LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, với xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, chính
sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở
Việt Nam được đặc biệt coi trọng, trở thành công cụ hữu hiệu để đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước, mở rộng hội nhập vào thị trường thương mại
quốc tế. Việc chính phủ Mỹ huỷ bỏ chính sách cấm vận đối với Việt Nam năm 1995
đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam bắt tay với các đối tác nước ngoài,
thúc đẩy giao lưu buôn bán hàng hoá quốc tế.
Mặt khác, cơ chế đổi mới do đạt hội Đảng lần thứ VI vạch ra đã buộc các doanh
nghiệp phải tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tự tìm kiếm nguồn hàng, mối
hàng và cân đối trong hoạt động tài chính để đảm bảo có thể mang lại hiệu quả. Muốn
vậy thì phải cung cấp được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với thị
hiếu tiêu dùng, đồng thời nắm bắtkịp thời những diễn biến thị trường để tạo dựng được
một chiến lược phát triển lâu dài. Kinh doanh trong xu thế quốc tế hoá, các doanh
nghiệp các quốc gia cần phải dựa trên tiềm lực, lợi thế so sánh sẵn có của mình để
tham gia có hiệu quả vào thương mại quốc tế. Một trong những lợi thế của Việt Nam
là sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng gốm sứ nói riêng. Đây là
những sản phẩm đã có quá trình phát triển khá lâu dài, mang đậm nét tinh hoa, độc đáo
của truyền thống dân tộc, được thế giới đánh giá cao về sự tinh xảo và trình độ nghệ
thuật. Việc xuất khẩu những mặt hàng này đem lại nguồn thu ngoại tệ không nhỏ, góp
phần cải thiện cán cân xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế của đất nước.
Là một doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực xuất khẩu hàng gốm sứ, Công ty
TNHH gốm sứ Thu Phương đã có cố gắng rất lớn trong việc đẩy mạnh và mở rộng
xuất khẩu hàng gốm sứ sang các thị trường trong khu vực và trên thế giới. Công ty đã
đạt được một số thành tựu nhưng đồng thời cũng gặp phải những khó khăn nhất định.
Sau một thời gian thực tập tại Công ty TNHH gốm sứ Thu Phương, em lựa
chọn đề tài " Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng gốm sứ tại Công
ty TNHH gốm sứ Thu Phương " làm đề tài thu hoạch thực tập tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận bài viết kết cấu gồm 3 chương.
Chương I: Giới thiệu chung về Công ty TNHH gốm sứ Thu phương
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng gốm sứ tại Công ty
TNHH gốm sứ Thu Phương.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng gốm sứ
tại Công ty TNHH gốm sứ Thu Phương.
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY TNHH GỐM SỨ THU PHƯƠNG
I. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY TNHH GỐM SỨ THU PHƯƠNG
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH gốm sứ Thu Phương
Công ty có tên gọi : Công ty TNHH Gốm sứ Thu Phương
Trụ sở chính: 172 chợ Bún – xã Đa Tốn – Gia Lâm – Hà Nội.
Công ty TNHH gốm sứ Thu Phương được thành lập vào năm 1994. Khi mới
thành lập, Công ty chỉ có 4 phòng nghiệp vụ và một số phòng quản lý, phục vụ với số
lượng cán bộ công nhân viên chưa đầy 50 người. Ngaỳ nay Công ty đã mở rộng kinh
doanh ra nhiều mặt hàng tổng hợp, số lượng cán bộ công nhân viên đã tăng lên 294
người, phần lớn tốt nghiệp ĐH Ngoại thương.
Công ty có nhiều chi nhánh, văn phòng đại diện đặt tại một số trung tâm khác
Ngoài ra Công ty còn có các cơ sở sau:
- Xưởng thêu Thanh Lân - Thanh Trì - Hà Nội
- Cửa hàng thủ công mỹ nghệ 37 phố Hàng Khay
- Xưởng gốm mỹ nghệ đặt tại Gia Lâm – Hà Nội
Từ khi thành lập đến nay Công ty trải qua gần 15 năm phát triển. Quá trình phát
triển được chia làm hai giai đoạn:
*) Giai đoạn từ 1994- 2004
Đây là thời kì nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp. Đặc trưng của thời kì này là mọi hoạt động đều có sự chỉ đạo quản lý
chặt chẽ từ cấp trên, thời kì này nhà nước độc quyền về hoạt động ngoại thương, nhà
nước đảm bảo mọi chỉ tiêu kế hoạch từ sản xuất trong nước đến thị trường tiêu thụ ở
nước ngoài. Công tác xuất khẩu của Công ty lúc này chủ yếu xuất khẩu theo nghị định
thư. Dưới sự chỉ đạo của nhà nước và sự cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên
Công ty nên Công ty luôn hoàn thành chỉ tiêu xuất khẩu nhà nước giao, kim ngạch
xuất khẩu của Công ty không ngừng tăng , do đó Công ty có nhiều thuận lợi trong việc
sản xuất, tìm kiếm nguồn hàng xuất khẩu và cạnh tranh xuất khẩu. Để đảm bảo chắc
chắn thực hiện kim ngạch các Nghị định thư, nhà nước và Bộ thương mại có chủ
trương khuyến khích xuất khẩu, vì vậy, kim ngạch xuất khẩu của Tổng Công ty trong
thời gian này tăng nhanh.
Thị trường xuất khẩu chính của thời kì này là các nước Liên Xô cũ, các nước
Đông Âu và một số rất ít các nước tư bản chủ nghĩa như Hồng Kông, Đan Mạch, Nhật,
Italia nhưng kim ngạch xuất khẩu sang các nước TBCN chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
tổng kim ngạch XNK của Công ty.
*) Giai đoạn từ 2004 đến nay.
Liên Xô cũ và các nước Đông Âu có nhiều biến động thay đổi cơ chế. Các nước
này đã đơn phương huỷ và giảm số lượng hàng của các hợp đồng theo quy định của
nghị định thư, do vậy kim ngạch xuất khẩu của Công ty giảm. Với sự thay đổi đó và
việc Công ty hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi Tổng Công ty phải chủ động
trong kinh doanh, tích cực tìm kiếm, phát triển thị trường mới và duy trì thị trường sẵn
có để tăng kim ngạch xuất khẩu. Đây được coi là nhiệm vụ hàng đầu của Công ty.
Bên cạnh đó, Công ty đã phải thay đổi để thích ứng với cơ chế thị trường. Cụ
thể:
Đối với cơ sở sản xuất trong nước: xác định lại đối tượng sản xuất, tổ chức có
hiệu quả mạng lưới sản xuất, thu mua, đầu tư mở rộng các cơ sở sản xuất có tiềm năng
thực tế nhằm vào vùng có nguyên liệu, có lao động, có tay nghề truyền thống và thực
sự sản xuất. Mở rộng các hình thức hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu như: mua đứt
bán đoạn, uỷ thác xuất khẩu, gửi bán đổi hàng
Đối với nước ngoài: Công ty chấn chỉnh lại phong cách bán hàng, tìm hiểu nhu
cầu của khách hàng để đáp ứng đúng nhu cầu đó, quan tâm đúng mức đến việc nghiên
cứu thị trường, chào hàng và giữ mối hàng. Nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ hợp
đồng đã kí, giữ uy tín cho Công ty bằng cách đáp ứng yêu cầu của khách hàng về mẫu
mã, chất lượng và thời gian giao hàng. Trong giai đoạn này, Công ty đã đa dạng hoá
các hình thức mua bán hàng háo như: mua bán trực tiếp, hàng đổi hàng, mua bán qua
trung gian, đại lý hơn nữa Công ty chấp nhận các phương thức thanh toán khác như
trả dần, chiết khấu, giảm giá Do vậy, thị trường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ được
mở rộng hơn.
Căn cứ vào quyết định 176/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng, Công ty đã
sắp xếp lại lực lượng lao động cho phù hợp với tình hình của Công ty để đảm bảo sử
dụng hiệu quả lực lượng lao động. Bên cạnh đó Công ty còn mở rộng hai xưởng thêu
và gỗ mỹ nghệ để thu hút thêm lao động có kĩ thuật, chuyển vị trí công tác một số cán
bộ, đồng thời tạo công ăn việc làm cho thanh niên đến tuổi lao động góp phần giải
quyết vấn đề lao động xã hội.
Tóm lại, trong gần 15 năm hoạt động của Công ty, Công ty đã thực hiện được
những mục tiêu mà Nhà nước giao cho và góp phần đưa nền kinh tế đất nước phát
triển.
2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của công ty
Mục đích hoạt động của công ty là thông qua các hoạt động kinh doanh XNK và
dịch vụ của mình để khai thác một cách có hiệu quả nguồn nhân lực và tài nguyên của
đất nước để đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, góp phần vào công cuộc xây dựng
và phát triển kinh tế đất nước.
Khoảng năm 1945 (trước và sau cách mạng) phát triển thêm 3 lò nữa và bắt đầu
sản xuất hàng loạt bát,đĩa,ấm,chén tráng men sứ.
Nhất là mặt hàng công nghiệp và gốm cao cấp được trong nước cũng như ngoài
nước ưa thích. Sản phẩm được xuất sang Pháp, ý, Hồng Kông, Đông Đức. Các phái
đoàn các nước Trung Quốc, Hung, Đông Đức, và Pháp, Liên Xô về xí nghiệp tham
quan đều ca ngợi.
Bảng 1: Tình hình vốn điều lệ của công ty TNHH gốm sứ Thu Phương năm 2009
Đơn vị tính:Đồng
Kết cấu vốn Tỉ lệ % vốn Số cổ phiếu Thành tiền
Tổng vốn điều lệ 100 1900 190000000
Giá trị cổ phiếu thuộc sở hữu nhà
nước
45,90 8717 87170000
Giá trị cổ phiếu thuộc sở hữu nhà
nớc cấp cho người lao động
11,42 2176 21760000
Giá trị cổ phiếu mua bằng quĩ
phúc lợi
1,58 300 3000000
Giá trị cổ phiếu bán cho mọi
thành phần
33,39 6342 63420000
Giá trị cổ phiếu bán chịu cho ngời
lao động
7,71 1465 14650000
Nguồn: Công ty TNHH Gốm sứ Thu Phương
Công ty có trụ sở và các phân xưởng sản xuất nằm tại xã Đa Tốn - Gia lâm -
Hà Nội với tổng diện tích là: 29656m
2
,trong đó
Đất đai: 29656m
2
thuộc xã Bát Tràng
Nhà Xưởng: 2915m
2
2.1. Chức năng và nhiệm vụ của công ty
Công ty trực tiếp tổ chức sản xuất chế biến, thu mua và tiêu thụ các loại sản phẩm
thuộc ngành gốm sứ. Bên cạnh đó công ty còn trực tiếp xuất khẩu các sản phẩm mà
công ty kinh doanh ra thị trường nước ngoài .
2.2. Cơ cấu sản xuất
Công ty có 4 phân xưởng sản xuất bao gồm 1 phân xưởng chuyên sản xuất các
mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu, 1phân xưởng chuyên sản xuất các mặt hàng gốm
sứ dân dụng, 1 phân xưởng chuyên sản xuất xương men, 1phân xưởng vật tư - cơ điện.
Phân xưởng mỹ nghệ I: chuyên sản xuất các mặt hàng gốm sứ xuất khẩu.
Phân xưởng mỹ nghệ II: chuyên sản xuất các mặt hàng gốm sứ dân dụng.
Phân xưởng I: sản xuất men (hay là chất rẻo).
Phân xưởng vật tư - cơ điện: Có nhiệm vụ cung cấp nguyên vật liệu, phụ trách và bảo
dưỡng điện năng.
Quy trình sản xuất gốm sứ của cả 3 phân xưởng đều giống nhau từ khâu đầu đến
khâu cuối và được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ1. quy trình sản xuất
Nguồn: Phòng SXKD của Công ty TNHH gốm sứ Thu Phương
ếế
ệ
ếế
ệ
đố
ạ ẽ
ấậ
ử
ạ
ảẩ
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty TNHH Gốm sứ Thu Phương
3.1. Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty .
Sơ đồ 2: Bộ máy quản lý và mối quan hệ giữa các phòng ban của công ty
TNHH gốm sứ Thu Phương
Nguồn: Phòng Tổ chức Công ty TNHH gốm sứ Thu Phương
3.2. Đặc điểm sơ đồ :
Với mô hình này cơ cấu đơn giản, dễ vận hành, dễ theo dõi, dễ kiểm tra. Đây là mô
hình đang được sử dụng rộng rãi ở nước ta.
4. Mối quan hệ giữa Công ty với các cơ quan Nhà nước.
4.1 Mối quan hệ với Chính Phủ:
- Chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm túc các quy định của Chính Phủ có
liên quan đến Công ty và doanh nghiệp Nhà nước.
- Thực hiện quy hoạch, chiến lược phát triển Công ty trong tổng thể quy hoạch,
chiến lược ngành, lãnh thổ của Nhà nước.
- Chấp hành các quy định về thành lập tách, nhập, giải thể, các chính sách về tài
chính, cán bộ, chế độ tài chính, tín dụng, thuế, các chế độ về kế toán, thống kê.
- Chịu sự kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ chương, chính sách
chế độ của Nhà nước tại Công ty.
ộĐồảị
Đố!
"#ể
$ Đố!
%#
% à
&
ổứ!
% à
ụ
'ưở
(ỹệ)
'ưở
(ỹệ))
'ưở)
'ưở
*ậư+!ơ
đệ
- Được đề xuất, kiến nghị các giải pháp, cơ chế, chính sách, quản lý của Nhà
nước đối với Công ty.
- Được quản lý và sử dụng vốn tài sản, đất đai, tài nguyên, và các nguồn lực do
Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và phải bảo toàn và phát triển nguồn
lực đó.
4.2 Mối quan hệ với Bộ Tài chính:
* Công ty chịu sự chi phối Nhà nước của Bộ Tài chính về việc:
- Tuân thủ các chế độ tài chính, kế toán, thuế, tổ chức bộ máy hạch toán kế
toán.
- Kiểm toán tài chính và kiểm toán nội bộ Công ty.
* Bộ Tài chính là cơ quan được Chính Phủ giao thực hiện một số chức năng của
chủ sở hữu, chi phối Công ty về việc:
- Xác định vốn, tài nguyên và các nguồn lực khác mà Nhà nước giao cho Công
ty quản lý, sử dụng.
- Kiểm tra việc sử dụng có hiệu quả, bảo toàn phát triển vốn và các nguồn lực
khác được giao trong quá trình hoạt động, được thể hiện thông qua quyết toán hàng
năm.
- Duyệt quyết toán hàng năm của Công ty.
* Công ty có quyền đề xuất các giải pháp, cơ chế chính sách tài chính tín dụng
và các nội dung khác có liên quan đến Công ty, kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt để tổ chức thực hiện việc chuyển những tài sản có giá trị lớn, việc
đầu tư hợp tác với nước ngoài về các thành phần kinh tế khác, việc quan hệ tín dụng
trên hạn mức, việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính, việc phân phối lợi nhuận sau thuế,
việc thanh lý tài sản trong Công ty và việc bổ xung ngân sách cho Công ty.
5. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
Công ty TNHH gốm sứ Thu Phương trong nhiều năm qua tình hình sản xuất kinh
doanh luôn thay đổi theo thị trường thị hiếu của khách hàng. Công ty luôn sản xuất
theo đơn đặt hàng là chính, theo mức thành phẩm tồn kho và cả theo năng lực sản xuất
của công ty.
Hiện nay nhu cầu của thị trường càng ngày càng đòi hỏi doanh nghiệp phải đổi
mới chủng loại sản phẩm cả về mẫu mã lẫn chất lượng.
Đối với mặt hàng gốm sứ hiện nay của công ty không đủ đáp ứng nhu cầu của
người tiêu dùng vì cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế. Khi khách hàng đặt hàng mà
công ty không đáp ứng được loại mặt hàng này (công ty không sản xuất hàng hoá
này) thì công ty có thể nhập hàng của các cơ sở sản xuất gốm sứ tư nhân để đáp ứng
đầy đủ và kịp thời nhu cầu của khách hàng.
Bảng 2: Tình hình sản xuất hàng hoá năm 2006 – 2008
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Tổng giá trị sản xuất Triệu 880 850 680
Tổng sản lượng hàng hoá Chiếc 129350 115900 59210
Nguồn: Giá trị sản xuất năm 2006-2008 của công ty TNHH Thu Phương
Bảng 3: Tình hình sản xuất nguyên liệu sứ năm 2006 - 2008
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Tổng giá trị sản xuất Triệu 912 855 712,5
Tổng sản lượng hàng hoá Tấn 3200 3000 2500
Nguồn : Giá trị sản xuất năm 2006-2008 của công ty TNHH Thu Phương
Số liệu trên cho chúng ta thấy sản lượng sản xuất các mặt hàng thay đổi nhiều. So
với năm 2007, năm 2008 tổng giá trị sản xuất giảm nhiều. Điều này cho thấy doanh
nghiệp đã không tiêu thụ được sản phẩm, trong năm công ty Thu Phương đã không có
nhiều đơn đặt hàng, đây chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng doanh nghiệp không mở rộng
thị trường, thị phần của công ty ngày càng bị thu hẹp.
Từ mấy năm trở lại đây công ty Thu Phương đã bị giảm dần sản lượng sản phẩm
đặc biệt là sản lượng sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu, sản xuất kinh doanh của
công ty cũng bị giảm sút nhiều.
Mặt khác tình hình sản xuất nguyên liệu sứ của công ty phục vụ cho sản xuất và
kinh doanh cũng giảm dần. Công ty TNHH Thu Phương mua nguyên liệu phục vụ cho
sản xuất thô về chế biến rồi bán cho tập thể và cá nhân trong vùng và các vùng lân
cận. Nhưng bây giờ khi các nhà lò tư nhân làm ăn có hiệu quả họ mở rộng sản xuất
xây dựng các khu chế biến nguyên liệu đầu vào từ việc nhập về nguyên liệu thô và chế
biến lấy. Nguyên liệu sứ của công ty còn phục vụ cho sản xuất của công ty nhưng việc
sản xuất sản phẩm của công ty ngày càng thu hẹp nên nhu cầu dùng nguyên liệu sứ
của công ty giảm đáng kể.
Bảng 4 : Tình hình sản xuất chính của công ty TNHH gốm sứ Thu Phương
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
So sánh
tuyệt đối
2007/2006
So sánh
tuyệt đối
2008/2007
Bát cơm,tô Chiếc 39500 37950 10970 -1550 -26980
Đĩa các loại Chiếc 11400 10500 7200 -900 -3300
Ấm các loại Chiếc 10970 8986 2398 -1984 -6588
Chén các loại Chiếc 12660 11240 7713 -1420 -3527
Lọ hoa Chiếc 5680 1560 990 -4120 -570
Chậu hoa Chiếc 9500 8500 6274 -1000 -2226
Gốm sứ
mỹ nghệ
Chiếc 39640 37164 23665 -2476 -13499
Nguồn: Giá trị sản xuất năm 2007-2008 của công ty Thu Phương
Bảng số liệu trên đã phản ánh được tình hình sản xuất sản phẩm chính của công
ty. Nhìn chung tất cả các sản phẩm sản xuất ra của công ty đều giảm qua các năm. Cụ
thể sản phẩm giảm nhiều nhất là Bát cơm, Bát tô giảm 26980
C
năm 2008 so với năm
2007, sau đó đến ấm chén các loại. Tất cả các sản phẩm đều giảm điều này cho thấy
việc sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng đi xuống.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY TNHH
GỐM SỨ THU PHƯƠNG
I. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GỐM SỨ TẠI CÔNG TY TNHH
GỐM SỨ THU PHƯƠNG.
1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu gốm sứ của công ty.
Cùng với chiến lược đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế quốc
tế của đất nước, Công ty chủ trương phát triển phương châm đa dạng hoá quan hệ thị
trường song vẫn phải xây dựng thị trường trọng điểm và bạn hàng chủ yếu. Mục tiêu là
đẩy mạnh công tác xuất khẩu các sản phẩm của đơn vị trong và ngoài ngành nhằm thu
ngoại tệ và tăng cao doanh số xuất khẩu. Công ty xác định và phân chia thị trường có
tiềm năng và cần tập trung đẩy mạnh xuất khẩu.
Bảng 5: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng gốm sứ theo thị trường.
Đơn vị: 1000 USD
Năm 2005 2006 2007 2008
Trị giá % Trị giá % Trị giá % Trị giá %
1. ASEAN 418,51 34,52 344,33 26,07 616,6 38,6 487,11 34,62
2. Nga, Đông Âu 657,59 54,24 824,7 62,44 768,67 48,12 634,56 45,1
3. EU, Nhật, Bắc
Mỹ
81,47 6,72 102,89 7,79 139,29 8,72 158,01 11,23
4.Trungđông,
TâyÁ, Nam Á
38,92 3,21 39,23 2,97 72,04 4,51 99,89 7,1
5. Các nước khác 15,89 1,31 9,64 0,73 0,8 0,05 27,44 1,95
Tổng số 1212,38 100 1320,79 100 1597,4 100 1407,01 100
Nguồn: Phòng kinh doanh Công ty Thu Phương
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
2005 2006 2007 2008
,-,
./01
-2.3."4!
(5
/0.
67.7
7!8&!7!
Bảng 6: Danh sách khách hàng chính của Công ty.
Khách hàng Thị trường Tên hàng
Đã thực
hiện (USD)
Đang thực
hiện
(USD)
1.Westpoint Philippines bát 214.382,2 54.063
2.I-ceramic Nhiều nước đĩa 88.359,38 283.690
3.Deco art Philippines bát 11.620,00 22.354
4.Adventure Philippines Lọ 81.679,12
5.Vitalex Ukraina chén 10.370,00
6.Hitaka Đài Loan ấm trà 16.798,20
7.PSP Limitd New zealand chậu 4.140,00
8.Continental Brunei chậu 10.596,50
9.Best Tiles Malaysia chén 6.672,00
10.Leroong Đài Loan bát 3.912,00
11.Megami New zealand đĩa 8.060,59
12.Sunking Đài Loan lọ hoa 1.876,00
13.Valid Mauritius ấm trà 11.000,00
Nguồn: Phòng Xuất nhập khẩu Công ty gốm sứ Thu Phương
Như vậy, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập
khẩu là Nga và Đông Âu sau đó là ASEAN. Nga và Đông Âu là các nước XHCN cũ vì
vậy có quan hệ tốt với Việt Nam. Quan hệ chính trị tốt đẹp đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các quan hệ kinh tế phát triển.
- Thị trường ASEAN: Đây là thị trường có quan hệ gần gũi lâu năm với Việt
Nam và có vị trí địa lý gần với Việt Nam, do đó hàng hoá xuất khẩu sang thị trường
này có nhiều điều kiện thuận lợi như: Chi phí vận chuyển thấp, mặt khác các nước
ASEAN trong đó có Việt Nam đã ký hiệp định ưu đãi thuế quan chung ASEAN
(CEPT) nên hàng hoá Việt Nam xuất khẩu được hưởng mức thuế ưu đãi hơn rất nhiều
so với hàng hoá của các nước khác ngoài ASEAN. Đối với thị trường này Công ty sẽ
tìm kiếm các đối tác để xuất khẩu gốm sứ. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu Công ty
vào các nước ASEAN là 418,51 nghìn USD chiếm 34,52% đứng thứ hai sau thị trường
Nga và Đông Âu. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu vào ASEAN giảm xuống 344,33
nghìn USD, chiếm 26,07% tổng giá trị xuất khẩu do các nước ASEAN mới khôi phục
lại sau cuộc khủng hoảng tài chính. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu sang khu vực thị
trường này tăng mạnh lên 616,6 nghìn USD chiếm 38,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này giảm xuống là 487,11 nghìn USD
chiếm 34,62% tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Thị trường Nga và Đông Âu: Đây là khu vực thị trường mà Công ty có giá trị
xuất khẩu lớn nhất; Năm 2005 xuất khẩu 657,59 nghìn USD chiếm 54,24%. Năm 2006
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này là 824,7 nghìn USD chiếm đến 62,44% tổng
giá trị xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài. Năm 2007 mặc dù giá trị xuất khẩu
sang thị trường này giảm xuống còn 768,67 nghìn USD chiếm 48,12% tổng giá trị xuất
khẩu. Năm 2008 tỷ trọng xuất khẩu của thị trường này lại giảm tiếp còn 45,1% tổng
giá trị xuất khẩu với giá trị là 634,56 nghìn USD. Đây là thị trường tiềm năng trong
giai đoạn tới mặc dù sản phẩm sứ vệ sinh của Công ty đang tiêu thụ tốt tại đây nhưng
Công ty sẽ đẩy mạnh hơn nữa trong việc phát triển đa dạng hoá xuất khẩu sản phẩm và
mục tiêu trong giai đoạn tới là đưa sản phẩm gốm sứ sang thị trường này thông qua
Phòng thương mại của các nước này tại Việt Nam, Văn phòng đại diện của Tổng công
ty tại Nga và một số đối tác nước ngoài có quan hệ với Tổng công ty đồng thời vận
dụng chủ trương của Nhà nước trong công tác đưa hàng do các đơn vị trong Tổng
công ty sản xuất sang thanh toán các khoản nợ với các nước này.
- Thị trường EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ: Đây cũng là thị trường có tiềm năng lớn.
Tuy nhiên xuất khẩu sang thị trường này còn thấp mặc dù vẫn tăng dần qua các năm.
Kế hoạch của Công ty là sẽ thiết lập các đại lý tại thị trường các nước này.
-Thị trường Trung Đông, Tây Á, Nam Á và một số nước khác: đây là nhóm thị
trường còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Công ty đang tìm cách xâm nhập và khai thác thị
trường này.
Bên cạnh đó, Công ty cần chú trọng tới việc chăm sóc khách hàng thông qua
những khách hàng lớn của Công ty để mở rộng thị trường xuất khẩu.
2. Cơ cấu mặt hàng gốm sứ xuất khẩu của công ty :
Các mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu là Bát cơm,tô, Đĩa các loại, Ấm các loại,
Chén các loại, Lọ hoa, Chậu hoa, Gốm sứ mỹ nghệ.
Kim ngạch xuất khẩu hàng chậu hoa thường chiếm trên 60% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Vì vậy, Công ty cần có chương trình phù hợp để thúc đẩy xuất khẩu hai mặt
hàng này.
Bảng 7: Tình hình tiêu thụ các sản phẩm chính của công ty
Đơn vị : Chiếc
Sản phẩm 2006 2007 2008
So sánh
tuyệt đối
năm
2007/2006
So sánh
tuyệt
đốinăm
2008/2007
Bát cơm,tô 38450 36820 10900 -1630 -25920
Đĩa các loại 11380 10500 7250 -880 -3250
Ấm các loại 10950 8966 2300 -1984 -6666
Chén
các loại
12600 11200 7680 -1400 -3520
Lọ hoa 5600 1540 990 -4060 -550
Chậu hoa 9450 8480 6243 -4060 -2237
Gốm sứ mỹ
nghệ
39400 37094 23600 -2306 -13494
Nguồn: Báo cáo tổng hợp kết quả kinh doanh năm 2006-2008 của công ty TNHH
gốm sứ Thu Phương
Kết hợp bảng số liệu tình hình sản xuất và số liệu tình hình tiêu thụ sản phẩm
của công ty TNHH gốm sứ Thu Phương ta có thể thấy rõ hầu hết các sản phẩm sản
xuất ra đều tiêu thụ hết. Điều này thật dễ thấy bởi trong những năm gần đây việc tiêu
thụ sản phẩm của công ty giảm xuống rõ rệt nên công ty thường sản xuất theo các đơn
hàng nên lượng hàng sản xuất ra hầu như tiêu thụ được hết . Nhìn nhận một cách cụ
thể ta thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty ngày một giảm qua các năm đặc
biệt là năm 2008.
3. Khả năng cạnh tranh của mặt hàng gốm sứ xuất khẩu.
Mặc dù đã có nỗ lực cố gắng trong công tác tìm kiếm khách hàng và tiếp thị sản
phẩm đến các bạn hàng nước ngoài, tuy nhiên những kết quả mà Công ty TNHH gốm
sứ Thu Phương thu được còn nhiều hạn chế. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của sản phẩm gốm sứ trên thị trường xuất khẩu, chủ yếu là những
nguyên nhân chính như: giá cả thiếu cạnh tranh, chất lượng của nhiều sản phẩm còn
chưa cao và chưa ổn định, mẫu mã chưa phong phú.
Các đơn vị thành viên chưa có chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với xuất khẩu, xác
định giá bán xuất khẩu chưa cạnh tranh, không tính khấu hao, lợi nhuận để thâm nhập
vào thị trường. Việc nghiên cứu đưa ra một bảng giá xuất khẩu hợp lý và công khai đối
với các sản phẩm trên cơ sở đã thống nhất về một mức giá sàn được Tổng công ty phê
duyệt là hết sức cần thiết. Trên cơ sở mức giá sàn này, Công ty TNHH gốm sứ Thu
Phương mới có thể chủ động và linh hoạt chào hàng cho các đối tượng khách hàng
khác nhau, tuỳ từng thị trường và điều kiện thương mại cụ thể.
- Về chất lượng sản phẩm: Công tác nghiên cứu nhằm cải thiện nâng cao chất
lượng sản phẩm đã được Công ty chú trọng hơn trong thời gian qua.
- Về mẫu mã sản phẩm: Đối với thị trường nước ngoài, do thị hiếu và yêu cầu
của khách hàng nhiều khi khác xa với thị hiếu của khách hàng trong nước nên việc đa
dạng hoá mẫu mã, thiết kế và màu sắc sản phẩm là một công việc hết sức cần thiết và
không thể bỏ qua được. Nắm bắt được điều này các đơn vị thành viên trong Tổng công
ty đã tăng cường công tác nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu thị trường, nhờ đó trong những
năm qua mẫu mã sản phẩm không ngừng được cải thiện, nhiều sản phẩm mới ra đời và
đã được khách hàng ưa chuộng. Khi nhận được thư hỏi hàng của khách hàng về một
mẫu mã sản phẩm mới, các đơn vị sản xuất đã khẩn trương nghiên cứu để có thể trả lời
khách hàng một cách chính xác trong thời gian ngắn nhất về khả năng sản xuất của
loại sản phẩm đó.
4. Chiến lược phát triển của công ty.
Đây là những nhân tố sẽ chi phối và tác động trực tiếp đến hoạt động tiêu thụ sản
phẩm trong từng thời kì. Trong thời gian hoạt động của mình, công ty thường xuyên
đưa ra những chiến lược phát triển cho phù hợp với biến động của thực tế do đó luôn
làm thay đổi kết quả tiêu thụ. Nếu công ty xác định đúng mục tiêu, lựa chọn đúng
chiến lược kinh doanh thì khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên rất nhiều, khi
đó công ty biết chắc rằng thị trường cần gì và cần bao nhiêu, để từ đó có kế hoạch sản
xuất hợp lý tránh được tình trạng tồn kho, thúc đẩy tiêu thụ, quay nhanh vòng quay
của vốn, tăng doanh thu, giảm bớt các chi phí không cần thiết.
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GỐM SỨ CỦA CÔNG TY TNHH
GỐM SỨ THU PHƯƠNG.
1. Đánh giá về kết quả xuất khẩu gốm sứ hiện nay của Công ty:
Trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu gốm sứ của Công ty đã đạt được một
số kết quả đáng khích lệ, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu luôn tăng lên trong các năm,
mặt hàng của Công ty đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trên thị trường
quốc tế.
- Về mặt hàng: Nhằm đáp ứng nhu cầu rất phong phú và đa dạng đồng thời
cũng rất khắt khe của thị trường trong và ngoài nước. Công ty đã tiến hành mở rộng
các mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu gốm sứ của Công ty ngày càng được
đổi mới về hình thức, mẫu mã, chất lượng…đã tạo cho Công ty uy tín trên thị trường.
- Về thị trường: Công ty đã duy trì mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài với các thị
trường truyền thống như Nga, Đông Âu, các nước ASEAN…đồng thời Công ty cũng
đang cố gắng mở rộng thị trường sang thị trường mới như Mỹ, New Zeland, Iraq…
Công ty đã tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ không chỉ theo chiều rộng mà cả theo
chiều sâu.
- Công ty đã tổ chức xây dựng mối quan hệ tốt với các đơn vị nguồn hàng, quan
tâm hơn đến công việc của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty, nên nguồn hàng
của Công ty tương đối ổn định.
- Về công tác tổ chức quản lý và cơ chế hoạt động: Công ty đã tạo được uy tín
và khẳng định được mình với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Công
ty áp dụng chặt chẽ việc kiểm kê định kỳ và đột ngột để bảo đảm tránh thất thoát, thiếu
hụt do hàng thiếu, hàng kém chất lượng, phẩm chất. Để tăng hiệu quả lao động, Công
ty quản lý lao động theo thời gian hay khoán sản phẩm đều phải thực hiện việc ký kết
hợp đồng, việc ký kết này đều phải dựa trên sự thoả thuận của mỗi bên. Công ty có chế
độ khen thưởng thích đáng để động viên tinh thần cán bộ công nhân viên có tinh thần
trách nhiệm trong công việc. Bên cạnh đó, Công ty cũng sẽ kỷ luật nghiêm khắc với
các quy chế của Công ty và pháp luật.
- Công ty có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên đông đảo có trình độ. Họ là
những con người rất năng động, sáng tạo trong công việc. Từ đó có thể thấy Công ty
có khả năng phát triển hơn nữa nhờ vào lực lượng cán bộ công nhân viên này.
- Mặc dù mới tham gia trực tiếp vào kinh doanh thương mại quốc tế nhưng với
tinh thần luôn cố gắng học hỏi, đến nay Công ty đã có khá nhiều kinh nghiệm trong
hoạt động kinh doanh quốc tế.
- Các cơ quan, chính quyền, uỷ ban nhân dân thành phố, các ngành tài chính,
cục thuế, ngân hàng cùng với các Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Thương mại đã luôn quan
tâm, chỉ đạo và giúp đỡ Công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng của mọi doanh nghiệp trong quá
trình tổ chức và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hiệu quả kinh
doanh sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thương trường. Dù
hiệu quả kinh doanh thu được đạt hay không đạt như kế hoạch của doanh nghiệp đã đề
ra đều cần phải xem xét, đánh giá và tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp đến kết quả này.
Trên cơ sở phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh, ban lãnh đạo
Tổng công ty sẽ có những thông tin cần thiết để ra những quyết định sửa chữa và điều
chỉnh kịp thời những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đề ra.
Kết quả hoạt động xuất khẩu của Công ty được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
Kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH gốm sứ Thu Phương.
Bảng 8: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Năm 2007 Năm 2008 Mức độ
tăng
(giảm)
Tổng doanh thu Triệu
đồng
7160 3842 -3318
Chi phí bán hàng 1000đ 48389 40650 7739
Chi phí quản lý 1000đ 68340 68340
Nộp ngân sách 1000đ 127000 102000 -17085
Lợi nhuận thực hiện 1000đ 495778 236800 -258978
Thu nhập bình quân 1000đ 560 460
Kim ngạch xuất khẩu Triệu 6950,261 2329,056
Nguồn:Báo cáo tổng hợp kết quả kinh doanh năm 2007-2008 của công ty TNHH
gốm sứ Thu Phương.
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy khá rõ về tình hình kinh doanh của công ty
Thu Phương. Nhìn tổng thể thì tổng doanh thu năm 2008 giảm so với năm 2007. Cụ
thể năm 2008 tổng doanh thu đạt 3842 triệu đồng giảm (-3310) triệu đồng so với năm
2007. Đây là điều mà không một công ty nào muốn như vậy, con số trên phản ánh sự
đi xuống trong kinh doanh của công ty. Với tình hình như hiện nay công ty cần phải cố
gắng về mọi mặt thì mới có thể đi lên được, đặc biệt là phải cố gắng trong công tác
xúc tiến tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu giảm dẫn đến lợi nhuận của công ty cũng giảm.
Năm 2008 lợi nhuận của công ty đạt được là 236,8 triệu đồng giảm 258,98 triệu đồng
so với năm 2007 (lợi nhuận năm 2008 giảm hơn một nửa so với năm 2007 ).
Lợi nhuận của công ty giảm nên thu nhập bình quân người lao động cũng giảm.
Thu nhập bình quân năm 2008 là 460000 đồng/người giảm 100000 đồng/người so với
năm 2007. Thu nhập giảm đòi hỏi toàn doanh nghiệp phải nỗ lực cố gắng hơn nữa thì
mới có thể thoát khỏi tình trạng này.
Tuy nhiên cho dù công ty làm ăn không hiệu quả thì công ty vẫn luôn làm nghĩa
vụ đối với nhà nước. Năm 2007 công ty đã nộp đủ triệu đồng và năm 2008 nộp ngân
sách là 102 triệu đồng. Xét về kim nghạch xuất khẩu ta cũng không thấy có khả quan.
Năm 2008 giá trị xuất khẩu là 2329,056 triệu đồng giảm 4621205 triệu đồng so với
năm 2007. Muốn tăng giá trị xuất khẩu thì doanh nghiệp phải đầu tư xây dựng thêm lò
nung bằng gas vì lò nung này cho sản phẩm có mằu men bóng đẹp, nét vẽ nổi bật .
2. Đánh giá chung trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu gốm sứ
của Công ty.
2.1. Những thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gốm sứ của Công ty:
Việc đánh giá những thuận lợi và khó khăn sẽ giúp cho Công ty tận dụng và
khai thác nó một cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
- Để có thể xem xét kỹ hơn về những thuận lợi và khó khăn của Công ty trong
hoạt động kinh doanh xuất khẩu gốm sứ ta xem xét theo khu vực thị trường:
Những khó khăn, thuận lợi trong quá trình tiếp thị và xuất khẩu sản phẩm gốm
sứ vào các thị trường này:
+ Thị trường khu vực ASEAN: Đây là thị trường gần với Việt Nam nên có
nhiều ưu thế trong việc giảm chi phí vận chuyển hàng. Tuy nhiên, việc xuất khẩu các
sản phẩm sang thị trường các nước trong khu vực là rất khó khăn bởi chính các nước
này đang ở trong tình trạng khủng hoảng thừa (tại Inđônêsia và Thái Lan, do khủng
hoảng thừa vào năm 1998 các nước này đã phải bán phá giá các mặt hàng gốm sứ.
Hiện nay, sản lượng các mặt hàng gốm sứ đã vượt xa cầu ở các nước này). Mặt khác,
giá bán sản phẩm tại các thị trường này cũng thấp hơn so với giá tại Việt Nam (để tiêu
thụ tại thị trường này cần phải tính đến chi phí vận chuyển và thuế nhập khẩu).
+ Thị trường Đài Loan, Hàn Quốc và một số nước Châu Á khác: Thời gian vừa
qua Tổng công ty đã xuất khẩu lọ sứ, lọ chịu lửa sang thị trường Đài Loan, xuất khẩu
tượng và chào hàng lọ chịu lửa sang thị trường Nhật Bản, tượng và kính lọ trang trí
sang Singapore. Nhìn chung đây là các thị trường có nhiều lợi thế trong việc bán hàng
như: chi phí vận tải thấp, chi phí bán hàng, thuế nhập khẩu ở mức tương đối, thực tế
các nước này hầu hết nhập khẩu gốm sứ từ nước ngoài do đó hàng gốm sứ không bị
cạnh tranh gay gắt với chính hàng các nước này sản xuất. Hiện nay, Tổng công ty đang
tiếp tục đẩy mạnh và phát triển xuất khẩu vật liệu gốm sứ sang những nước này.
+ Thị trường Hoa Kỳ, Tây Âu: Tổng công ty đang tích cực đẩy mạnh xuất khẩu
hàng sang thị trường Hoa Kỳ, chuẩn bị tiếp cận trước khi Hiệp định thương mại Việt -
Mỹ được ký kết. Vừa qua, Tổng công ty đã nhiều lần gửi mẫu cũng như chào hàng cho
các bạn hàng Hoa Kỳ và tiến tới thiết lập hệ thống đại lý và văn phòng đại diện tại Hoa
Kỳ.
2.2. Những hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thời gian qua hoạt động kinh doanh của
Công ty còn nhiều hạn chế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, đó là:
-Hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, manh mún.
Điều này thể hiện trong việc Công ty xuất khẩu nhiều mặt hàng thuộc lĩnh vực gốm sứ
với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại của từng mặt hàng là rất thấp. Kế hoạch kinh
doanh và việc thực hiện nó còn có một khoảng cách lớn. Việc đó dẫn đến hoạt động
kinh doanh của Công ty còn mang tính phi vụ bị động.
- Các sản phẩm của gốm sứ như tượng, bát, ấm chén…chưa đăng ký các tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế. Vì vậy, sẽ rất khó khăn cho việc chào hàng ra nước ngoài.
- Chất lượng của gốm sứ chưa đủ tiêu chuẩn ổn định xuất khẩu sang thị trường
Châu Âu, Mỹ.
- Công ty chưa thiết lập được các chi nhánh văn phòng đại diện hoặc đại lý tiêu
thụ của Công ty ở nước ngoài, chưa có hệ thống marketing tìm hiểu về nhu cầu, thị
hiếu, giá cả các sản phẩm của Công ty ở nước ngoài. Điều này làm giảm sức cạnh
tranh của Công ty, làm mất dần các thị trường truyền thống và không thể xâm nhập
vào các thị trường xuất khẩu mới.
- Công ty mới được thành lập do đó vấn đề tổ chức và quản lý của Công ty chưa
hợp lý. Nó ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu của Công ty, làm giảm hiệu
quả hoạt động kinh doanh, gây ra sự lãng phí.
- Tình hình mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu tương đối lớn, do đó chưa
tiết kiệm nguồn ngoại tệ trong khi hầu hết các dây truyền sản xuất của các đơn vị
thành viên trong Tổng công ty đều được đầu tư bằng vốn vay ngân hàng nên việc cân
đối tài chính để trả nợ đầu tư còn rất nan giải.
- Do phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu để phục vụ sản xuất cộng với việc phải
tăng cường khấu hao máy móc thiết bị nên giá cả các sản phẩm còn cao, kém sức cạnh
tranh với các hãng trong và ngoài nước.
Những hạn chế trên của hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất
khẩu nói riêng là kết quả của nhiều nguyên nhân, cả khách quan và cũng như chủ
quan.
* Nguyên nhân khách quan:
- Nước ta là một nước có nền công nghiệp còn lạc hậu nhiều so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Công nghệ máy móc của ta thường đi sau các nước phát
triển. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại mới tham gia vào hoạt động kinh
doanh trên thị trường thế giới trong điều kiện thị trường thế giới đã được phân chia,
phân công lao động quốc tế đã được xây dựng tương đối ổn định. Các doanh nghiệp
Việt Nam đang còn non trẻ đã phải chấp nhận cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia
có nhiều kinh nghiệm trên thị trường.
- Cơ chế quản lý trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung còn nhiều bất cập.
Từ năm 1995 Nhà nước ta đã tổ chức và sắp xếp lại hệ thống lưu thông, phân phối các
đầu mối xuất khẩu. Nhà nước tự do hoá lưu thông phân phối, mở rộng quyền tự chủ
cho các loại hình doanh nghiệp có thể mua bán ở thị trường nội địa để từ đó phục vụ
cho xuất khẩu. Tuy nhiên, vẫn có sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các thương
nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động mua bán gốm sứ xuất khẩu. Mặt khác, công tác
quản lý hoạt động xuất khẩu vẫn còn nhiều tồn tại thể hiện:
+ Hệ thống văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh, nhiều công văn còn chung
chung chưa rõ ràng, cụ thể là một số quy định còn bất hợp lý hay không có tính khả
thi. Và đặc biệt là sự bất ổn định, thay đổi quá nhiều, quá nhanh của những văn bản
này khiến cho các doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm trong hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Việc phối hợp giữa các ban ngành trong nước về việc chống buôn lậu và
gian lận thương mại chưa tốt gây sức ép cho việc sản xuất của các đơn vị thành viên
trong Tổng công ty ngay tại thị trường nội địa nên hiệu quả kinh doanh chưa cao, chưa
khai thác được lợi thế nhờ quy mô để giảm giá thành hàng xuất khẩu.
+ Hệ thống thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều bất cập, các danh mục hàng
hoá tính thuế chưa đầy đủ dẫn đến việc áp dụng tuỳ tiện, nhiều thuế xuất chưa hợp lý,
còn có các hiện tượng thuế chồng thuế.
+ Công tác hải quan vẫn gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Các thủ
tục này tuy đã có sự đơn giản song người xuất khẩu vẫn còn gặp nhiều phiền phức
trong thái độ quan liêu của nhân viên hải quan, họ thường thiếu tinh thần hợp tác và
không mấy thiện chí.
+ Công tác tổ chức thông tin giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh
nghiệp chưa tốt, chưa kịp thời, đồng bộ và chất lượng chưa cao. Nhà nước chưa quan
tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo
nguồn hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng thị
trường xuất khẩu.
* Những nguyên nhân chủ quan.
- Công ty vẫn chưa có đủ uy tín và tên tuổi trên thị trường quốc tế, nhiều mặt
hàng gốm sứ của Công ty kinh doanh đến nay vẫn rất khó khăn trong việc tạo chỗ
đứng trên thị trường thế giới.
- Công ty chưa chủ động đưa ra những biện pháp marketing cần thiết để tìm
hiểu một cách sâu sắc hơn nhu cầu thị trường. Vì vậy mà khả năng tìm kiếm thông tin
về thị trường của Công ty chưa mang tính cập nhật, nhanh chóng và chính xác, tạo nên
sự không ổn định về thị trường và khả năng xâm nhập là không mấy hiệu quả.
- Do các sản phẩm phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm của các hãng nổi
tiếng, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh cũng như tiềm lực tài chính và thị phần vững
chắc trên thị trường quốc tế.
- Giá bán một số chủng loại sản phẩm chưa hợp lý, chưa phản ánh được mức
giá tương đương của thị trường quốc tế, cụ thể là đối với các mặt hàng chậu, tượng giá
chào hàng còn cao chưa cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước khác trên
thị trường thế giới.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GỐM SỨ
CỦA CÔNG TY TNHH GỐM SỨ THU PHƯƠNG
I. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIÊM VỤ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU MẶT HÀNG
GỐM SỨ Ở CÔNG TY TNHH GỐM SỨ THU PHƯƠNG.
Căn cứ vào số liệu thực hiện các năm trước, Công ty nhận thấy việc thực hiện
kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng khó khăn, nhất là từ khi NĐ 57/CP ra đời làm
tăng sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Do vậy, mỗi năm Công ty đều đặt mục tiêu
mở rộng khách hàng, thị trường, mặt hàng nhưng cứ mở rộng được 2 khách hàng thì
lại mất 1 khách hàng cũ do cạnh tranh hoặc do khách hàng đó tự mình kinh doanh xuất
khẩu. trước tình hình đó Công ty dự kiến xây dựng kế hoạch 2005-2008 như sau:
Biểu 9: Kế hoạch phát triển kinh doanh sản xuất giai đoạn 2007-2010
Đơn vị: USD
Chỉ tiêu Đ.v tính KH 2007 KH 2008 KH 2009 KH 2010
KN XK tr.USD 12.500 13.000 13.500 14.000
XK uỷ thác 8.200 8.300 8.500 8.500
Hàng TCMN 10.700 11.000 11.200 11.500
MH khác 1.800 2.000 2.300 2.500
Tổng DT triệu USD 123.700 128.500 130.000 135.000
DT XK 60.000 65.000 70.000 80.000
LN thực hiện 1.200 1.250 1.560 1.875
Nộp NS 5.800 6.450 6.850 7.450
Tổng lương 5.200 5.500 6.000 6.500
Số lao động người 355 350 345 340
Nguồn: chỉ tiêu kế hoạch năm 2010
1. Nhiệm vụ cụ thể
1.1 Công tác tổ chức xuất khẩu
Trong cơ chế thị trường như hiện nay, Công ty cần tăng cường tự tổ chức sản
xuất, gắn bó chặt ché với các cơ sở sản xuất vệ tinh, chủ động tham gia quản lý chất
lượng, giá cả hàng xuất khẩu. Đôị ngũ cán bộ công ty cần nắm vững và thực hiện
nghiêm chỉnh các chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước, đặc biệt là Luật thương
mại và luật thuế giá trị gia tăng. Ngoài ra, việc sử dụng tổng hợp các hình thức kinh
doanh XNK: tự doanh, uỷ thác, gia công, tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu, chuyển khấu
v.v…cũng ảnh hưởng tích cực đến xuất khẩu. Trong thời gian tới, cần thiết phải đẩy
mạnh hơn nữa xuất khẩu hàng Thủ công mỹ nghệ truyền thốngcho phù hợp với chủ
trương và chính sách của nhà nước. Mặt khác, đề xuất với bộ và Nhà nước các đề án
để duy trì và phát triển mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, các mặt hàng nông
sản chế biến, khoáng sản và các mặt hàng khác để tạo cơ sở cho sản xuất hàng xuất
khẩu của Công ty trong năm tới.
1.2 Công tác thị trường
Công ty cần tìm mọi biện pháp để tham gia thực hiện được chỉ tiêu trả nợ nghị
định thư của Nhà nước, tìm mọi biện pháp mở rộng thị trường ngoài nghị định thư,
củng cố và duy trì các thị trường cũ, nơi đã tiêu thụ khối lượng hàng thủ cong mỹ nghệ
của Công ty ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Nhật Bản, Sin gapore, Đài Loan,
Hàn Quốc…mở rộng và phát triển sang thị trường mới ở Trung Cận Đông, Tây Bắc
Âu và các nước ASEAN để được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan. Cần duy trì, củng cố
và phát triển thị trường Đông Âu- SNG và áp dụng các chính sách, phương thức buôn
bán linh hoạt, có thể tiếp cận buôn bán với thị trường Trung Quốc. Công ty cần tích
cực, mở rộng và có chính sách thích hợp với các thương nhâ, Công ty ở thị trường Mỹ
nhằm đẩy nhanh kim ngạch XNK vào thị trường này. Cần tăng cường hơn nữa việc cử
các đoàn đi dự hội chợ và đoàn đi nước ngoài để tìm kiếm thị trường.
1.3 Công tác quản lý và các công tác khác.
Hoạt động XNK ngày càng khó khăn, phức tạp, trong khi quá trình cải cách
kinh tế và xây dựng các quy chế luật pháp để cho các doanh nghiệp hoạt động chưa thể
đồng bộ và kịp thời. Để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh XNK, Công ty đã
ban hành và tiếp tục hoàn chỉnh bổ sung các quy chế hoạt động. Công ty đã cố gắng
hoàn thiện quy chế quản lý tài chính, XNK và hạch toán kinh doanh, quy chế về quan
hệ và lề lối làm việc trong nội bộ Công ty. Công ty có kế hoạch tinh giảm bộ máy quản
lý, phục vụ, chú trọng phát triển các đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc, tăng cường
phát huy tính chủ động sáng tạo của tập thể cán bộ công nhân viên sao cho phù hợp
với sự đổi mới trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trong tương lai,
cần chú ý xây dựng quy hoạch đào tạo và bội dưỡng cán bộ kế cận có đức có tài, đảm
đương được nhiệm vụ phát triển Công ty trong thời gian tới. Ngoài ra phải quan tâm
bổ sung và hoàn thiện thoả ước lao động tập thể, thực hiện hợp đồng lao động trong
nội bộ Công ty và hoàn thiện việc lập sổ bảo hiểm xã hội. Công ty cần thực hiện tốt
các chính sách về lương, khen thưởng, kỷ luật trong sản xuất kinh doanh. Cần củng cố
các tổ chức Đảng, đoàn thể và các chi nhánh, văn phòng trực thuộc. Mặt khác, phải
chú trọng giữ gìn đoàn kết, nhất trí trong nội bộ, đảm bảo cho an ninh kinh tế, chính
trị, nội bộ an toàn, đảm bảo công ăn việc làm, chăm lo đời sống của cán bộ công nhân
viên. Quản lý kinh doanh phải được thực hiện có hiệu quả ở các đơn vị trực thuộc.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GỐM SỨ TẠI CÔNG TY TNHH GỐM SỨ THU
PHƯƠNG.
1.Giải pháp vĩ mô :
1.1. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại ở cấp quốc gia :
+ Hoàn thiện công tác xúc tiến thương mại:
Trong cơ chế thị trường hiện nay, tình hình thị trường luôn biến động đã tạo ra
các cơ hội, cũng như những rủi ro cho các doanh nghiệp. Điều này lại càng được
khẳng định đối với lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, vì phạm vi thị trường vượt khỏi biên
giới quốc gia. Chính vì vậy, các doanh nghiệp ngày nay không thể không thường
xuyên nghiên cứu - tiếp cận thị trường và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Chỉ có như
vậy, các doanh nghiệp mới có khả năng nắm bắt được các cơ hội của thị trường và tận
dụng nó dựa trên khả năng hiện có của mình.
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường là phương thức quan trọng để Công
ty có thể tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh. Việc nghiên cứu thị trường là việc
làm cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ công ty nào muốn tham gia kinh doanh xuất khẩu
vào thị trường quốc tế.
Nghiên cứu thị trường thực chất là điều tra để tìm hiểu triển vọng bán hàng cho
một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu
đó. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong công tác nghiên cứu thị trường Công ty có thể
tiến hành một số biện pháp:
Thành lập một bộ phận chuyên nghiên cứu thị trường, bộ phận này sẽ đảm nhận
công việc thu thập, xử lý thông tin về thị trường. Ngày nay, thông tin đã trở thành một
nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác, chúng ta muốn hiểu biết về khách hàng phải
thông qua thông tin. Nhu cầu về thông tin ngày càng trở nên cấp bách do thị trường
thay đổi về quy mô và phạm vi sự thay đổi về chất của nhu cầu, sự lựa chọn của khách
hàng thay đổi, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với những hình thức ngày càng đa
dạng, Chính vì vậy, thu thập và xử lý thông tin để đưa ra những kết luận về thị trường,
dự báo những biến động về cung, cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong nghiên cứu thị trường. Để nâng cao hiệu quả trong việc thu thập
và xử lý thông tin Công ty cần phải:
+ Đầu tư thay thế, mua mới các trang thiết bị xử lý lưu trữ thông tin hiện đại,
đây là việc làm cần thiết ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả làm việc của cán bộ nghiên
cứu thị trường, tạo điều kiện cho việc thu thập và xử lý thông tin diễn ra nhanh hơn,
nhanh chóng nắm bắt được cơ hội, thời cơ kinh doanh.
+ Tích cực quan hệ với các cơ quan thông tin về xuất khẩu như phòng Thương
mại Việt Nam, Bộ Thương mại, Đài phát thanh truyền hình.
+ Lập các văn phòng đại diện, chi nhánh tại các thị trường xuất khẩu trọng
điểm. Các đại diện này ngoài việc giúp cho Công ty trong giao dịch, đàm phán, ký kết
và thực hiện hợp đồng tại khu vực đó còn thu thập thông tin cho công tác nghiên cứu
thị trường.
+ Tiến hành mở các lớp bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho nhân viên, hoạt
động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Tạo điều kiện cho nhân viên được tiếp xúc
với thực tế với môi trường bên ngoài nhằm nâng cao khả năng tư duy lẫn kinh nghiệm
trong công tác nghiên cứu thị trường.
Khi tiến hành nghiên cứu thị trường, Công ty còn phải lựa chọn và phân loại thị
trường, gạt bỏ những thị trường không phù hợp với điều kiện của Công ty, không xác
định phạm vi nghiên cứu quá rộng gây lãng phí về thời gian và tiền bạc nhưng hiệu
quả thu thập lại không cao.
Việc nghiên cứu thị trường cũng bao gồm cả việc xác định phương thức thâm
nhập thị trường trong hoạt động xuất khẩu. Thường có hai phương thức thâm nhập là
thâm nhập trực tiếp và gián tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp: là sự thực hiện giữa bên bán và bên mua một cách trực tiếp
không qua khâu trung gian. Để xuất khẩu trực tiếp công ty đã nghĩ tới việc hình thành
và mở rộng chức năng các cơ sở bán hàng trong nước dưới dạng chi nhánh được phân
bổ đến các nước. Các chi nhánh này hoặc có thể liên quan đến việc bán hàng xuất
khẩu hoặc như là một trụ sở Marketing xuất khẩu trong nước để phối hợp hay điều
hành các tổ chức phụ thuộc khác đặt tại thị trường nước ngoài. Để đạt được nhiệm vụ
này, Tổng công ty giao nhiệm vụ cho Công ty thực hiện. Ngoài ra, Công ty luôn bám
sát các Cơ quan Chính phủ để kết hợp với Chính phủ thực hiện các hiệp định chung
đã ký kết với nước ngoài về vấn đề thanh toán nợ, bằng trao đổi hàng hoá. Điều này
hết sức thuận lợi cho Công ty vì thông qua đó mà sản phẩm của Công ty có cơ hội
thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
Xuất khẩu gián tiếp: Là hình thức doanh nghiệp thông qua những tổ chức độc
lập trong nước để xuất khẩu hàng hoá của mình ra nước ngoài. Trước đây, việc xuất
khẩu thông qua các tổ chức độc lập đối với gốm sứ là gần như không có. Hiện tại,
Công ty đang thiết lập các mối quan hệ với một số Công ty có uy tín như Loc Hoang
Inc, Navico… là những Công ty có uy tín đứng trên đất Mỹ mà thông qua đó sản
phẩm của Công ty có thể thâm nhập vào thị trường lớn như Mỹ, Canada, Nam Mỹ…
Đến nay, đặc biệt được Công ty có chú ý và hiện nay xuất nhập khẩu nguyên liệu liệu
sang thị trường Mỹ và thị trường các nước phát triển là rất khó khăn nhưng nếu tiếp
cận được thì đây lại là những thị trường có sức tiêu thụ lớn. Vì vậy, Công ty nên xây
dựng kế hoạch thâm nhập thị trường như sau:
- Đối với thị trường các nước ASEAN và một số nước Châu Á: là những khách
hàng đã nhập khẩu một số sản phẩm của Công ty thì Công ty tiếp tục phát huy xuất
khẩu trực tiếp.
- Đối với thị trường các nước Đông phương như Lào, Campuchia… là những
thị trường đã tiêu thụ một số sản phẩm của Công ty như ấm sứ, lọ sứ, tượng… Công
ty cần đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu thị trường để chiếm lĩnh thị trường bằng
cách mở rộng thêm nhiều đại lý bán hàng, đào tạo cho nước bạn đội ngũ nhân viên
bán hàng.
- Đối với thị trường Nga và các nước Đông Âu là những thị trường truyền
thống. Công ty có thể thâm nhập các thị trường này dưới các hình thức trả nợ nước
ngoài.
- Đối với thị trường Trung Đông: Đây là thị trường có tốc độ sử dụng tương đối
cao. Công ty có thể thông qua một số Công ty nước ngoài để chào hàng và có thể
thâm nhập thị trường này thông qua phương thức đổi hàng.
- Đối với thị trường Mỹ và Nam Mỹ, Công ty thông qua các Công ty môi giới
thương mại để chào hàng dưới hình thức cho các Công ty này làm đại lý độc quyền.
Tập trung khai thác thị trường Mỹ, đây là một thị trường lớn và đa dạng nên các sản
phẩm của gốm Bát Tràng sẽ có những điều kiện thuận lợi để tiêu thụ tại đây. Tuy
nhiên, hàng Việt Nam nói chung và Gốm Bát Tràng vẫn còn khá xa lạ đối với phần
lớn các nhà nhập khẩu Mỹ. Vì vậy, vấn đề then chốt quyết định thành công chính là
phải đảm bảo sản phẩm có chất lượng cao duy trì độ tin cậy và đồng nhất chất lượng.
Trong giai đoạn đầu thâm nhập thị trường Mỹ hàng gốm sứ Bát Tràng Việt Nam có
thể xem như nguồn hàng thay thế cho các sản phẩm hiện đang được nhập khẩu vào
Mỹ từ các nước như Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia, Brazin hay thậm chí Tây Ban
Nha hay Italy, do đó việc đầu tiên là đàm phán thuyết phục các nhà nhập khẩu Mỹ
dành một phần ngân sách mua hàng để nhập khẩu hàng của gốm sứ Bát Tràng, sau đó
cùng với thời gian, họ sẽ tăng lượng mua nếu thấy các sản phẩm này đáp ứng được
các yêu cầu của họ. Chúng ta cần phải chứng tỏ rằng hàng hoá mang nhãn hiệu Gốm
Sứ Bát Tràng đồng nghĩa với dịch vụ tốt hơn, sản phẩm tốt hơn và lợi nhuận cao hơn.
Ngoài việc từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, nghiên cứu thị hiếu để đa
dạng hoá chủng loại, mẫu mã nhằm đáp ứng được yêu cầu của khách hàng nước
ngoài, Tổng công ty có kế hoạch tham dự những hội chợ triển lãm chuyên ngành lớn,