Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

thực trạng và một số giải pháp nhằm tăng xuất khẩu hàng nông sản của công ty giao nhận vận tải châu âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.36 KB, 59 trang )

MỤC LỤC
M C L CỤ Ụ 1
1
L I NÓI UỜ ĐẦ 1
C S LÝ LU N CHUNG V HO T NG XU T KH UƠ Ở Ậ Ề Ạ ĐỘ Ấ Ẩ 5
II. TH C TR NG XU T KH U C A CÔNG TY EURO TRANS. Co.LTỰ Ạ Ấ Ẩ Ủ Đ. .31
M T S GI I PHÁP NH M THÚC Y XU T KH UỘ Ố Ả Ằ ĐẨ Ấ Ẩ 41
NÔNG S N T I CÔNG TY EURTRANSẢ Ạ 41
I. PH NG H NG, NHI M V C A CÔNG TY EURTRANSƯƠ ƯỚ Ệ Ụ Ủ 41
II. M T S GI I PHÁP NH M T NG XU T KH U HÀNG NÔNG S N C A Ộ Ố Ả Ằ Ă Ấ Ẩ Ả Ủ
CÔNG TY EURTRANS 43
K T LU NẾ Ậ 51


LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, đất nước đang trên đà phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh làm thước đo cho hoạt động đổi mới. Công tác xuất
khẩu là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà nước mà Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế của nước ta hiện
nay.
Thực chất của xuất khẩu là mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại
nhằm tạo ra ngoại tệ cần thiết để nhập khẩu vật tư kỹ thuật cho xây dựng cơ
sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, đồng thời thông qua công tác xuất khẩu cho
phép phát huy sử dụng tốt nguồn lao động, tài nguyên của đất nước, tạo điều
kiện tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống cho người lao động.
Trong những năm gần đây quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trên
thế giới ngày càng được củng cố và mở rộng. Việc tham gia vào các tổ chức
ASEAN, AFTA và đặc biệt là sự cố gắng nỗ lực để gia nhập WTO cùng với
việc Mỹ xoá bỏ cấm vận thương mại, bình thường hoá quan hệ với Việt Nam


đã cho thấy công tác phát triển và mở rộng hoạt động của kinh tế đối ngoại
càng có vai trò quan trọng đặc biệt để phát triển kinh tế của đất nước. Chính
vì thế mà Nhà nước ta luôn coi trọng, khuyến khích và thúc đẩy các ngành
kinh tế hướng cho xuất khẩu.
Trong nghị quyết lần thứ 7 của Trung Ương Đảng ( tháng 7 năm 1994)
có đặt vấn đề “ xây dựng một nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu ”
Quan điểm xây dựng một nền kinh tế mở của Đảng đã phù hợp với qui luật
hình thành một nền kinh tế thị trường ở nước ta, là động lực tác động tích cực
đến hoạt động của các ngành, các thành phần kinh tế, đặc biệt là các tổ chức
kinh doanh, xuất nhập khẩu.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang nỗ lực cố gắng hoà nhập vào nền
kinh tế thế giới, thông qua chính sách kinh tế mở cửa nhằm đẩy mạnh hơn
nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần làm giảm tỉ lệ lạm phát, nâng cao
đời sống nhân dân. Trong một vài năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của nước ta đã đạt được ở mức khá cao so với khu vực và thế giới. Đạt được
kết quả đó, có một phần đóng góp của các tổ chức đơn vị kinh doanh thương
mại quốc tế (kinh doanh xuất nhập khẩu) góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam
hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Việt Nam với những ưu thế như 70% dân số làm nghề nông nghiệp,
diện tích đất đai màu mỡ đã tạo điều kiện cho mặt hàng nông sản nước ta có
lợi thế so sánh so với một số nước trên thế giới. Công ty giao nhận vận tải
Châu Âu (EURTRANS), dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, là một trong những doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất
khẩu nông sản và đã có những đóng góp tích cực vào công tác xuất khẩu
chung của nước nhà. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, Công ty
cũng gặp phải không ít những khó khăn, trở ngại. Đó là sự cạnh tranh gay gắt
với các đơn vị kinh doanh trong nước cũng như các công ty nước ngoài, chất
lượng hàng hoá chưa cao, nguồn hàng không đáp ứng được hết các nhu cầu
của khách hàng, thị trường xuất khẩu không ổn định Do vậy hiệu quả kinh
doanh của Công ty vẫn còn thấp.

Chính vì những tồn tại cần được khắc phục trong hoạt động kinh doanh
của Công ty nên sau một thời gian thực tập tại đây cùng với những kiến thức
tích luỹ được sau bốn năm học em đã mạnh dạn chọn đề tài luận văn tốt
nghiệp: “ Thực trạng và một số giải pháp nhằm tăng xuất khẩu hàng nông
sản của Công ty giao nhận vận tải Châu Âu"
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung của luận văn được chia làm 3
phần:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu tại Công ty
EURTRANS Co.Ltd
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng xuất khẩu của
Công ty EURTRANS
Do thời gian hoạt động thực tế còn ít, tài liệu thống kê, tổng kết
kinh tế còn chưa đầy đủ, sự hiểu biết và kiến thức của bản thân còn nhiều
hạn chế nên luận văn của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong nhận được ý kiến phê bình quý báu từ phía thầy cô giáo.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo Phạm
Thị Thu Hương. Cô đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để em có thể
hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các bác,
các cô chú trong Công ty EURTRANS Hà Nội đã giúp em tiếp thu được
những kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho bài viết.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Xuất khẩu và vai trò của nó trong nền kinh tế
1.1 Khái niệm thị trường
Thị trường hiểu theo nghĩa rộng và chung nhất là quá trình người mua,
người bán tác động qua lại để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, thời gian
giao hàng và phương thức thanh toán thị trường còn là nơi gặp nhau giữa

một bên là cung, một bên là cầu.
Các yếu tố quan trọng để hình thành thị trường là cung cầu hàng hoá và
giá cả thị trường.
 Cầu về hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người tiêu thụ sẽ mua
hay có khả năng mua, ở các mức giá khác nhau có thể có (khi các yếu tố khác
giữ nguyên hoặc cân bằng) trong một khoảng thời gian nhất định.
Tổng khối lượng cầu (tính bằng giá trị) hay tổng sức mua gọi là dung
lượng thị trường.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cầu hàng hoá trên thị trường như: giá cả
của chính hàng hoá đó trong hiện tại và trong tương lai, giá cả của hàng hoá
và dịch vụ liên quan, thu nhập và thị hiếu của người tiêu dùng Các nhân tố
này tác động ở các mức khác nhau đến cầu trên thị trường, chỉ cần một nhân
tố thay đổi cũng làm cho lượng cầu thay đổi.
 Cung hàng hoá là lượng hàng hoá có mặt trên thị trường hoặc
có thể cung ứng trên thị trường trong một thời kỳ nhất định (bao gồm hàng
hoá hiện có và số hàng hoá sẽ sản xuất được, kể cả hàng hoá được nhập
khẩu). Cung trên thị trường bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
 Giá của chính hàng hoá đó trong hiện tại và trong tương lai, giá
cả của hàng hoá và dịch vụ có liên quan, giá cả các yếu tố đầu vào, trình độ
công nghệ sản xuất
 Giá cả của hàng hoá trên thị trường là biểu hiện bằng tiền của
giá trị hàng hoá, đồng thời là biểu hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã
hội, trên thị trường cung, cầu hàng hoá đối với từng loại hàng cũng như đối
với từng nhóm hàng thường không cân bằng nhau. Chính vì vậy nó tạo nên sự
sống động của thị trường, khi xảy ra sự thừa hoặc thiếu hụt hàng hoá lập tức
giá cả thị trường thực hiện chức năng điều tiết cung cầu (theo hướng cân đối)
trên thị trường. Nó đóng vai trò là bàn tay vô hình điều khiển nền kinh tế, là
phương tiện phát tín hiệu cho các doanh nghiệp trả lời các vấn đề cơ bản của
mình là kinh doanh mặt hàng gì? số lượng bao nhiêu? và bán cho ai? Khi tiến
hành hoạt động kinh doanh, tăng cường hiệu quả kinh tế, nâng cao lợi nhuận.

1.2 Vai trò của thị trường
Thị trường là khâu tất yếu của quá trình tái sản xuất hàng hoá, ở đâu có
sản xuất hàng hoá, thì ở đó có thị trường. Do đó thị trường có vai trò rất quan
trọng, thể hiện ở các mặt
Thị trường là sống còn đối với sản xuất kinh doanh hàng hoá, mục đích
của người sản xuất hàng hoá là sản xuất ra để bán, nhằm thoả mãn nhu cầu
của người khác. Bán hàng khó hơn mua, vì mua là hành vi đơn giản, còn bán
là bước nhảy nguy hiểm chết người. Bởi vậy, còn thị trường thì còn sản xuất
kinh doanh, mất thị trường thì sản xuất kinh doanh sẽ bị đình trệ.
Thị trường là nơi quan trọng để đánh giá, kiểm nghiệm chứng minh tính
đúng đắn của chủ trương, chính sách, biện pháp kinh tế của các cơ quan nhà
nước, của các nhà sản xuất kinh doanh.
Đặc trưng của hoạt động thị trường là tất cả các hoạt động kinh tế diễn ra
không có sự bắt buộc hoặc điều khiển tập trung.
Tham gia thị trường có hàng triệu người sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ và
hàng triệu người tiêu dùng một cách tự nguyện. Nói như thế không có nghiã
là thị trường là một hệ thống hỗn độn vô phương, mà là rất có trật tự.
Cơ chế thị trường là một hình thức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu
dùng và các nhà kinh doanh tác động qua lại lẫn nhau để xác định 3 vấn đề
trung tâm của hoạt động kinh doanh là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế
nào? và Sản xuất cho ai? Nó hoạt động thông qua giá cả thị trường để quyết
định các vấn đề cơ bản nêu trên. Chính thị trường vận hành theo những qui
luật vốn có đã tạo nên trật tự kinh tế thị trường. Nó được coi như “bàn tay vô
hình” điều khiển nền kinh tế. Ở đây, lợi ích riêng của từng người chỉ đạt được
thông qua thực hiện lợi ích chung của xã hội, được thị trường chấp nhận. Sản
xuất như thế nào do cạnh tranh giữa những người sản xuất quyết định.
Phương pháp duy nhất có thể cạnh tranh về tối đa hoá lợi nhuận và giá
cả là giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp
sản xuất hiệu quả nhất.
Sản xuất hàng hoá cho ai, một mặt thể hiện phương thức phân phối thu

nhập theo số lượng và chất lượng lao động, mặt khác sản phẩm được phân
phối cho những ai chấp nhận giá cả thị trường, cơ chế thị trường ở nước ta
thực hiện chưa lâu, kinh nghiệm thực tế còn thiếu, nên mặc dù có những
thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn.
1.3 Bản chất của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà các quan hệ kinh
tế, phân phối sản phẩm, phân chia lợi ích do các qui luật của thị trường có
điều tiết chi phối.
Đặc trưng của kinh tế thị trường :
Kinh tế thị trường dựa trên cơ sở một nền sản xuất hàng hoá phát triển;
Kinh tế thị trường không ra đời và phát triển trên nền tảng của một nền sản
xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp. Phát triển sản xuất hàng hoá, thực hiện tự
do lưu thông vừa là tiền đề, vừa là động lực cho sự phát triển của kinh tế thị
trường.
Trong kinh tế thị trường, mỗi cá nhân, mỗi đơn vị kinh tế được tự do tổ
chức các hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật, trên thị trường,
mỗi người, mỗi tổ chức là một chủ thể độc lập và tự chủ hoàn toàn. Về
phương diện xã hội, tính tự do của mỗi cá nhân được nâng cao, nhân cách và
cá tính được tôn trọng. Khách hàng giữ vị trí trọng tâm trong kinh tế thị
trường, họ là “thượng đế” của người bán, người bán phải chiều chuộng, lôi
kéo người mua, khơi dậy và thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. Khách hàng được
quan tâm hàng đầu, là điều kiện sống còn của người sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận trở thành thước đo và hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất
kinh doanh - thường được tính bằng tiền. Quan hệ hàng hoá tiền tệ trở thành
quan hệ thống trị tuyệt đối trong nền kinh tế thị trường.
2. Sự cần thiết và vai trò của hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ
của một nước đối với một nước khác và thường dùng ngoại tệ làm phương
tiện trao đổi.
Sự trao đổi này là một hình thức của mối quan hệ xã hội, và phản ánh sự

phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt
của các quốc gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu là cần thiết vì những lý do cơ bản là:
Nó khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu và mở rộng khả
năng tiêu dùng của nước nhập khẩu.
Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia cũng như mỗi cá nhân không thể sống
riêng rẽ, biệt lập với bên ngoài mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế cho
phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với số lượng nhiều hơn, chất lượng
cao hơn mức có thể tiêu dùng với danh giới khả năng sản xuất trong nước
(nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán với nước ngoài).
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá
ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người
ngày một dồi dào, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng tăng
lên. Nói cách khác, chuyên môn hoá thúc đẩy nhu cầu sản xuất hàng hoá, dịch
vụ và ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không
có hoạt động trao đổi mua bán với nước khác. Chính chuyên môn hoá quốc tế
là biểu hiện sinh động của qui luật lợi thế so sánh, qui luật này nhấn mạnh sự
khác nhau về chi phí sản xuất coi đó là chìa khoá của các phương thức thương
mại.
Qui luật cũng khẳng định rằng nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản
xuất sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh, thì thương mại quốc tế có lợi
cho cả hai bên.
Hoạt động xuất nhập khẩu đối với nước ta là vấn đề được quan tâm hàng
đầu do tầm quan trọng của nó. Do vậy Đảng và Nhà nước chủ trương mở rộng
quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại, trong đó có một lĩnh vực quan trọng là
vật tư thương mại hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài. Đó là chủ trương hoàn
toàn đúng đắn và phù hợp với thời đại, phù hợp với xu thế phát triển của
nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây. Một đất nước không thể
xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh trong điều kiện tự cung, tự cấp, ngay cả
với một quốc gia hùng mạnh, vì nó đòi hỏi rất tốn kém cả về vật chất và thời

gian.
Chính vì lẽ đó, cần phải “nâng cao hiệu quả xuất khẩu, mở rộng ngoại
thương trên cơ sở hợp tác bình đẳng, không phân biệt chế độ chính trị và đôi
bên cùng có lợi” như nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 7 đã khẳng định.
Xuất khẩu là quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia
thông qua hành vi mua bán, trên cơ sở dùng ngoại tệ làm phương tiện thanh
toán hàng hoá xuất khẩu rất đa dạng: hàng công nghiệp, nông nghiệp, hàng
tiêu dùng, kiến thức khoa học kỹ thuật, phát minh sáng chế bí mật sản xuất
Các dịch vụ: kỹ thuật, tư vấn, sửa chữa, du lịch, thông tin
2.1. Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế
 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công
nghiệp hoá đất nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường
tất yếu để khắc phục đói nghèo, chậm phát triển ở nước ta.
Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi số vốn rất
lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau:
 Đầu tư của nước ngoài
 Vay nợ, viện trợ
 Xuất khẩu lao động ….
Các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ tuy quan trọng nhưng
rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở những thời kỳ sau. Nguồn
vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước và xuất khẩu.
Xuất khẩu góp phần vào việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô
cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và
công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công
nghiệp hoá phù hợp với xu thế phát triển của thế giới là tất yếu đối với nước
ta, có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
 Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất quá
nhu cầu ở trong nước, trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát
triển như ở nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, do đó nếu chỉ
thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu sẽ rất nhỏ bé và chậm
chạp.
 Coi trọng thoả mãn mọi nhu cầu của thị trường (đặc biệt là thị
trường thế giới) là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu.
Điều đó tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở những điểm sau:
 Xuất khẩu tạo điều kiện cho những ngành khác phát triển thuận lợi
chẳng hạn phát triển ngành dệt, xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho việc
phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm, sự
phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (gạo,
dầu thực vật, chè, ) có thể kéo theo sự phát triển của ngành công
nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
 Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho
sản xuất được ổn định và phát triển.
 Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực cho sản xuất trong nước.
 Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật, nhằm cải tạo năng lực
sản xuất trong nước. Tức là xuất khẩu trở thành một phương tiện quan
trọng để tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ các nước khác vào Việt
Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra một năng lực sản
xuất mới.
 Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thế giới cả về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh
này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất
luôn thích nghi với thị trường.
2.2. Vai trò đối với doanh nghiệp

 Xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao, quyết
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
 Xuất khẩu tạo cho doanh nghiệp nguồn vốn để mở rộng kinh
doanh, đào tạo cán bộ, đổi mới công nghệ, khai thác các tiềm lực hiện có,
từ đó tăng thu nhập cho người lao động.
 Hoạt động xuất khẩu cho phép doanh nghiệp thiết lập được
các mối quan hệ với nhiều bạn hàng ở các nước khác nhau và sẽ rất có
lợi cho doanh nghiệp nếu duy trì và tái tạo được nhu cầu của họ.
 Tham gia hoạt động xuất khẩu tức là tham gia vào cuộc cạnh
tranh quýêt liệt trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, dịch vụ.
Cuộc cạnh trạnh này đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hình
thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường, phải luôn đổi mới
hoàn thiện quá trình sản xuất của mình, cũng như tăng cường đầu tư phát
triển các loại hình dịch vụ xung quanh bán hàng, đặc biệt là dịch vụ sau
bán hàng.
 Nghiên cứu thị trường trong hoạt động xuất khẩu giúp doanh
nghiệp có đầy đủ thông tin cần thiết từ đó đưa ra quyết định chính xác.
Nghiên cứu thị trường đóng vai trò quan trọng giúp các nhà kinh doanh
đạt được hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Nắm vững
các yếu tố của thị trường, hiểu rõ các qui luật vận động của thị trường
nhằm ứng xử kịp thời tiến hành công tác nghiên cứu, nhận biết hàng hoá
và nắm vững lựa chọn khách hàng.
 Đối với các doanh nghiệp việc nắm vững thị trường xuất khẩu
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đó là thông tin về: Điều kiện chính trị
thương mại nói chung, luật pháp, chính sách buôn bán, điều kiện tiền tệ
tín dụng, điều kiện vận tải giá cước Để có thể tiến hành hoạt động xuất
khẩu nhanh chóng và thuận tiện nhất.
 Nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp xuất khẩu là lựa chọn
nhà cung cấp tốt nhất với chất lượng hàng hoá xuất khẩu tốt nhằm tạo uy
tín cho doanh nghiệp trên thị trường xuất khẩu. Các yếu tố cần thiết để

lựa chọn nhà cung cấp tốt đó là: Thái độ hợp tác, khả năng cung cấp, uy
tín, chất lượng và các tiêu chí liên quan đến hàng hoá.
II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU.
1. Các loại hình kinh doanh xuất khẩu.
1.1. Xuất khẩu trực tiếp
Đây là hình thức doanh nghiệp thương mại đặt mua sản phẩm của các
đơn vị, cá nhân sản xuất trong nước (với hình thức mua đứt bán đoạn) sau đó
xuất khẩu những sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của
doanh nghiệp mình và hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hàng hoá đó với
khách hàng nước ngoài.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận mà các đơn vị kinh doanh xuất
khẩu thu được thường cao hơn các hình thức khác. Doanh nghiệp thương mại
đứng ra với vai trò là người bán trực tiếp, do đó nếu khách hàng có qui cách
phẩm chất tốt sẽ nâng cao được uy tín của doanh nghiệp, tuy nhiên hình thức
này đòi hỏi doanh nghiệp thương mại phải có nhiều vốn, vì trong điều kiện
hiện nay thường các doanh nghiệp thương mại phải ứng trước tiền hàng cho
các đơn vị và cá nhân sản xuất trong nước, số tiền này thường khá lớn, nhất là
với những hợp đồng có giá trị lớn.
1.2. Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp thương mại với chức năng
được nhà nước cho phép đứng ra với vai trò trung gian xuất khẩu, làm thay
cho đơn vị, cá nhân sản xuất (những người có hàng hoá để xuất khẩu) những
thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo
giá trị hàng hoá xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người
đứng tên xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng trước
khách hàng nước ngoài. Đặc biệt là không cần phải huy động vốn để thu mua
hàng, vì số tiền vốn bỏ ra mua hàng này là do các đơn vị (cá nhân) thuê uỷ
thác phải bỏ ra và họ tự chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, thời hạn
giao hàng Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp thương mại thì hình thức

này hiệu quả kinh tế không cao, nếu đơn vị thuê uỷ thác làm hàng không tốt,
giao hàng không đúng thời hạn thì doanh nghiệp thương mại nhận làm uỷ
thác rất dễ bị mất khách hàng uy tín thương trường.
1.3. Xuất khẩu gia công uỷ thác
Doanh nghiệp thương mại đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành
phẩm về rồi giao cho đơn vị gia công sản xuất hàng hoá, sau đó thu hồi sản
phẩm xuất khẩu trả lại cho khách hàng nước ngoài. Doanh nghiệp được nhận
phần trăm phí uỷ thác gia công, phí này được thoả thuận với các đơn vị sản
xuất trong nước.
1.4 Buôn bán đối lưu (hàng đổi hàng)
Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu. Người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá
trị tương đương với nhau. Ở đây mục đích xuất khẩu không nhằm thu về một
khoản ngoại tệ, mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương
với giá trị lô hàng mà doanh nghiệp xuất khẩu.
Có nhiều loại hình buôn bán đối lưu: hàng đổi hàng (được áp dụng phổ
biến) trao đổi bù trừ, mua đối lưu
1.5 Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được ký theo
nghị định thư giữa chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có
nhiều ưu điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn (vì số tiền xuất khẩu hàng
này được chính phủ trả ngay cho doanh nghiệp sau khi xuất hàng). Số lượng
hàng hoá thường lớn, giá cả hàng hoá nhìn chung có lợi cho doanh nghiệp
xuất khẩu.
Với các hình thức xuất khẩu như trên, việc áp dụng hình thức nào còn
phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp (như khả năng tài
chính, hiệu quả kinh tế của từng hình thức, định hướng kinh doanh ) và điều
quan trọng là phải đáp ứng yêu cầu của các bên sản xuất, gia công trong nước
cũng như nước ngoài.
2. Những điểm chủ yếu về hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh

nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước.
Khi chuyển sang cơ chế mới, chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương
bị xoá bỏ, nhưng không có nghĩa là từ bỏ chức năng kinh tế đối ngoại của nhà
nước mà nhà nước vẫn thống nhất quản lý các hoạt động kinh tế đối ngoại
theo cơ chế thị trường, trong đó mỗi doanh nghiệp đều nằm trong mối quan
hệ: Nhà nước - thị trường - doanh nghiệp.
Qua những năm đổi mới, nhất là từ năm1991 đến nay, thực tiễn đã
chứng tỏ doanh nghiệp thương mại nào kịp thời đổi mới quản lý, giải quyết
tốt mối quan hệ nói trên, thích ứng với cơ chế thị trường thì chẳng những sớm
vượt qua khó khăn, đứng vững trong cuộc cạnh tranh gay gắt trong thương
trường ở trong và ngoài nước, mà còn tăng thu lợi nhuận, tăng nộp ngân sách
nhà nước, và cải thiện đời sống cán bộ nhân viên.
Phương hướng chung của việc đổi mới quản lý và hoạt động của các
doanh nghiệp thương mại là tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các doanh nghiệp đó, từng bước xoá bỏ chế độ bao cấp, thực sự chuyển sang
hạch toán kinh tế độc lập. Chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương đã được
xoá bỏ, chức năng quản lý nhà nước được hướng vào việc tạo môi trường và
hành lang pháp lý trong mọi hoạt động của doanh nghiệp, thuộc mọi thành
phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch vĩ mô, sử dụng các công cụ
kinh tế để điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp, kiểm tra và giám sát hoạt
động của chúng theo luật định, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1 Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước
Nhà nước không trực tiếp quyết định chủ thể kinh doanh ngoại thương,
không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà chỉ qui
định những điều kiện để doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất
nhập khẩu. Những điều kiện đó là:
 Doanh nghiệp được thành lập theo đúng pháp luật. Đối với
doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thì không kể mức vốn lưu động, không

kể kim ngạch nhiều hay ít, không phân biệt thành phần kinh tế đều có thể
được xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất ra, nhập khẩu vật tư, nguyên liệu
cần thiết cho sản xuất của mình.
 Nhà nước rút dần chỉ tiêu pháp lệnh, tiến tới chỉ còn một chỉ tiêu
pháp lệnh duy nhất là nộp ngân sách thông qua hệ thống thuế. Trừ một số mặt
hàng còn giao theo nghị định thư hay trả nợ, nhà nước vẫn còn qui định chỉ
tiêu nhưng giá mua hàng hoá xuất theo nghị định thư phải thật sự là giá thoả
thuận giữa các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu với các cơ sở sản xuất
hàng hoá xuất khẩu. Việc thanh toán phải sòng phẳng, kịp thời. Nếu việc
thanh toán quá thời hạn qui định thì các cơ sở sản xuất và các tổ chức kinh
doanh xuất nhập khẩu sẽ được trả một khoản lãi theo tỷ lệ lãi suất vay ngân
hàng trên toàn bộ số vốn và thời hạn chậm thanh toán. Những năm gần đây
việc xuất khẩu hàng trả nợ được thực hiện theo phương thức đấu thầu.
 Mọi hàng hoá được tự do xuất nhập khẩu và chịu điều tiết bằng
thuế theo luật thuế xuất nhập khẩu, trừ một số mặt hàng cấm xuất, cấm nhập
khẩu (hoặc chỉ có những đơn vị có giấy phép đặc biệt mới được phép xuất
nhập khẩu) như vũ khí, đồ cổ những mặt hàng được quản lý bằng hạn
ngạch (như gạo, nguyên liệu phụ liệu sản xuất thuốc lá ) và những mặt
hàng chuyên dùng (như văn hoá phẩm, thuốc chữa bệnh).
 Bãi bỏ chế độ kết hối ngoại tệ, thực hiện chế độ mua bán ngoại tệ
theo tỷ giá kinh doanh. Lúc đầu còn qui định các tổ chức kinh doanh xuất
nhập khẩu có nghĩa vụ bán cho nhà nước theo thời giá một tỷ lệ ngoại tệ thu
được có phân biệt đối với từng loại ngành hàng nhưng dần dần đã hình thành
thị trường ngoại hối và các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu được tự do
mua bán ngoại tệ theo giá thị trường.
 Các đơn vị kinh tế cơ sở được mở rộng quyền tự chủ về mọi mặt
trong khuôn khổ pháp luật. Các đơn vị được quyền quyết định mua bán trên
cơ sở nghiên cứu tình hình thị trường, được quyền định giá (trừ một số mặt
hàng còn phải theo khung giá do nhà nước qui định). Các đơn vị tự chịu trách
nhiệm về bảo toàn vốn, về lỗ lãi.

 Nhà nước kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp thông qua những qui chế quản lý qui định quyền hạn, trách
nhiệm của doanh nghiệp, của cán bộ quản lý và điều tiết hoạt động của các
doanh nghiệp bằng cách sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô như kế hoạch
định hướng, tỷ giá hối đoái, thuế, tỷ xuất lợi tức, trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch
v.v
2.2 Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường
Trong cơ chế thị trường, hầu hết các doanh nghiệp đều gặp phải sự cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Doanh nghiệp không chỉ tiếp xúc
với thị trường hàng hoá mà cả thị trường vốn và thị trường lao động.
 Đối với thị trường hàng hoá
Doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cao trình độ marketing, nắm
vững thông tin về khách hàng, diễn biến quan hệ cung cầu, giá cả của những
mặt hàng mà mình kinh doanh, dự báo và đón trước nhu cầu của người tiêu
dùng, kịp thời thay đổi mẫu mã và qui cách phẩm chất hàng hoá để đáp ứng
với thị hiếu của người tiêu dùng. Từ đó quyết định số lượng, thời điểm mua
bán, lựa chọn phương thức kinh doanh, duy trì và mở rộng quan hệ với bạn
hàng trong và ngoài nước. Doanh nghiệp phải gắn lưu thông với sản xuất, tự
tổ chức sản xuất hàng hoá và dịch vụ, giúp đỡ các cơ sở sản xuất tạo ra nguồn
hàng xuất khẩu phong phú, đáp ứng được yêu cầu người mua. Ngoài ra doanh
nghiệp còn phải tìm hiểu tập quán kinh doanh của các nước hữu quan, nắm
bắt kịp thời những thay đổi về pháp luật trong và ngoài nước có liên quan đến
những mặt hàng mà mình kinh doanh.
 Đối với thị trường vốn
Các doanh nghiệp thường phải tự mình huy động vốn từ nhiều nguồn
trong và ngoài nước như: vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, tín
dụng thương mại v.v Việc quay vòng vốn nhanh, nâng cao hiệu quả sử dụng
đồng vốn trở thành điều kiện sống còn của các doanh nghiệp.
 Đối với thị trường lao động
Doanh nghiệp trực tiếp tuyển dụng cán bộ, công nhân viên, lựa chọn

những người có năng lực phù hợp với từng cương vị công tác và trả lương
theo kết quả và hiệu quả kinh doanh. Mở rộng tuyển dụng lao động theo hình
thức hợp đồng (ngắn hạn, dài hạn, theo thời vụ ) tuỳ theo yêu cầu của sản
xuất kinh doanh.
2.3 Quan hệ nội bộ doanh nghiệp
Cơ chế thị trường đòi hỏi công việc kinh doanh phải năng động và linh
hoạt. Do đó việc sắp xếp tổ chức phải bố trí cán bộ công nhân viên cũng phải
thích ứng với những yêu cầu đó sao cho bộ máy gọn nhẹ, tinh giản mà vẫn
đạt hiệu quả kinh doanh cao. Muốn vậy trong nội bộ doanh nghiệp phải có
những qui chế cụ thể xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích của từng
người nhằm phát huy tính sáng tạo, ý thức tự giác hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao của mỗi người trong công ty. Phải thực hiện hạch toán kinh tế, áp
dụng các hình thức khoán trả lương và thưởng theo hiệu quả kinh doanh. Ký
kết và chấp hành nghiêm chỉnh thoả ước lao động tập thể giữa giám đốc -
công đoàn - và tập thể cán bộ công nhân trong đơn vị, đồng thời nâng cao tinh
thần làm chủ doanh nghiệp trong mỗi cán bộ công nhân.
III. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Nghiên cứu thị trường nước ngoài, giá cả hàng hoá xuất khẩu và công
tác thông tin thương mại là những vấn đề rất quan trọng, nhất là các đơn vị
mới bắt đầu kinh doanh, chưa có đủ mạng lưới nghiên cứu cung cấp thông tin,
cũng như thiếu cán bộ làm việc này.
Thông tin về thị trường không những giúp cho việc giải quyết vấn đề
kinh doanh mà còn tạo cơ sở giúp người quản lý đưa ra những quyết định phù hợp,
đúng đắn.
Yêu cầu của thông tin thị trường là phải phấn đấu có các nguồn tin tin
cậy, chuẩn xác, nhanh chóng, kịp thời, rõ ràng và kèm theo dự báo nếu có.
Đối tượng chủ yếu nghiên cứu thị trường nước ngoài là: hàng hoá,
trong đó chú ý dung lượng thị trường, hình thức tiêu thụ, phương thức tiêu
thụ, các công ty nước ngoài, giá cả hàng hoá và các biện pháp quảng cáo bán

hàng.
2. Nghiên cứu khách hàng
Nghiên cứu khách hàng nhằm chọn đối tác giao dịch, chọn thương nhân
để thiết lập quan hệ kinh doanh. Biện pháp tìm hiểu: tiếp xúc trực tiếp, chủ
động gặp nói chuyện, giao dịch qua hội chợ, triển lãm, các hội thảo Tìm
hiểu qua báo chí, bản tin thông báo về khách hàng, qua ngân hàng, các hội
buôn hoặc các nơi đã làm việc với khách hàng đó.
Nội dung nghiên cứu gồm:
- Khả năng tài chính, thanh toán: vốn, nợ, tình hình kinh doanh, lỗ lãi.
- Thái độ kinh doanh nói chung và riêng với ta.
- Phạm vi kinh doanh (chủng loại hàng, phương thức kinh doanh,
thực tế quan hệ kinh doanh với nước ta trước đây (nếu có) ).
- Phong thái kinh doanh, mức độ tín nhiệm, đạo đức kinh doanh
(đúng đắn, nghiêm chỉnh, thực hiện hợp đồng )
- Cần nắm chắc về tổ chức kinh doanh của khách hàng.
3. Tổ chức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng
3.1. Chuẩn bị giao dịch
Khi đã nắm được thực chất tình hình khách hàng là đối tác giao dịch và
đã nắm được tình hình thị trường thì doanh nghiệp cần lập phương án kinh
doanh xuất khẩu.
Theo mặt hàng, theo khách hàng, mức độ hợp lý và chi tiết khác nhau
tuỳ theo kim ngạch to nhỏ, hướng hoạt động cụ thể. Chuẩn bị đàm phán.
3.2. Giao dịch đàm phán, chuẩn bị ký kết hợp đồng
Giao dịch đàm phán có thể bằng hai cách: đàm phán miệng hoặc đàm
phán bằng văn bản, giấy tờ, điện thoại.
Các bước giao dịch người xuất khẩu cần làm:
- Chào hàng: là lời đề nghị của người xuất khẩu hoặc có thể của
người mua, biểu thị muốn mua bán một mặt hàng nào đó. Nội dung
thư chào hàng thường bao gồm: giới thiệu về mặt hàng, quy cách
phẩm chất, số lượng, bao bì, điều kiện và thời gian giao hàng, giá

cả, điều kiện thanh toán
- Hoàn giá: Khi người nhận chào hàng cố định không chấp nhận hoàn
toàn chào hàng, mà đưa ra đề nghị mới bằng miệng hay bằng giấy tờ
thì gọi là hoàn giá.
- Chấp nhận chào hàng: là đồng ý hoàn toàn với các điều kiện của
chào hàng cố định ( hoặc đặt hàng) của bên phát chào. Bên nhận
được chào hàng muốn ký kết hợp đồng với bên phát chào hàng.
- Xác nhận: Trong quá trình giao dịch, hai bên mua và bán thống nhất
với nhau về từng điều kiện đề ra. Một bên ghi lại mọi điều đã thoả
thuận, đảm bảo cho việc giao dịch tiến triển tiếp theo, một trong hai
bên gửi bản ghi đó cho bên kia. Đó là việc xác nhận.
3.3. Ký kết hợp đồng
Việc giao dịch đàm phán có kết quả tốt thì coi như đã hoàn thành công
việc ký kết hợp đồng. Có thể ký kết trực tiếp hay thông qua tài liệu. Khi ký
kết cần chú ý đến vấn đề địa điểm, thời gian và tuỳ từng trường hợp mà chọn
hình thức ký kết.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY
EURTRANS CO, LTD
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY EURTRANS
1. Quá trình hình thành và phát triển
Tên công ty: Công ty giao nhận và vận tải Châu Âu
Tên giao dịch: EURTRANS. Co.Ltd
Địa chỉ: Toà nhà hỗn hợp vườn Đào - phường Phú Thượng - Quận Tây
Hồ - Hà Nội.
Tel/Fax: 0422239212
Quá trình hình thành và phát triển của Công ty không ngừng biến đổi
theo từng giai đoạn biến đổi của đất nước và thế giới:
 Giai đoạn Công ty mới được hình thành và đất nước chưa thống

nhất (giai đoạn 1963-1975). Khi này cả nước cùng thực hiện hai nhiệm
vụ lớn: Xây dựng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước. Vì vậy mà Công ty có phương hướng hoạt động
chính là đẩy mạnh xuất khẩu và tranh thủ nhập khẩu. Để phục vụ cho
xuất khẩu Công ty được Nhà nước cho phép thành lập thêm nhiều nhà
máy sản xuất (trên 10 nhà máy) và các trạm thu mua ở các tỉnh thành
trong cả nước (chủ yếu là miền Bắc). Công ty cũng chỉ thực hiện các hợp
đồng chính theo hướng dẫn của Bộ. Do đó mà tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả kỳ đạt tới 160,05 triệu Rúp và có rất nhiều mặt hàng được xuất
khẩu trong đó hàng nông sản chiếm khoảng 20%, riêng gạo đạt từ 20-25
vạn tấn. Hàng xuất khẩu chủ yếu sang các nước XHCN: Liên Xô, CHDC
Đức, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Ba Lan, Bungari Và hàng nhập khẩu
cũng đạt tới con số 950 triệu Rúp trong kì này, nhưng chủ yếu là hàng
viện trợ từ các nước XHCN nhằm đáp ứng nhu cầu của quân đội và cho
tiêu dùng của nhân dân.
 Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và
Nhà nước thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (giai
đoạn 1976-1985) nên Công ty được phép độc quyền kinh doanh xuất
nhập khẩu những mặt hàng nông sản thực phẩm. Do đó để có nguồn
hàng đảm bảo cho xuất khẩu, Công ty đã hợp tác với các Bộ Nông
nghiệp, Bộ Lương thực và các tỉnh thành trong cả nước để kí kết hợp
đồng thu mua hàng nông sản xuất khẩu (thị trường thu mua được mở
rộng từ khi đất nước được thống nhất). Với những thuận lợi đó mà tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả kì đạt tới 504,2 triệu USD, còn tổng kim
ngạch nhập khẩu cũng tăng lên đạt tới 2.360 triệu USD.
 Đến năm 1986, Nhà nước có sự chuyển đổi cơ chế quản lí từ tập
trung bao cấp sang kinh tế thị trường. Nên trong giai đoạn này (kinh tế
thị trường có sự tồn tại của khối SEV từ 1986-1990) Công ty cũng có sự
thay đổi về cách thức thực hiện hợp đồng (hợp đồng theo nghị định thư ít
đi) lẫn cơ cấu bộ máy của mình. Tuân theo sự chỉ đạo của Nhà nước và

Bộ nên Tổng công ty chuyển giao một số mặt hàng cho đơn vị quản lý
chuyên ngành như: năm1987 chuyển mặt hàng đậu nành sang cho Bộ
Thương nghiệp.
 Đến năm 1990, cùng với sự sụp đổ của khối SEV và Liên Xô thì
Công ty cũng có những chuyển biến: Công ty không còn được độc quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng nông sản thực phẩm như trước nữa
và cạnh tranh với nhiều đơn vị công ty khác. Thị trường chủ yếu của
Công ty cũng tan vỡ (khối SEV) thay vào đó là các nước thuộc ASEAN,
một số nước Châu Á (Hồng Kông, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan )
và Tây Âu.
 Năm 1995, Công ty giao nhận và vận tải Châu Âu (EURO TRANS)
và chịu sự quản lí của Tổng công ty nông sản và thực phẩm (Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn). Bộ phận xuất nhập khẩu lương thực
được chuyển sang cho Bộ Lương thực Thực phẩm.
Công ty cũng thành lập theo các chi nhánh ở TP Hưng Yên, Bắc Giang
với nhiệm vụ thu mua sản xuất và cho thuê kho bãi phục vụ cho xuất nhập
khẩu.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty
EURTRANS có các chức năng và nhiệm vụ cụ thể như sau:
Tổ chức xây dựng kế hoạch dài hạn và ngắn hạn hàng năm về mua bán,
chế biến, vận chuyển, bảo quản và xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm .
Tổ chức trực tiếp thu mua nông sản thực phẩm và thu mua một số mặt
hàng khác theo nhu cầu của xuất khẩu. Đồng thời tổ chức xuất khẩu những
hàng hoá, sản phẩm theo kế hoạch được giao.
Tổ chức nhập khẩu các loại vật tư, hàng hoá cần thiết phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp trong nước.
Tổ chức thực hiện tốt kế hoạch của Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn giao, cũng như đáp ứng nhu cầu của sản xuất nông nghiệp và
các ngành khai thác trong cả nước.
Cùng với các đơn vị xuất nhập khẩu trong và ngoài ngành tổ chức

nghiên cứu tìm tòi, xây dựng tạo thị trường và nguồn hàng ổn định.
Trên cơ sở các văn bản quy định của Nhà nước, của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn để liên doanh, liên kết với các cơ sở, đơn vị trong và
ngoài nước đảm bảo tự hạch toán kinh doanh, bảo toàn vốn có lãi.
Tổ chức quản lí và sử dụng tốt các cơ sở vật chất, kĩ thuật, phương tiện
phục vụ trực tiếp cho yêu câù kinh doanh của công ty.
Tổ chức đào tạo cho cán bộ trong ngành đồng thời hướng dẫn các đơn
vị trực thuộc thực hiện những kế hoạch và nhiệm vụ cần thiết khác.

×