dùng làm lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam
vay.
Đối với thị trường chứng khoán: có khả năng nhà đầu tư nước ngoài phải thu hồi nguồn vốn và bán
chứng khoán. Điều này tác động đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu
tư nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào sẽ làm giảm giá chứng khoán của Việt Nam.
1.3.2 – Tác động gián tiếp
- Tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế:
Theo báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới công bố ngày 8/10/2008 của IMF, tốc độ tăng trưởng của
Việt Nam sẽ chậm lại và thất nghiệp gia tăng. Thực tế năm 2008, tốc độ này chỉ đạt 6,23% so với mục
tiêu đề ra của chính phủ là 7%, mức thấp nhât trong 9 năm qua. Khủng hoảng tác động tới mọi tầng
lớp dân cư của Việt Nam, trong đó tầng lớp công nhân lao động chịu ảnh hưởng trực tiếp. Sản xuất bị
thu hẹp, số người thất nghiệp gia tăng, thu nhập bị giảm sút.
- Tác động đến Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Nghiên cứu tình hình FDI vào Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng, về ngắn hạn, khủng hoảng ở
Mỹ chưa có tác động lớn đến Việt Nam, do dòng vốn đầu tư vào đây đa số đều bắt nguồn từ các nước
và vùng lãnh thổ trong khu vực như Xin-ga-po, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan Các nước châu Á
chiếm tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam. Mỹ chỉ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia và vùng
lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực. Mặt khác, dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam thường mang tính dài hạn nên sẽ không bị ảnh hưởng
nhiều lắm. Mặc dù vậy, về dài hạn, khủng hoảng tài chính thế giới có thể khiến dòng đầu tư nước
ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế và sự suy
thoái kinh tế toàn cầu. Và củng có một số ý kiến trái chiều tỏ ra lo ngại hơn về nguồn vốn FDI vào
Việt Nam. Thứ nhất, do nguồn tín dụng của thế giới đang dần trở nên cạn kiệt, nên các hoạt động đầu
tư trực tiếp và gián tiếp sẽ suy giảm trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Hơn nữa, do
nhu cầu tiêu thụ giảm sút, nên việc giải ngân FDI sẽ chậm lại đáng kể.
- Tác động tới xuất khẩu của Việt Nam.
Xuất khẩu của Việt Nam đã bị ảnh hưởng khá nhiều từ cuộc khủng hoảng. Kinh tế Mỹ suy thoái đã có
tác động tới xuất khẩu của Việt Nam, do Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ xuất khẩu sang Mỹ. Trong 9
tháng đầu năm 2008, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 16,7%, thấp hơn khá nhiều so
với mức 26,7% của năm 2008. Tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam đã giảm từ 24% của năm 2008 xuống còn 17,7% trong 9 tháng đầu năm 2008.
Cũng cần phải đặt tình hình thương mại của Việt Nam trong mối quan hệ Trung Quốc - Mỹ: Mỹ là thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc. Sức tiêu dùng của người dân Mỹ giảm sẽ tác động tiêu
cực đối với hàng Trung Quốc xuất sang Mỹ. Tiêu dùng tại Mỹ giảm, khiến hàng Trung Quốc rẻ hơn
và cạnh tranh hơn với hàng Việt Nam tại thị trường Mỹ. Đồng thời, khi hàng Trung Quốc tiêu thụ ở
Mỹ giảm đi, nó chuyển hướng sang các thị trường khác tìm đầu ra mới, có thể đưa vào tiêu thụ tại
Việt Nam nhiều hơn, gây áp lực lớn cho nền kinh tế Việt Nam.
Đồng thời, cuộc khủng hoảng đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản và châu Âu. Đây là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do bị tác động
mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên
nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng có xu hướng giảm.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế cũng đã gây ra những biến động chưa từng có về giá
cả xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Những biến động
của giá cả trên đã đánh đổ hầu hết các dự báo và tính toán của doanh nghiệp, cũng như hoạch định,
dự kiến của nhà điều hành chính sách. Điều này càng gây thêm khó khăn cho xuất khẩu của Việt
Nam.
CHƯƠNG II
TÌM HIỂU LÝ THUYẾT TÀI KHOẢN VÃNG LAI
2.1 – Định nghĩa tài khoản vãng lai
Tài khoản vãng lai hay còn gọi là cán cân vãng lai là thước đo mậu dịch quốc tế về hàng hoá và dịch
vụ của một quốc gia. Ghi lại những luồng hàng hóa và dịch vụ quốc tế và các khoản thu nhập ròng
khác ở nước ngoài.
Cán cân thanh toán vãng lai là hiệu số giữa tổng xuất khẩu về hàng hóa dịch vụ với tổng nhập khẩu
vrrg hàng hóa dịch vụ.
Những giáo dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được
ghi vào bên nợ (mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú bgoaif nước
cho người cư trú trong nước được ghi vào bên có (mực đen) thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi
bên có lớn hơn bên nợ.
2.2 – Các thành phần chủ yếu của tài khoản vãng lai.
a) Cán cân thương mại về hàng hóa và dịch vụ
b) Thu nhập
- Thu nhập từ lao động
- Thu nhập từ đầu tư
c) Chuyễn giao vãng lai
- Chuyển giao của chính phủ
- Chuyển giao vãng lai khác
2.3 - Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai:
Lạm phát
Thu nhập quốc dân
Tỷ giá hối đoái
Các biện pháp hạn chế của chính phủ
- Ảnh hưởng của lạm phát.
Nếu một quốc gia có tỷ lệ lạm phát tăng so với các quốc gia khác có quan hệ mậu dịch, thì tài khoản
vãng lai của quốc gia này sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau.
Bởi vì người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước hầu như sẽ mua hàng nhiều hơn từ nước ngoài
(do lạm phát trong nước cao), trong khi xuất khẩu sang các nước khác sẽ sụt giảm.
- Thu nhập quốc dân:
Nếu mức thu nhập của một quốc gia (thu nhập quốc dân) tăng theo một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của
các quốc gia khác, tài khoản vãng lai của quốc gia đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Vì
người dân sẽ có xu hướng tiêu dùng hàng nước ngồi nhiều hơn.
Tỷ giá hối đối:
Nếu đồng tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với đồng tiền của các nước khác, tài khoản vãng lai
của nước đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau.
Bởi vì hàng hóa xuất khẩu từ nước này sẽ trở nên mắc hơn đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền
của họ mạnh. Kết quả là nhu cầu các hàng hóa đó sẽ giảm.
Các biện pháp hạn chế của chính phủ
Nếu Chính phủ một quốc gia áp dụng các hàng rào mậu dịch đối với hàng nhập khẩu, giá của hàng
nước ngồi đối với người tiêu dùng trong nước sẽ tăng trên thực tế. Kết quả là nhập khẩu sẽ giảm và
do đó làm tăng tài khoản vãng lai.
Thu nhập quốc dân tăng cao
hơn tỷ lệ tăng của
các quốc gia khác.
Thu nhập quốc dân tăng cao
hơn tỷ lệ tăng của
các quốc gia khác.
Tài khoản vãng lai
của quốc gia đó
sẽ giảm
Tài khoản vãng lai
của quốc gia đó
sẽ giảm
Dẫn đến
TĂNG
GIẢM
Tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ lạm phát
Tài khoản vãng lai
vãng lai
Tài khoản vãng lai
vãng lai
Dẫn đến
CHƯƠNG III
PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TOÀN CẦU ĐẾN CÁN CÂN TÀI KHOẢN VÃNG LAI CỦA VIỆT NAM
Sự khủng hoảng tài chính toàn cầu sẻ ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đi chăng nữa thì ít nhiều làm
thay đổi các yếu tố như lạm phát, GDP, tỷ giá… sẽ ảnh hưởng đến
F
+1#&F
3.1 - Lạm Phát
G#HI&%'! G#HG@JK5L
G#M!NM#EOF
9PLQ.JRJ%> !NSTU
<J&%> C5>VW! !N!XF
Theo website ta có các số liệu về lạm phát qua các năm từ năm 2008-
2011 như sau:
Năm 2006 2008 2008 2009 2010 2011
Vietnam 7,5 8,3 24,4 7 11,8 18,7
Lạm phát Việt Nam luôn duy trì ở mức cao qua các năm gần đây (2008-2011), và cao nhất là năm
2008 với tỉ lệ lạm phát là trên 24% cùng thời điểm khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra. Điều này
quả thật đã gây nhiều khó khăn đối với sự tăng trưởng kinh kế, đồng thời cũng ảnh hưởng mạnh đến
cán cân vãng lai trong nước.
Giai đoạn 1: Lạm phát nóng
Tốc độ tăng giá tiêu dùng liên tục tăng ở mức 2%/tháng với đỉnh điểm vào tháng 2 và tháng 5
(tăng 3,19 %). Lạm phát được xác định là do cả 3 nhân tố: Chi phí đẩy, cầu kéo, và tăng cung.S
VM%JX%X'>.Y)Z5&%'[.(YZ5@%!.
$G/(5 tháng đầu năm 2008, chúng ta đã nhập siêu lên đến 40% GDP và 60% giá trị
xuất khẩu. Yêu cầu xử lý vấn đề nhập siêu trở nên cấp bách ).
Giai đoạn 2: Giao thời - Kiềm chế lạm phát
Trước những ảnh hưởng sâu rộng của lạm phát, chính phủ đă đưa ra các giải pháp kiềm chế
lạm phát, tập trung vào việc thắt chặt cung tiền và giảm bớt đầu tư công và hạn chế nhập siêu. Được
sự trợ giúp từ việc giá hàng hóa trên thế giới bắt đầu giảm từ mức đỉnh vào tháng 6/2008, tốc độ tăng
lạm phát đă được đưa xuống mức dưới 2%/tháng (tháng 7-8/2008) và xấp xỉ 0%/tháng trong tháng
9/2008.
Giai đoạn 3: Giảm phát
Việc cắt giảm đầu tư và tiêu dùng nhằm kiềm chế lạm phát của chính phủ cùng với một sự cộng
hưởng ngoài ý muốn là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn tới
một sự giảm đột ngột về cầu khiến cho giá nhiều mặt hàng giảm mạnh. Tính trong 4 tháng từ tháng 8
đến tháng 11/2008, giá nguyên liệu thế giới giảm 58% với đà giảm gia tăng. Giảm phát ở Việt nam có
độ trễ 2 tháng so với nước ngoài và chính thức bắt đầu từ tháng 10/2008 Giống như nhiều nước khác,
mối lo ngại của Việt Nam đă chuyển trạng thái từ lạm phát sang giảm phát khi giảm phát xảy ra trong
cả 3 tháng của quýIV/2008…)
Trong khi đó, xuất khẩu giảm cả về kim ngạch lẫn khối lượng, đối mặt với những khó khăn dồn dập
từ các nước nhập khẩu (về tín dụng, khả năng thanh toán, sức mua, giảm giá).
Chỉ số lạm phát đã có dấu hiệu suy giảm từ 8/2008 sau một thời gian dài liên tục tăng cao. Theo như
lý thuyết đã nêu thì khi chỉ số lạm phát giảm sẽ làm cho cán cân thanh toán vãng lai tăng lên. Tuy
nhiên, trong thực tế xảy ra tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai. Điều này chứng tỏ cán cân vãng lai
chịu nhiều sự tác động khác.
Qua nghiên cứu trên cho ta thấy, mặc dù lạm phát trong nước có giảm nhưng vẫn còn rất cao so với
các nước trên. Điều này đã làm cho hàng hóa trong nước trở nên đắt tương đối so với nước ngoài.
Cầu nước ngoài về hàng hóa trong nước giảm.
Cán cân thương mại giảm. Đồng thời do giá cả đắt lên nên lượng khách du lịch nước ngoài giảm.
Tất cả các yếu tố này hội tụ lại đã làm thâm hụt tài khoản vãng lai.
Tuy nhiên, lại một lần nữa là sự giảm phát trong trường hợp này là kết quả từ những can thiệp của
chính phủ nhằm đối phó lại tình trạng khủng hoảng tài chính toàn cầu, bình ổn nền kinh tế, cải thiện
cán cân thanh toán vãng lai.
3.2 - Thu nhập quốc dân
Tác động của khủng hoảng đến Tổng thu nhập Quốc Dân của Việt Nam làm thay đổi
0
Theo lý thuyết Cán Cân tài Khoản Vãng lai ta có:
Thu nhập quốc dântăng cao hơn tỷ lệ tăng của các quốc gia khác
Tài khoản vãng lai của quốc gia đó sẽ giảm trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Vậy GDP Việt Nam và các Các bạn hàng của Việt Nam, điều này thể hiện như thế nào trong năm
khủng hoảng 2008, và những năm sau này.
Year 2005 2006 2008 2008 2009
Viet Nam 8.40% 8.17% 8.48% 6.23% 5.32%
Sau khi bị ảnh hưởng của khủng hoảng Kinh tế Châu Á 1997. Kể từ năm 2002 GDP Việt Nam luôn
tăng, và duy trì ở mức cao, cho tới Năm 2008, Khi mà Cuộc Khủng hoảng tài Chính Mỹ nổ ra và lan
nhanh thành 5#'\]-^/_F(Z>'
())*%X#`YFa(ZP'())b và đến năm 2011 thì GDP tăng 5.89%.
Year 2005 2006 2008 2008 2009 2010 2011
Viet Nam 8.40% 8.17% 8.48% 6.23% 5.32% 6,78% 5,89
Mức độ suy giảm của mỗi quốc gia là khác nhau, và so sánh với Việt Nam, tỷ lệ giảm trong GDP của
cả Hoa Kỳ, Nhật, và EU đều mạnh hơn Việt Nam. Cụ thể ta có biểu đồ sau
% suy giảm của GDP của mỗi quốc gia
2008/2008 2009/2008
United States -44.88% -116.81%
Euro Area -73.38% -85.71%
Japan -124.17% -106.90%
Viet Nam -26.53% -27.77%
Như vậy, % suy giảm của các quốc gia đều lớn hơn Việt Nam.
Ta có kết luận:
Trong các điều kiện khác không đổi:
Tốc độ tăng trong GDP của Việt Nam giảm theo một tỷ lệ thấp hơn hơn tỷ lệ tăng trong GDP của các
quốc gia khác, phản ánh một mức nhu cầu gia tăng đối với hàng hóa nước ngoài, điều này sẽ làm cho
Tài khoản vãng lai của Việt Nam sẽ giảm
3.3 - Tác động của tỷ giá đến cán cân vãng lai.
Tỷ giá liên ngân hàng từ tháng 01-2008 đến 07-2008 dao động quanh mốc 1USD= 16.124
VNĐ. Từ tháng 09-2008 đến 01-2009 dao động quanh mốc 1USD=16.505 VNĐ và trong
tháng 2 và 3 đầu năm 2009 đã lên 1USD=16.975VNĐ. Theo các chuyên giá tỷ giá
VNĐ/USD có thể lên cao hơn nữa.
Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng tài khoản vãng lai của một quốc gia sụt giảm ngay sau
khi quốc gia này phá giá tiền tệ của mình và phải một thời gian sau tài khoản vãng lai mới bắt đầu
được cải thiện. Quá trình này nếu biểu diễn bằng đồ thị sẽ cho một hình giống chữ cái J.
Khi chính phủ nới lỏng biên độ VNĐ/USD để làm VNĐ mất giá so với Đôla, làm cho giá hàng xuất
khẩu định danh bằng USD trở nên thấp đi trong khi giá hàng nhập khẩu định danh bằng VNĐ tăng
lên. Vì thế, sẽ tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Kết quả là cán cân vãng lai trong năm tiếp theo
(xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, trong thực tế, về phía cầu, hoạt động xuất
nhập khẩu diễn ra dựa trên các hợp đồng, vì thế lượng hàng xuất nhập khẩu không thay đổi đồng thời
với thay đổi giá cả (do tỷ giá thay đổi). Còn về phía cung, việc điều chỉnh trang thiết bị sản xuất để
sản xuất thêm hàng xuất khẩu cần thời gian.
Tóm lại, chính sự thay đổi giá cả và thay đổi khối lượng hàng hóa không diễn ra đồng thời là nguyên
nhân trực tiếp của hiện tượng Đường cong J.
Đồng VNĐ mất giá tạo thuận lợi cho việc xuất khẩu và hạn chế việc nhập siêu nhằm phẩn
nào cải thiện cán cân vãng lại , vực dậy nền sản xuất trong nước và góp phần giảm thất
nghiệp trong nước.
3.4 - Biện pháp của chính phủ
1E%%%%O>E#
0
\H_I7c]
Tỷ lệ lạm phát trong nước lúc này còn cao, xuất khẩu thì lại giảm, việc kích cầu trong nước => giảm
lượng hàng nhập khẩu=> tránh nguy cơ nhập siêu, mà lại tiêu thụ sản phẩm đang bị ứ đọng lớn (than,
sắt thép, xi măng, phân bón, một số nông sản quan trọng…), những mặt hàng xuất khẩu lớn đang có
thị trường.
Chính phủ dùng 1 tỷ USD (tương đương 17.000 tỷ đồng) từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ giảm
4% lãi suất vốn vay lưu động ngắn hạn cho doanh nghiệp trong năm 2009 . Lãi suất trong nước giảm
tương đối so với lãi suất ở nước ngoài => giảm dòng vốn từ nước ngoài vào VN=> tỷ giá hối đoái của
đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ tăng lên=> xuất khẩu ròng tăng lên
Hạ lãi suất cơ bản
Một khi Lãi suất giảm tương đối so với nước ngoài sẽ khiến cho dòng vốn từ nước ngoài chảy vào
Việt Nam giảm xuống, điều này sẽ làm cho tỷ giá hối đoái giữa nội tệ và ngoại tệ tăng lên=> xuất
khẩu ròng vì thế tăng lên
Tỷ giá và ổn định kinh tế
Chính phủ điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ theo nguyên tắc linh hoạt, nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu.Theo hướng giảm nhẹ VND so với USD nhằm khuyến khích XK, kiểm soát NK
Kiên định mục tiêu thắt chặt tiền tệ
dS&%5eKf85E! : => kiềm chế lượng hàng nhập
khẩu
Lạm phát giảm => giá cả hàng hóa trong nước giảm tương đối so với giá thị quốc tế => giảm nhu cầu
hàng ngoại nhập, tăng nhu cầu hàng hóa nội địa
Chính sách thuế
Chính phủ 2g55!#& để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển
sản xuất kinh doanh, đồng thời kéo dài thời hạn nộp thuế xuất-nhập khẩu để giảm bớt khó khăn về
vay vốn,giảm tối đa các thủ tục phiền hà về thủ tục đóng thuế đối với những DN xuất khẩu.
CHƯƠNG IV
ĐÁNH GIÁ VÀ NÊU RA XU HƯỚNG SAU KHỦNG HOẢNG TỪ NĂM
2008 ĐẾN NAY.
4.1 - ĐÁNH GIÁ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính đến cán cân tài khoản vãng lai Việt Nam:
Tình hình chung tài khoản vãng lai Việt Nam năm 2008 và đầu năm 2009
4.1.1 - Cán Cân Thương Mại:
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm
2008, trong đó xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm trước, và nhập khẩu là 80,71 tỷ
USD, tăng 28,8%, thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu.
Xuất Khẩu:
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng
29,5% so với năm 2008, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9
tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt
28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%.
Trong các thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ là đối tác lớn nhất, ước tính đạt 11,6
tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2008 gồm: Hàng dệt may, dầu thô, gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, thủy
sản.
Kim ngạch hàng hoá xuất khẩu sang thị trường ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối năm, nhưng
ước tính cả năm vẫn đạt 10,2 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2008 với các mặt hàng chính là: Dầu thô,
gạo, thủy sản, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện.
Thị trường EU ước tính đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước gồm các mặt hàng truyền thống
như: Hàng dệt may, giày dép, nông sản, thủy sản. Thị trường Nhật Bản ước tính đạt 8,8 tỷ USD, tăng
45% so với năm 2008, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng: Dầu thô, giày dép, thủy sản, máy tính và
linh kiện, dây và cáp điện.
Nhập Khẩu:
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3%
so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một
số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2008.
Nhập khẩu ô tô năm 2008 đạt mức cao kỷ lục với 2,4 tỷ USD, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 1 tỷ
USD với 50,4 nghìn chiếc (ô tô dưới 12 chỗ ngồi 27,5 nghìn chiếc, tương đương 380 triệu USD).
Nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng khác (trừ ô tô và máy tính, điện tử) ước tính đạt 13,7 tỷ USD,
tăng 23,3% so với năm 2008. Nhập khẩu xăng dầu đạt 12,9 triệu tấn, tăng 0,1% so với năm trước,
tương ứng với kim ngạch 10,9 tỷ USD, tăng 41,2%. Sắt thép đạt 6,6 tỷ USD, tăng 28,5%.
Vải và nguyên phụ liệu dệt may là những mặt hàng phục vụ chủ yếu cho sản xuất hàng xuất khẩu vẫn
đạt kim ngạch cao với 6,8 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2008.
Hàng điện tử máy tính và linh kiện đạt 3,7 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm trước, đây là nhóm hàng
không chỉ gắn với tiêu dùng trong nước mà còn liên quan tới gia công, lắp ráp để xuất khẩu.
Kim ngạch nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng trong quý I/2009 đều giảm so với cùng kỳ năm trước
do cả lượng và giá nhập khẩu đều giảm. Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng
quý I/2009 đạt 2,4 tỷ USD, giảm 30,2% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu giảm 17,7% về lượng và
giảm 60,2% về kim ngạch; sắt thép giảm 65% về lượng và giảm 71% về kim ngạch; phân bón giảm
16,5% về lượng và giảm 33,8% về kim ngạch; sợi dệt giảm 7,2% về lượng và giảm 28,7% về kim
ngạch; ô tô nguyên chiếc giảm 71,2% về lượng và giảm 72,4% về kim ngạch; xe máy nguyên chiếc
giảm 50,7% về lượng và giảm 34,7% về kim ngạch.
Xuất siêu tháng 3/2009 ước tính 400 triệu USD, bằng 8,5% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Tính
chung quý I/2009, xuất siêu 1,6 tỷ USD, bằng 12,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (Nếu loại trừ kim
ngạch tái xuất vàng thì quý I/2009 nhập siêu 640 triệu USD, bằng 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu
Xuất siêu quý I/2009 đạt 1,6 tỷ USD, bằng 12,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nếu loại trừ kim ngạch
tái xuất vàng thì quý I/2009 nhập siêu 640 triệu USD, bằng 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. So với
quý I/2008 xuất khẩu vẫn tăng được 2,42% (trong khi ở nhiều nước trong khu vực và thế giới mức
xuất khẩu giảm khá mạnh).
Trong suốt hàng chục năm qua, Việt Nam luôn nhập siêu với số lượng ngày càng tăng và khiến cán
cân thương mại quốc tế của Việt Nam không tốt và là một trong những bất ổn kinh tế vĩ mô cần được
cải thiện. Một con số thật đáng mừng và nếu duy trì được xu hướng này là một điều rất tốt. Thế
nhưng, liệu cán cân thương mại của Việt Nam có được cải thiện một cách bền vững? Phải đến cuối
năm mới rõ tình hình của năm nay thế nào và cần vài ba năm nữa mới có thể có câu trả lời xác đáng.
Hiện tượng xuất siêu trong quý 1/2009 là do đâu ?. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của quý I có
một khoản đặc biệt, 2,287 tỉ USD xuất đá quý và kim loại quý (mà chủ yếu là vàng). Nếu trừ khoản
tái xuất vàng đi thì thành tích xuất siêu sẽ không còn.
Đáng nói hơn nữa sỡ dĩ có xuất siêu chủ yếu là do kim ngạch nhập khẩu đã giảm rất mạnh, giảm
mạnh hơn mức giảm xuất khẩu khá nhiều (quý I/2009: 11,8 tỉ USD trong khi con số của quý I/2008 là
21,5 tỉ USD, tức là giảm khoảng 45%).
Một điều dáng quan tâm hơn13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực thì 12 mặt hàng có kim ngạch giảm sút
trong quý I ở mức từ 10 đến 20% (dầu thô giảm 48,6%, cao su giảm 43,9%, dệt may giảm 4,2%) duy
nhất có xuất gạo tăng 76,4%.
4.1.2 Cán cân dịch Vụ:
Theo thống kê từ Tổng cục thống kê, tổng trị giá xuất khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,1 tỷ
USD,tăng 9,8% so với năm 2008, trong đó dịch vụ du lịch đạt 4 tỷ USD, tăng 7,2%; dịchvụ vận tải
hàng không đạt 1,3 tỷ USD, tăng 23,7%; dịch vụ vận tải biển đạt 1 tỷ USD, tăng 27,7%.
Số khách quốc tế đến nước ta năm 2008 ước tính đạt 4,3 triệu lượt người,
Khách quốc tế đến nước ta 2 tháng đầu năm 2009 ước tính đạt 688,8 nghìn lượt người, giảm 10,3% so
với cùng kỳ năm trước.
4.2 – Xu hướng của Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008
4.2.1 - Về hoạt động sản xuất công nghiệp
Trong những tháng đầu năm 2009, khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang có tác động mạnh,
ngành công nghiệp Việt Nam phát triển chậm, với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp
(GTSXCN) quý I chỉ tăng 2,7%. Tuy nhiên, bước sang quý II, khi những nền kinh tế lớn trên thế giới
bắt đầu có dấu hiệu hồi phục, cùng với việc triển khai quyết liệt các giải pháp của Chính phủ, công
nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển khả quan hơn, với tốc độ tăng trưởng GTSXCN đạt 4,6%.
Tiếp tục xu hướng này, trong quý III, ngành đạt tốc độ tăng trưởng GTSXCN là 6,4 % và quý IV tăng
9,5% đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả năm 2009 đạt khoảng 7,6%.
4.2.2 Về hoạt động thương mại trong nước
Trong bối cảnh xuất khẩu giảm sút, mặc dù điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhưng hoạt
động thương mại trong nước vẫn tăng trưởng khá, diễn biến các tháng trong năm vẫn theo quy luật
hàng năm, luôn duy trì xu hướng tăng dần, tuy mức tăng cả năm 2009 chưa bằng mức tăng của năm
2008 (tăng trên 30%). Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội tăng bình quân hàng tháng xấp xỉ
2%, càng về cuối năm tăng càng cao trên 5%/tháng, cả năm ước đạt khoảng 1.197,5 nghìn tỉ đồng,
tăng 18,6% so với năm 2008 (nếu loại trừ yếu tố giá, mức tăng là 11%). Xét về cơ cấu tổng mức bán
lẻ theo loại hình kinh tế năm 2009, kinh tế nhà nước đạt 116,2 nghìn tỉ đồng chiếm 9,7%, kinh tế
ngoài nhà nước đạt 1.049,9 tỉ nghìn đồng, chiếm 87,7% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 31,3
nghìn tỉ đồng chiếm 2,6%. So sánh qua các năm cho thấy, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước ngày
càng đóng góp nhiều hơn vào tổng mức lưu chuyển hàng hoá dịch vụ toàn xã hội, chiếm tỉ trọng tăng
dần so với các thành phần kinh tế nhà nước và đầu tư nước ngoài.
4.2.3 Thu hút đầu tư
Nguồn tín dụng đang dần trở nên cạn kiệt của thế giới trong khủng hoảng đã làm cho hoạt động đầu tư
trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam không 17phải là một ngoại lệ.
Dòng vốn FDI sau khi đạt mức kỷ lục vào năm 2008 đã giảm xuống mức thấp vào năm 2009.
4.2.4 Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán vốn luôn được xem như hàn thử biểu của nền kinh tế, là nơi mà yếu tố tâm lý
tác động rất mạnh đến động thái của các nhà đầu tư. Nếu quan sát tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới đến nền kinh tế thì không nơi nào thể hiện rõ nét và sống động như thị trường chứng
khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau khủng hoảng có thể chia thành 02 giai đoạn chủ yếu
Giai đoạn phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ
Giai đoạn thị trường hạ nhiệt và dao động trong biên độ hẹp
4.2.5 Tài chính – ngân hàng
Tuy nhiên, ở Việt Nam với lo ngại về sức ép lạm phát, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt
một cách cẩn trọng. Lãi suất cơ bản sau khi tăng 1% lên đến mức 8% từ tháng 12 năm 2009 đã giữ
nguyên trong 7 tháng đầu năm 2010. Sau khi NHNN dỡ bỏ trần lãi suất cho vay theo mức bằng 150%
LSCB, lãi suất cho vay của các NHTM tăng từ 2-3%. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất
khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn. Lãi suất
huy động vốn vẫn được các ngân hàng duy trì ở mức cao, cá biệt nhiều ngân hàng đã niêm yết lãi suất
tới mức 11,99% hoặc kèm theo các hình thức khuyến mại.
Tài liêu tham khảo:
Giáo trình “Tài Chính Quốc Tế”, Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định, NXB Thống kê, 2008
Power Point Bài Giảng Tài Chính Quốc tế, Bộ Môn Tài Chính Quốc Tế Khoa Tài Chính Doanh
Nghiệp, ĐH Kinh Tế HCM
Tổng Cục Thống Kê
Website Global Economics Research:
MỤC LỤC