Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Cơ sở lý luận về khu công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.24 KB, 54 trang )


1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KCN

1.1 Vốn đầu tư, thu hút vốn đầu tư
Hoạt động đầu tư, trước hết được hiểu là hoạt động kinh tế tổng hợp được
tiến hành bằng cách huy động các nguồn vốn bỏ vào lĩnh vực khai thác, chế biến
sản phẩm hoặc dịch vụ trong một thời gian nhất định. Số vốn đó phải tham gia vào
nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích thu hồi vốn, tạo ra lợi
nhuận đối với nhà đầu tư và mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho đất nước. Vốn bỏ
vào các hoạt động đầu tư được gọi là vốn đầu tư.
Vốn là một yếu tố cơ bản của quá trình CNH, HĐH. Nhờ có vốn mới có
các yếu tố cơ bản và cần thiết khác để CNH, HĐH của quá trình sản xuất như: máy
móc, thiết bị, công nghệ, nguyên nhiên vật liệu… để sử dụng, phát huy được nguồn
lực lao động dồi dào của nước ta trong công cuộc đẩy mạnh quá trình này. Để có
nguồn vốn đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đang trong quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH; chúng ta không những cần phải thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn mà còn
phải nâng cao hiệu qủa sử dụng nguồn vốn đó.
Thu hút vốn đầu tư vào KCN bao gồm thu hút đầu tư nước ngoài và thu
hút đầu tư trong nước. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư
quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản
xuất hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ
vốn đầu tư. Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối
đa tuỳ theo quy định của Luật đầu tư từng nước tiếp nhận đầu tư. Quyền điều hành
doanh nghiệp tuỳ thuộc vào số vốn góp của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Nếu
góp 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định sự hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận các chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết qủa
hoạt động kinh doanh và tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của doanh nghiệp.
1.2 KCN, đặc điểm và vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế xã hội
1.2.1 KCN



2
Tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội, địa lý cũng như chính sách kinh tế của
từng quốc gia, từng khu vực mà chính phủ mỗi nước lựa chọn mô hình kinh tế cho
phù hợp với quốc gia của mình. Theo chương trình môi trường liên hợp quốc xếp
các loại hình KCN trên thế giới thuộc loại bất động sản công nghiệp bao gồm : khu
chế xuất (Export Processing Zones – EPZ); khu sản xuất hàng thay thế nhập khẩu
(Import Processing Zone – IPZ); Khu công nghiệp (Industrial Processing Zones);
Khu công nghệ cao (High – Tech Industrial Zones); Khu vực kinh tế tự do (Free
Economic Zone – FEZ); Khu mậu dịch tư do (Free Trade Zone – FTZ); Đặc khu
kinh tế.
Khu chế xuất (EPZ), đây là loại đặc khu kinh tế có diện tích tương đối
nhỏ, có hàng rào phân cách về địa lý trong một quốc gia, không có dân cư sinh sống
nhằm thu hút các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Khu chế xuất được
hưởng nhiều ưu đãi; nhất là ưu đãi về thuế và thủ tục hải quan, song đòi hỏi phải
xuất khẩu gần như toàn bộ sản phẩm.
Khu sản xuất hàng thay thế nhập khẩu (IPZ), đây là hình thức áp dụng chủ
yếu ở các nước Đông Á và Đông Nam Á nhằm phục vụ cho chiến lược CNH thay
thế hàng nhập khẩu. Tại khu vực này chủ yếu thu hút các ngành công nghiệp chế
tạo, sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu và chế biến các nguyên liệu thô trong
nước.
KCN là hình thức tổng hợp của EPZ và IPZ đã nêu ở trên, các KCN này có
vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của các nước vì nó kích thích xu hướng
sản xuất hướng ra xuất khẩu, vừa động viên phát triển sản xuất thay thế hàng nhập
khẩu và chế biến nguyên liệu thô trong nước.
KCN là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định có dân
cư sinh sống; do Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố ra quyết định thành lập sau khi có
văn bản chấp thuận của Thủ tướng chính phủ. Trong KCN có thể có khu chế xuất,
doanh nghiệp chế xuất.



3
Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công
nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công
nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo quy định của Chính phủ ; KKT kinh tế là khu vực có
không gian riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho
các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính
phủ.
Trong giai đoạn toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển
dịch từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và kinh tế trí thức, quan niệm
về KCN được mở rộng. Các giao dịch kinh tế không phải chỉ điều chỉnh bằng các
quy định pháp lý trong nước mà còn bằng cả các quy định pháp lý quốc tế đặc biệt
là những nguyên tắc của WTO. WTO cho phép thành lập các KCN và KCX với
những ưu đãi không được trái với các nguyên tắc điều chỉnh của WTO.
Như vậy, KCN có thể hiểu là một phương thức tổ chức các hoạt động sản
xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ công nghiệp với những chế độ ưu đãi đặc biệt
so với các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ còn lại trên lãnh thổ của một
nước nhằm khuyến khích đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu và thực hiện các mục tiêu
chính sách khác. KCN được thành lập không chỉ để nhằm thu hút đầu tư nước ngoài
mà còn cả thu hút đầu tư trong nước.
Đánh giá xếp loại KCN theo tiêu chí về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật
KCN; hiệu qủa KCN; hiệu qủa thu hút vốn đầu tư; hiệu qủa xã hội.
1.2.2 Đặc điểm
+ KCN có vị trí địa lý xác định, có thể có hoặc không có hàng rào ngăn
cách, không có dân cư sinh sống.
+ KCN được thành lập để thu hút các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ
phục vụ sản xuất công nghiệp.
+ Đơn vị chủ đầu tư KCN thuê đất Nhà nước, đầu tư hạ tầng và cho thuê lại

đất, thu phí hạ tầng.


4
+ Được quản lý bởi một cơ quan chuyên trách là Ban Quản lý KCN cấp
tỉnh theo cơ chế ủy quyền của các bộ ngành, với cơ chế một cửa, một đầu mối, ưu
đãi thuế thu nhập doanh nghiệp…
1.2.3 Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế xã hội
Trong giai đoạn vừa qua (1991 – 2006), hoạt động các KCN trong cả nước
đã đạt được những thành tựu quan trọng.
+ Hình thành hệ thống các KCN trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội cả nước; quy hoạch phát triển ngành, địa phương và vùng
lãnh thổ. Các KCN được phân bổ trên các tỉnh thành trên cả nước theo hướng vừa
tập trung đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở các vùng có lợi thế và tiềm năng, vừa
tạo điều kiện để các địa phương có ít lợi thế hơn, có động lực thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Quy mô các KCN đa dạng và phù hợp với
từng điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của mỗi địa phương.
+ KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước, phục vụ cho CNH, HĐH đất nước.
Số dự án ĐTNN và tổng vốn đăng ký vào KCN ngày càng được mở rộng.
Giai đoạn 5 năm 1991-1995, số dự án ĐTNN có 155 dự án, đến 5 năm 2001-2005
là 1.377dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8.080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần
về số dự án và 12 % về tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996-2001. Tính đến
cuối tháng 12/2005, các KCN đã thu hút được 2.120 dự án có vốn ĐTNN còn hiệu
lực với tổng vốn đăng ký đạt 16.843 triệu USD.
Trong 5 năm 1991-1995, chỉ có gần 50 dự án trong nước đầu tư vào các
KCN, thì đến 5 năm 2001-2005 thu hút được 1.870 dự án, tăng gấp 4,16 lần so với
kế hoạch 5 năm trước. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2.367 dự án trong nước
còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư trên 117 nghìn tỷ đồng.
+ KCN đã tạo một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài

không chỉ đối với địa phương có KCN mà còn góp phần hiện đại hoá hệ thống kết
cấu hạ tầng trên cả nước. Tại các KCN, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật nói
chung khá hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho bãi,


5
điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm.
+ KCN có tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
từng địa phương theo hướng CNH, HĐH; đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao trình
độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung cả nước, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế.
Trong 20 năm thực hiện cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế thế
giới, nước ta đã đạt được những thành qủa quan trọng. Tỷ lệ tăng trưởng cao và liên
tục trong nhiều năm (trung bình giai đoạn 2001-2005 đạt 7,5%); cơ cấu ngành kinh
tế thay đổi theo CNH, HĐH; tỷ lệ tiết kiệm tăng nhanh (gấp 3 lần, từ 11% GDP
năm 1986 lên 39% năm 2005). Số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị từ 1 tỉ
USD trở lên tăng từ 0 mặt hàng năm 1981 lên 5 mặt hàng năm 2005. FDI và ODA
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, góp phần cung cấp vốn,
cải thiện công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến, tạo ra những sản phẩm có chất
lượng cao hơn, thị trường xuất khẩu lớn hơn, đa dạng hơn, tăng tính cạnh tranh và
tạo việc làm cho người lao động. Tỷ suất FDI/GDP bắt đầu tăng từ cuối thập kỷ
1980 lên 6,41% năm 1994, đạt 15,5% năm 2005 với tổng trị giá 6 tỉ USD; tổng
lượng vốn ODA đạt 30 tỉ USD trong vòng 13 năm qua. Trong năm 2005, FDI chiếm
50% xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, 34% thu nhập ngân sách nhà nước.
Trong bức tranh kinh tế chung đó của đất nước, KCN là điểm sáng, có
những đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động, tiếp nhận công nghiệp hiện đại, kinh nghiệp quản lý tiên tiến, góp
phần xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu…
Trong năm 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN đạt 14 tỉ

USD, chiếm tỷ trọng gần 30% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp và
tăng 25% so với năm 2004.
+ Các KCN sử dụng ngày càng hiệu quả cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác
sản xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế.


6
+ Tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng
cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội. Phát triển KCN đồng nghĩa với hình
thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu lao động theo
hướng tiến bộ, là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công
nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế.
+ Thúc đẩy việc đổi mới và hoàn thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh.
+ Các KCN góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới
và công nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu vực toàn
tuyến hành lang kinh tế nói chung từng bước chuyển theo hướng một nền kinh tế
CNH, thị trường, hiện đại. Các KCN có tác dụng lan toả tích cực tới trình độ phát
triển vùng, các ngành, lĩnh vực. KCN mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng
tập trung xung quanh KCN. Liên kết ngành trong KCN bước đầu đã có những kết
qủa nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ KCN bởi những ngành nghề hỗ trợ lẫn
nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong KCN đã tạo điều kiện cho các
ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp KCN hoặc bản thân các
doanh nghiệp trong các KCN có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các cơ sở kinh
doanh xung quanh KCN.
Đánh giá một cách chung nhất, các KCN không chỉ trực tiếp thúc đẩy công
nghiệp của địa phương và của vùng có KCN phát triển mạnh mẽ trong 15 năm qua,
mà còn có tác động lan toả rộng rãi tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế từng địa phương và cả nước. Đó chính là hạt nhân của công cuộc CNH,
HĐH nền kinh tế.

+ Góp phần quan trọng vào mở rộng thị trường, đẩy mạnh kinh tế đối ngoại
và tăng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực hành lang kinh tế.
+ KCN đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái. KCN
là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện tập trung các chất
thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý, tránh tình trạng khó kiểm soát hoạt động
của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất.


7
+ Mô hình quản lý - áp dụng cơ chế “một cửa, tại chỗ” đối với KCN. Chính
sách về KCN trong thời gian qua đã đạt được những chuyển biến tích cực.
Bước vào thiên niên kỷ mới, nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ
về phát triển kinh tế xã hội, trong đó đầu tư phát triển đóng vai trò hết sức quan
trọng. Việc huy động tương đối đầy đủ các nguồn lực cho đầu tư; cơ cấu lại các
nguồn vốn đầu tư, coi trọng nguồn vốn của dân cư, tư nhân; chuyển dịch cơ cấu đầu
tư hợp lý, theo hướng CNH, HĐH; đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông
thôn, điều chỉnh cơ cấu giữa các ngành, vùng, từng bước hình thành một cơ cấu đầu
tư hợp lý, tạo ra thế và lực cho nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực
và cộng đồng quốc tế.
Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách và cơ chế quản lý mới, có nhiều cố
gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc mọi thành phần
kinh tế, cả trong nước và ngoài nước, nhất là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do đó, vốn đầu tư phát triển hàng năm
không ngừng tăng, các nguồn vốn huy động tham gia đầu tư ngày càng đa dạng. Kết
qủa là đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, nhiều KCN, KCX, các ngành
công nghiệp then chốt của đất nước, hạ tầng giao thông vận tải, nông nghiệp… Hạ
tầng xã hội đã được chú trọng đầu tư và được cải thiện đáng kể, tạo ra tiền đề cần
thiết và quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển của các
ngành kinh tế.
1.2.4 Các quan điểm phát triển KCN Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO

Chính sách phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài cho các tỉnh, thành phố và
việc tăng cường hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật, chính sách và các công
cụ khác đã làm tăng quyền tự chủ cho các địa phương. Trong những sự lựa chọn về
giải pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc thành lập các KCN là giải pháp đã
được các địa phương lựa chọn nhiều nhất và có thể đây là một trong những giải
pháp phù hợp nhất với khả năng quản lý của địa phương và là sự thể hiện rõ nhất
mức độ tự chủ của địa phương trong việc thực hiện chính sách phân cấp đầu tư của
Nhà nước.


8
+ KCN phải thực sự là phương tiện hữu hiệu và là một trong những yếu tố
chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế địa phương, thu hút mạnh vốn đầu tư, chuyển
giao công nghệ, tăng cường xuất khẩu và giải quyết việc làm cho lao động địa
phương. Những vai trò tích cực này cần được tận dụng triệt để và khai thác theo
phương thức tối ưu, do những tác động của dòng vốn quốc tế đang có lợi cho Việt
Nam.
+ Tuân thủ các nguyên tắc của WTO trong quá trình hoạch định chính sách
và áp dụng các biện pháp phát triển KCN. Theo những nguyên tắc của WTO mà
trực tiếp là nguyên tắc không phân biệt đối xử, các biện pháp được áp dụng các biện
pháp ưu đãi có tính chất phân biệt sẽ bị coi là vi phạm các quy định của WTO.
+ Đánh giá thích hợp vị trí của các KCN cả từ góc độ lợi ích và góc độ chi
phí và có giải pháp gia tăng lợi ích và hạn chế mặt chi phí. Tuy nhiên sự phát triển
KCN cũng có những tác động nhất định về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
+ Đa dạng hoá và hình thức tổ chức và phương thức quản lý các KCN phù
hợp với từng địa phương và giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa
các địa phương làm ảnh hưởng đến lợi ích của địa phương.
+ Giải pháp tổng thể cả về phía ngành, vùng và việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong chiến lược phát triển dài hạn để phát triển KCN trên cơ sở đánh giá
đúng vai trò có tính chất quá độ của các KCN trong quá trình thực hiện nguyên tắc

và cam kết trong WTO.
1.2.5 Đánh giá hiệu qủa KCN theo cách phân tích điểm mạnh, điểm yếu, thời
cơ và thách thức.

Điểm mạnh:
+ Do tính chất tập trung về mặt không gian, nên KCN có nhiều lợi thế
trong việc tiến hành xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có đủ quỹ đất để mở rộng
và liên kết thành một tổ công nghiệp lớn.
+ Do tập trung trong một KCN có hàng rào ranh giới phân biệt rõ trong
hàng rào và ngoài hàng rào nên thuận lợi cho việc kiểm soát hàm lượng phát thải
công nghiệp.


9
+ Các KCN được bố trí ở những khu vực có cự ly vận tải thích hợp, thuận
tiện vận chuyển, bảo quản nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm…nên có nhiều thuận
lợi trong việc cung cấp nguyên liệu trong nước hoặc nhập từ nước ngoài.
+ Quy mô KCN và quy mô xí nghiệp công nghiệp có điều kiện để đồng bộ
hoá và chuyên môn hoá sản xuất cho phù hợp với công nghệ chính và điều kiện kết
cấu hạ tầng để đảm bảo hiệu quả.
+ Cũng nhờ tính tập trung cao mà KCN có nhiều thuận lợi trong việc giải
quyết các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước.
+ Có nhiều thuận lợi trong việc cung cấp lao động, cả về số lượng và chất
lượng với chi phí tiền lương thích hợp, cũng như bố trí chỗ ở, phương tiện đưa đón
công nhân.
+ KCN là nơi kết hợp hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, xã hội, người lao
động và các nhà đầu tư.
Điểm yếu:
+ Do KCN xuất hiện nơi đất trống, không nằm trong nội đô, nên xét về
nhiều phương diện nó là một dự án lớn được hình thành trên cơ sở tính toán kỹ

càng, thì dù sao vẫn là một hoạt động làm thay đổi cái cũ, hiện có để hình thành cái
mới trong không gian và thời gian nhất định, nên có xung đột.
+ Những nhà đầu tư kết cấu hạ tầng của KCN thường đứng trước sự lựa
chọn trong việc giải bài toán thu hồi vốn và lãi, thường là phải đánh đổi giữa thu hồi
vốn nhanh thì thiếu bền vững, còn thu hồi vốn chậm thì nhiều rủi ro.
+ Khả năng đáp ứng lao động của các khu vực lân cận cho các KCN đang
gặp nhiều khó khăn do trình độ đào tạo và tay nghề của người lao động chưa theo
kịp nhu cầu của các doanh nghiệp trong các KCN.
Thời cơ:
+ Thời cơ để thu hút vốn: KCN khi đã được hoàn thành khâu xây dựng kết
cấu hạ tầng, thì thời cơ thu hút vốn thường gắn môi trường đầu tư trong nước, khu
vực và thế giới. Bởi vậy, dự báo và lựa chọn thời điểm khởi công, thời gian xây
dựng cơ bản có ý nghĩa quyết định đến thành công của một dự án KCN.


10
+ Thời cơ về tạo việc làm.
+ Thời cơ về nâng cao thu nhập cho người lao động.
+ Thời cơ làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thời cơ để nông nghiệp, nông
thôn vươn lên sản xuất hàng hoá và hội nhập.
+ Thời cơ để rèn luyện và nâng cao năng lực nguồn nhân lực trong vùng.
Thách thức:
+ Tình trạng thừa lao động chưa qua đào tạo trong lúc thiếu trầm trọng lao
động qua đào tạo và lao động chất lượng cao đang là thách thức lớn đối với xã hội
Việt Nam trong vài thập niên tới.
+ Mức sống của người lao động tăng lên nhanh cùng với đà phát triển của
nền kinh tế làm cho mất dần lợi thế về giá sức lao động rẻ.
+ Hội nhập ngày một sâu hơn làm cho tự do lưu thông các luồng lao động,
tư bản- vốn, khoa học, công nghệ… một mặt san lấp nhanh sự chênh lệch về giá cả
hàng hoá nói chung cũng như sức lao động nói riêng và đồng thời làm mất dần tính

chất ưu tiên, ưu đãi về cơ chế chính sách đối với trong hàng rào KCN so với toàn bộ
nền kinh tế.
+ Tự do hoá thị trường đi liền với việc phát triển đồng bộ các loại thị
trường làm cho thị trường bất động sản, nhất là thị trường quyền sử dụng đất được
hình thành rõ nét dần. Điều đó làm cho khâu đền bù giải phóng mặt bằng để xây
dựng kết cấu hạ tầng trong các KCN, cũng như hàng rào ngày càng trở nên đắt đỏ,
khó khăn hơn, làm tăng chi phí đầu tư của các nhà đầu tư vào phát triển kết cấu hạ
tầng… hậu qủa là giảm dần năng lực cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư của
các KCN.
1.3 Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước.
1.3.1 Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài
Nhiều người biết đến Nhật Bản như một câu chuyện thần kỳ trong phát
triển kinh tế - xã hội và là một cường quốc kinh tế, có GDP đứng thứ ba trên thế
giới (sau Hoa Kỳ và Trung Quốc). Là nước rất nghèo về tài nguyên, trong khi dân
số thì đông, phần lớn nguyên vật liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ


11
trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh
chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973).
Trong suốt thời kỳ tăng trưởng (những năm 70 của thế kỷ XX) của nền
kinh tế Nhật Bản, các KCN đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát
triển các ngành sản xuất công nghiệp và đảm bảo phát triển kinh tế cân đối giữa các
vùng, miền của Nhật Bản. Tính đến những năm cuối của thế kỷ trước, Nhật đã có
602 KCN, gồm 77 KCN ven biển, 525 KCN nội địa với tổng diện tích 34.968ha,
trong đó, tổng diện tích các KCN ven biển 20.257 ha và các KCN nội địa là 14.711
ha.
Nhân tố đã tạo nên sự thành công của hệ thống KCN Nhật Bản, có các bài
học:
Bài học thứ nhất: Xây dựng cơ sở pháp lý phù hợp. Như những nghiên cứu đã

được công bố, thì Nhật Bản trước khi tiến hành phát triển các KCN đã xây dựng
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động và phát triển KCN.
Bài học thứ hai: Quy hoạch phát triển các KCN của từng địa phương phải phù hợp
với quy hoạch tổng thể các KCN trên cả nước và quy hoạch phát triển công nghiệp,
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, miền, nhằm phát huy lợi thế so sánh của
mỗi địa phương để từ đó có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương
trong việc đầu tư phát triển các KCN.
Trong hệ thống quản lý của Nhật Bản, có 3 cơ quan chính quản lý hoạt
động phát triển của các KCN gồm: Bộ Thương Mại và Công nghiệp quốc tế, Cơ
quan quản lý đất quốc gia và Bộ Xây dựng. Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và Bộ Vận
tải quản lý những vấn đề khác có liên quan.
Bài học thứ 3: Cần lựa chọn cơ cấu đầu tư trong các KCN theo hướng khuyến
khích phát triển, thu hút các dự án đầu tư các ngành có hàm lượng khoa học kỹ
thuật cao, có tốc độ tăng trưởng cao và sức lan toả nhanh tới các ngành kinh tế khác
để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.


12
Nhận thức được tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển hệ thống
cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận tiện cho sản xuất công nghiệp, Chính phủ Nhật
Bản đã dành một lượng vốn đầu tư ngày càng lớn cho lĩnh vực này.
Việc phát triển các KCN của Nhật Bản diễn ra trong những thập niên đầu
và giữa thế kỷ 20, trong bối cảnh thế giới khác nhiều so với thời kỳ hiện nay – thời
kỳ của toàn cầu hoá, thương mại tự do và động lực tri thức. Tuy nhiên đối với nước
ta – một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH thì những bài học kinh nghiệm về hoạch định chính sách
đầu tư phát triển các KCN của Nhật Bản vẫn bổ ích đối với nước ta.
1.3.2 Kinh nghiệm thu hút đầu tư trong nước của KCN tỉnh Quảng Nam
Một số kết qủa đạt được cùng với cả nước, việc đầu tư, phát triển các KCN
được xem là điểm đột phá phát triển tỉnh Quảng Nam từ sau ngày tái lập. Qua hơn 9

năm phát triển, đến nay ngoài khu kinh tế mở Chu Lai Quảng Nam đã có 5 KCN
với diện tích 1.500 ha, bao gồm KCN Điện Nam – Điện Ngọc đã cơ bản lấp đầy
diện tích giai đoạn I và 1/3 diện tích giai đoạn II. Các KCN khác như Thuận Yên,
Bắc Chu Lai, Tam Hiệp, Đông Quế Sơn cũng đã khởi động. Thêm vào đó, một số
cụm công nghiệp nhỏ ở từng địa phương cũng đã được hình thành.
Bên cạnh những kết qủa đạt được, các KCN ở Quảng Nam vẫn tồn tại một
số điểm yếu kém cần khắc phục. Đó là: Công tác quy hoạch phát triển KCN còn
mang yếu tố điểm, chưa nhân ra diện rộng, đặc biệt chưa thực sự có tầm nhìn xa để
đón đầu các điều kiện thuận lợi sẽ phát sinh; Phần đầu tư hạ tầng bằng nguồn vốn
Nhà nước còn quá thấp so với nhu cầu, làm cho hạ tầng được triển khai còn chắp
vá, chậm so với tiến độ thu hút đầu tư vì phụ thuộc khả năng tài chính của chủ đầu
tư KCN; Công tác quản lý môi trường phòng chống cháy nổ, quản lý theo quy định
về lao động ngày càng phức tạp, nhưng vẫn chưa triển khai những giải pháp ngăn
ngừa xử lý hữu hiệu; Công tác cải cách hành chính chưa đi vào chiều sâu và sự phối
hợp đồng bộ giữa các ngành chưa nhuần nhuyễn, ăn khớp nên tính nhanh nhạy,
chính xác khi giải quyết các yêu cầu của nhà đầu tư còn hạn chế; Nguồn lao động
giản đơn trên địa bàn lớn nhưng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng phục vụ


13
KCN chưa đáp ứng yêu cầu tay nghề, kỹ thuật của các nhà máy trong KCN; Công
tác xúc tiến đầu tư còn chủ yếu dựa vào sự năng động của Công ty chủ đầu tư KCN,
các đơn vị của Nhà nước tham gia chưa nhiều, chưa đồng bộ và các hình thức chưa
thật đa dạng.
1.3.3 Bài học chung
Trải qua hơn 5 thập kỷ phát triển KCN ở nhiều quốc gia trên thế giới, đến
nay đã đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích cho sự thành công của mô
hình KCN. Các bài học đó tựu chung là:
+Mục tiêu của KCN phải được xác định rõ ràng để có thể hoạch định chiến
lược phát triển với cơ cấu các ngành công nghiệp, loại hình sản phẩm phù hợp với

lợi thế so sánh và nhu cầu thị trường, trên cơ sở đó xác định quy mô, thời gian, địa
điểm xây dựng của từng KCN cũng như quy hoạch của mạng lưới KCN trên một
vùng lãnh thổ, đảm bảo vị trí thuận lợi với mạng lưới giao thông nhanh chóng, ổn
định cho hoạt động của KCN.
+ Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đủ hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư vào KCN trên cơ sở đảm bảo môi trường kinh tế - chính trị ổn định với sự
cam kết rõ ràng của chính quyền trung ương và địa phương.
+ Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, đảm bảo thông tin liên lạc
nhanh chóng, cung cấp điện nước đầy đủ với chi phí hợp lý.
+ Bộ máy quản lý KCN có đủ năng lực, hoạt động hiệu quả với các thủ tục
hành chính và quy chế hoạt động “một cửa, tại chỗ”.
+ Có lực lượng lao động dồi dào, được đào tạo tốt với giá nhân công hợp
lý.
+ Tổ chức tốt việc khuyếch trương khi xây dựng KCN để thu hút được các
công ty lớn đầu tư vào KCN.
Kết Luận Chương 1
Chúng ta cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về KCN, tiến tới ban hành
Luật về KCN làm cơ sở pháp lý ổn định và thống nhất cho việc tổ chức và hoạt
động của các KCN Việt Nam. Các công cụ chính sách đầu tư phát triển KCN phải


14
rõ ràng minh bạch, đặc biệt là phải nhất quán, có tầm nhìn dài hạn và toàn cục được
xây dựng trên cơ sở cân nhắc rất kỹ mục tiêu CNH cho từng thời kỳ.
Cả trong hiện tại và lâu dài về phát triển công nghiệp đất nước và các địa
phương theo hướng coi trọng các ngành có lợi thế so sánh và các ngành có lợi thế
cạnh tranh, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp
đang là động lực thúc đẩy các địa phương thành lập KCN hướng tới mục tiêu đưa
nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020, như vậy các KCN sẽ còn tiếp tục thành lập. Sự phát triển của các KCN chịu

ảnh hưởng rất lớn của điều kiện phát triển của từng địa phương về vị trí địa lý,
nguồn lực phát triển, việc bố trí cơ cấu kinh tế theo ngành và theo vùng trong từng
thời kỳ phát triển. Khi nhu cầu phát triển của các KCN vẫn còn, đặc biệt là nhu cầu
khai thác các nguồn lực phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,
thúc đẩy xuất khẩu, tăng cường thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, công nghệ
hiện đại từ nước ngoài…thì các KCN sẽ trở thành một trong những mục tiêu được
coi trọng phát triển.
















15


Chương 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
CÁC KCN TẠI TỈNH ĐỒNG NAI

2.1 Sự phát triển KCN cả nước

2.1.1 Mục tiêu và việc hình thành các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020.
+ Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu phát triển các KCN tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng
đến năm 2020 là hình thành hệ thống các KCN chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát
triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các KCN có quy mô hợp lý để tạo
điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa
phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp; đưa tỷ
lệ góp vốn của các KCN vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ trên 24% hiện nay
lên khoảng 39-40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào giai đoạn tiếp theo; tăng tỷ lệ
xuất khẩu hàng công nghiệp của các KCN từ 19,2% giá trị xuất khẩu toàn quốc hiện
nay lên khoảng 40% vào năm 2010 và cao hơn vào giai đoạn tiếp theo.
+ Mục tiêu cụ thể
Giai đoạn đến năm 2010:
Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản lấp đầy các KCN đã được thành lập;
thành lập mới một cách có chọn lọc các KCN với diện tích tăng thêm khoảng
15.000 ha – 20.000 ha, nâng tổng diện tích các KCN đến năm 2010 lên khoảng
45.000 ha – 50.000 ha.
Đầu tư đồng bộ, hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng các KCN hiện
có, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải và đảm bảo diện tích trồng cây xanh
trong các KCN theo quy hoạch xây dựng được duyệt nhằm bảo vệ môi trường và
phát triển công nghiệp bền vững.
Giai đoạn đến năm 2015:


16
Đầu tư đồng bộ để hoàn thiện các KCN hiện có, thành lập mới một cách có
chọn lọc các KCN với tổng diện tích tăng thêm khoảng 20.000 ha – 25.000 ha; nâng
tổng diện tích các KCN đến năm 2015 khoảng 65.000 ha – 70.000 ha. Phấn đấu đạt
tỷ lệ lấp đầy các KCN bình quân trên toàn quốc khoảng trên 60%.

Có các biện pháp, chính sách chuyển đổi cơ cấu các ngành công nghiệp
trong các KCN đã và đang xây dựng theo hướng hiện đại hoá phù hợp với tính chất
và đặc thù của các địa bàn lãnh thổ.
Xây dựng các công trình xử lý rác thải công nghiệp tập trung quy mô lớn ở
những khu vực tập trung các KCN tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN;
phấn đấu thu hút thêm khoảng 6.500 – 6.800 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký
khoảng trên 36 –39 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư thực hiện khoảng 50%.
Giai đoạn đến năm 2020:
Quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý diện tích đất dự trữ cho xây
dựng KCN.
Hoàn thiện cơ bản mạng lưới KCN trên toàn lãnh thổ với tổng diện tích các
KCN đạt khoảng 80.000 ha vào năm 2020.
Quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các KCN đã được thành lập
theo hướng đồng bộ hoá.
Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài nói chung vào các KCN, KCX từ nay
đến năm 2010 tương đối sáng sủa. Đối với đầu tư trong nước, Luật Doanh nghiệp
tiếp tục phát huy hiệu quả, được đánh giá là có tiềm năng to lớn trong việc huy động
vốn. Theo dự báo, những lĩnh vực có triển vọng hơn cả trong việc thu hút đầu tư
vào các KCN trong 5 năm tới sẽ là ngành công nghiệp năng lượng (điện, than và
dầu khí); tiếp đến là công nghiệp ôtô; công nghiệp dệt may, da giày; cơ khí đóng
tàu; sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, thiết bị thông tin, phần mềm và vật liệu xây
dựng.
2.1.2 Hoạt động của các KCN, KKT của Việt Nam trong năm 2006 được khái
quát ở những kết qủa dưới đây:


17
Năm 2006 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, cũng là năm
đánh dấu bước chuyển biến mới của hệ thống các KCN, KKT sau 15 năm xây dựng

và phát triển:
Thứ nhất là tiếp tục thành lập mới và mở rộng các KCN ở một số địa phương
nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.
Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập 9 KCN mới với
tổng diện tích đất tự nhiên đạt 2.081 ha và đồng thời cho phép mở rộng thêm 526
ha. Tổng diện tích các KCN được thành lập mới và mở rộng trong năm 2006 đạt
2.607 ha, trong đó đất công nghiệp có thể cho thuê là 1.780 ha.
Trước xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục gia tăng trong thời gian
tới, việc tiếp tục thành lập mới và mở rộng thêm các KCN trong năm 2006 đã tính
tới giai đoạn phát triển trong những năm sau, nhằm chuẩn bị quỹ đất để đón các nhà
đầu tư trong một vài năm tới. Đồng thời diện tích các KCN tăng thêm năm 2006 đã
được điều chỉnh hợp lý hơn so với các năm trước (bằng khoảng 75%) nhằm đảm
bảo hiệu qủa sử dụng quỹ đất và phù hợp với tốc độ gia tăng đầu tư.
Tính đến cuối tháng 12/2006, cả nước có 139 KCN được Thủ tướng Chính
phủ cho phép thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 29.392 ha, trong đó diện tích
đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 19.743 ha, chiếm 67% tổng diện tích đất tự
nhiên.
Về phân bố các KCN, trong thời gian qua, phân bố các KCN đã dần dịch
chuyển theo hướng giảm bớt mật độ các KCN ở các Vùng kinh tế trọng điểm, ưu
tiên thành lập các KCN ở Trung Du và miền núi Bắc Bộ, Đồng Bằng sông Hồng,
Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, 48 tỉnh, thành phố đã thành lập KCN, tuy
nhiên, phân bố các KCN vẫn tập trung ở ba Vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam tập trung nhiều KCN nhất với 65 KCN với tổng diện tích tự
nhiên 16.228 ha, chiếm 55,2% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước. Vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc có 25 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 4.601 ha,
chiếm 15,7% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước và Vùng kinh tế trọng


18
điểm Miền Trung có 10 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 2.395 ha, chiếm 8,1%

tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước.
Thứ hai là tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT
trong năm 2006 đạt được mức tăng trưởng rất cao.
Thu hút đầu tư nước ngoài: năm 2006, các KCN, KKT đã thu hút được
356 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 4.336 triệu
USD, chiếm khoảng 56% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước và gấp
2,4 lần so với năm 2005.
Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh là
những địa phương thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất cả nước với 213 dự án
với tổng vốn đầu tư đăng ký 2.578 triệu USD, chiếm khoảng 60% cả số dự án và số
vốn đầu tư thu hút mới trong các KCN trên cả nước.
Về tình hình tăng vốn, trong năm 2006, có 337 lượt dự án đầu tư nước ngoài tăng
vốn với tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 1.347 triệu USD, chiếm khoảng 62%
số vốn tăng thêm của cả nước, tăng 30,5% so với năm 2005 (về tổng vốn đầu tư
tăng thêm).
Đồng Nai, Bình Dương, Long An và thành phố Hồ Chí Minh là những địa
phương dẫn đầu cả nước về số vốn đầu tư tăng thêm với tổng số 219 lượt dự án tăng
vốn và tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 1.024,5 triệu USD, chiếm 76% tổng vốn đầu
tư tăng thêm trong các KCN cả nước.
Trong năm 2006, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng
thêm vào các KCN, KKT đạt 5.682 triệu USD, chiếm khoảng 56% tổng vốn đầu tư
cấp mới và tăng thêm của cả nước và tăng gần 2 lần so với năm 2005.
Tính đến cuối tháng 12/2006, các KCN đã thu hút được 2.433 dự án có vốn
đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 21,79 tỷ USD. Trong đó, trên
1.700 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và 380 dự án đang xây dựng nhà xưởng.
Tổng vốn đầu tư thực hiện lũy kế đến cuối năm 2006 đạt 11,37 tỷ USD, chiếm
khoảng 52 % tổng vốn đầu tư đăng ký.


19

Thu hút đầu tư trong nước: năm 2006, các KCN trên cả nước thu hút
được trên 300 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đạt trên 15.000 tỷ đồng.
Lũy kế đến cuối tháng 12/2006, các KCN cả nước thu được 2.623 dự án đầu tư
trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 135,69 nghìn tỷ đồng. Trong
đó, trên 1.720 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và còn gần 500 dự án đang xây
dựng nhà xưởng. Tổng vốn đầu tư thực hiện lũy kế đến cuối năm 2006 đạt khoảng
78 nghìn tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 58%.
Thứ ba là, trong năm 2006, mặc dù có nhiều biến động trên thị trường trong nước
và thế giới, đặc biệt sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới
(WTO), các doanh nghiệp KCN vẫn tiếp tục duy trì hiệu quả sản xuất kinh doanh
cao.
Giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN cả nước năm 2006 ước đạt
khoảng 16,8 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2005 và chiếm khoảng 29 -30% tổng giá
trị sản xuất công nghiệp cả nước.
Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN cả nước năm 2006 ước đạt
khoảng 16,8 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2005 và chiếm trên 21% so với tổng giá
trị xuất khẩu cả nước năm 2006 (kể cả dầu thô).
Giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN cả nước năm 2006 ước đạt
khoảng 12,5 tỷ USD, tăng gần 50% so với năm 2005.
Qua các chỉ tiêu nêu trên, ta thấy đóng góp của KCN, KKT vào giá trị sản
xuất công nghiệp và xuất khẩu của cả nước ngày càng lớn.
Năm 2006, các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách khoảng 880 triệu USD,
tăng 35,4% so với năm 2005.
Tính đến cuối năm 2006, các KCN đã giải quyết việc làm cho trên 918.000
lao động trực tiếp.
Thứ tư là, tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN đã được cải thiện đáng kể.
Đến cuối năm 2006, cả nước có 19 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng
và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 970 triệu USD và 120 dự án



20
trong nước đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư
37.259 tỷ đồng.
Trong số 139 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN kể
trên, 17 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 73 dự án đầu tư trong nước đã cơ bản
hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng và đi vào vận hành; các dự án còn lại đang triển
khai đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản.
Tổng vốn thực hiện của các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng
KCN lũy kế đến cuối năm 2006 đạt khoảng 585 triệu USD và 13.596 tỷ đồng. Đến
cuối năm 2006, cả nước đã có 90 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tư
nhiên 19.548 ha và 49 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và
xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 9.844 ha.
Thứ năm là tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp tiếp tục gia tăng.
Tính đến cuối năm 2006, các KCN trên cả nước đã cho thuê được khoảng 10.758
ha, đạt diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê 54,5%. Riêng các KCN đã vận
hành đạt tỷ lệ lấp đầy trên 72,2%.
Nhiều KCN mới hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào hoạt động trong
năm nay thì đạt được tỷ lệ lấp đầy cao hơn năm 2005 (52%) là kết quả rất có ý
nghĩa, thể hiện tốc độ thu hút đầu tư tăng nhanh. Đáng chú ý là các KCN mới thành
lập 2 –3 năm gần đây cũng đã đạt tốc độ lấp đầy khá nhanh.
Các Vùng kinh tế trọng điểm, tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê
của các KCN ở phía Nam đạt 57,7%, miền Trung đạt 71%; phía Bắc đạt 53,9%.
Thứ sáu là hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng các KKT diễn ra hết sức khẩn trương
và đạt kết qủa thu hút đầu tư tốt.
Thứ bảy là trong năm 2006, nhiều cơ chế chính sách mới liên quan trực tiếp tới
hoạt động của KCN, KKT được ban hành.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển KCN của Việt Nam đến
năm 2015 định hướng đến 2020 (Quyết định số 1107/QĐ –TTg ngày 21/8/2006).
Quy hoạch phát triển KCN đã thể hiện nhiều điểm mới như sau:



21
+ Đề ra được hệ thống các điều kiện và tiêu chí thành lập mới và mở rộng
KCN chặt chẽ, cụ thể, bảo đảm gắn bó chặt chẽ giữa vấn đề hiệu qủa đầu tư với vấn
đề xã hội, môi trường.
+ Các tiêu chí trên hạn chế sự thành lập và đề nghị thành lập tràn lan các
KCN ở địa phương, đồng thời qua cơ chế thành lập nêu trên đã tạo động lực và sự
năng động cho địa phương để phấn đấu đáp ứng các điều kiện và tiêu chí nhằm
thành lập và mở rộng KCN.
+ Cơ chế này phù hợp với việc phân cấp theo Nghị định hướng dẫn Luật
Đầu tư, theo đó đã tạo sự chủ động cho các Ban Quản lý KCN trong việc xem xét
thành lập và mở rộng các KCN theo đúng thẩm quyền. Cơ chế thành lập KCN gắn
với điều kiện và tiêu chí là một biện pháp để khắc phục sai số trong cách tính toán
để hình thành danh mục các KCN dự kiến thành lập.
+ Điều kiện và tiêu chí nêu trên cũng là cơ sở để tiến hành công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát việc thành lập các KCN tại địa phương.
Thứ tám là vai trò, vị trí của các Ban Quản lý KCN đã được khẳng định và nâng
cao rõ rệt.
Luật đầu tư mới năm 2005 và các Nghị định hướng dẫn được ban hành đã
đánh dấu bước chuyển đổi quan trọng trong tư duy quản lý nhà nước về đầu tư từ cơ
chế ủy quyền sang cơ chế phân cấp. Năm 2006, Ban quản lý các KCN đã thể hiện rõ
nét vai trò tham gia xây dựng và triển khai chính sách. Với kinh nghiệm thực tiễn
quản lý trực tiếp các KCN, KKT trên địa bàn, quá trình thực hiện nhiệm vụ theo ủy
quyền, Ban quản lý KCN, KKT đã đóng góp nhiều ý kiến trong quá trình xây dựng
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các Nghị định hướng dẫn; tham gia đề xuất, góp
ý vào quá trình xây dựng, điều chỉnh chính sách phát triển KCN, KKT của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và các bộ, ban, ngành. Qua cơ chế phân cấp theo Nghị định mới,
Ban quản lý được thực hiện quyền hạn, trách nhiệm một cách chủ động, đồng thời
gắn chặt chẽ với các chế tài giám sát, định hướng, điều chỉnh của các cơ quan trung
ương qua công tác quy hoạch, hướng dẫn, thẩm định dự án…



22
Như vậy, những thành tựu trên đã thể hiện hệ thống KCN, KKT đã tích cực
chuyển sang một giai đoạn phát triển mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo duy trì tốc độ và chất lượng tăng trưởng
theo hướng ổn định, bền vững.
2.1.3 Các điều kiện và tiêu chí hình thành các KCN trên địa bàn lãnh thổ:
+ Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và tình hình phát triển kinh tế - xã hội;
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của từng địa phương.
+ Có điều kiện thuận lợi hoặc có khả năng xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng và hạ tầng xã hội, triển khai đồng bộ và kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch phát
triển KCN, KCX với quy hoạch phát triển đô thị, phân bổ dân cư, nhà ở và các công
trình xã hội phục vụ cho công nhân trong KCN, KCX.
+ Có quỹ dự trữ để phát triển và có điều kiện liên kết thành cụm các KCN;
riêng đối với địa phương thuần tuý đất nông nghiệp, khi phát triển các KCN để thực
hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế cần tiến hành phân kỳ đầu tư chặt chẽ nhằm
đảm bảo sử dụng đất có hiệu qủa.
+ Có khả năng thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài.
+ Có khả năng cung cấp và đáp ứng nhu cầu về lao động.
+ Đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng.
+ Đối với các địa phương đã phát triển KCN, việc thành lập mới các KCN
chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất công nghiệp của các KCN hiện có đã được
cho thuê ít nhất 60%.
+ Việc mở rộng các KCN hiện có chỉ được thực hiện khi tổng diện tích đất
công nghiệp của KCN đó đã được cho thuê ít nhất là 60% và đã xây dựng xong
công trình xử lý nước thải tập trung.
+ Đối với KCN có quy mô diện tích trên 50 ha và có nhiều chủ đầu tư tham
gia đầu tư xây dựng – kinh doanh kết cấu hạ tầng, phải tiến hành lập quy hoạch

chung xây dựng KCN theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng trước khi lập quy hoạch chi


23
tiết KCN để đảm bảo tính thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống hạ tầng kỹ thuật
KCN.
+ Trong KCN, KCX không có dân cư. Trong KCN có thể có KCX, doanh
nghiệp chế xuất.
2.1.4 Hạn chế các KCN hiện nay
Trong bối cảnh phải thích nghi nhanh với hệ thống pháp luật mới, với yêu
cầu mới của quá trình gia nhập WTO, hệ thống KCN, KKT vẫn bộc lộ một số hạn
chế chưa được khắc phục và xuất hiện một số điểm yếu như sau:
Một là, công tác xây dựng quy hoạch về cơ bản đã đạt kết quả tốt, song vẫn còn
một số địa phương muốn xây dựng thêm KCN không thuộc quy hoạch phát triển
KCN do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mà không có luận chứng thuyết phục sự
cần thiết phải bổ sung quy hoạch.
Hai là, nhiều Ban quản lý KCN chưa thực sự thích nghi kịp với hệ thống cơ chế,
chính sách mới đã được điều chỉnh. Một số Ban quản lý KCN mới đựoc thành lập
còn chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ mới của mình về quản lý nhà nước về
đầu tư đối với các KCN. Có hệ thống pháp luật mới đã quy định, nhưng một số Ban
quản lý còn nhầm lẫn giữa Giấy phép đầu tư và Giấy chứng nhận đầu tư, thẩm
quyền cấp phép dự án cơ sở hạ tầng KCN thuộc UBND tỉnh, hoặc một số dự án
thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đây nay thuôc thẩm
quyền của Ban quản lý KCN…
Ba là, cơ chế, chính sách về quản lý về KCN, KKT theo Luật Đầu tư mới còn nhiều
điểm chưa thống nhất và chưa được đầy đủ. Các cơ chế, chính sách trên các lĩnh
vực khác còn chưa điều chỉnh kịp theo Luật mới, nhiều quy định trong Nghị định
hướng dẫn còn thiếu, gây khó khăn cho các Ban trong quá trình áp dụng (chẳng hạn
về quy hoạch chi tiết KCN, về một số nội dung quản lý nhà nước đối với KCN,
KKT…).

Bốn là, đời sống của người lao động trong KCN đã được quan tâm hơn nhưng nhìn
chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cuộc sống với thu nhập ổn định cho
người công nhân và gia đình.


24
Năm là, công tác bảo vệ môi trường chưa được đẩy mạnh đúng mức. Trong năm
qua, chưa có thêm được KCN nào hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tập trung, cả
nước mặc dù đã có 139 KCN nhưng vẫn chỉ có 33 KCN đã vận hành nhà máy xử lý
nước thải tập trung; có thêm một số KCN chuẩn bị xây dựng như một số KCN ở
Đồng Nai…
Sáu là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN vẫn còn hạn
chế xét về nhiều khía cạnh (lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, chất lượng kết
quả thanh tra, chế tài thanh tra, kiểm tra…). Sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng trong công tác thanh tra còn chưa thật chặt chẽ, chưa có sự phân công, phân
nhiệm rõ ràng. Đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra còn mỏng, phương tiện làm việc
còn hạn chế (đặc biệt là công tác thanh tra kiểm tra công tác bảo vệ môi trường).
Các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của KCN về các lĩnh vực kế hoạch, đầu
tư, môi trường… còn thiếu và chưa đảm bảo tính cương quyết.
2.1.5 Những vấn đề cần khắc phục để KCN phát huy hơn nữa vai trò là nhân
tố tích cực trong việc chủ động, tích cực hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Để thực hiện tốt vai trò quan trọng đó, các KCN đang đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức cần giải quyết:
+ Trình độ phát triển các KCN chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu
của thời kỳ đổi mới, kể cả tại những địa bàn trọng điểm thu hút vốn đầu tư như Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hiệu quả hoạt động của các KCN trên cùng một
địa bàn cũng như giữa các địa bàn không đồng đều.
+ Hiệu qủa công tác quy hoạch và điều hành thực hiện quy hoạch. Các dự
án tập trung chủ yếu ở những địa bàn thuận lợi như ở các thành phố lớn, gần cảng
biển và sân bay quốc tế . Chưa hình thành hệ thống các KCN gắn với địa bàn nông

nghiệp, nông thôn. Cần tập trung giải quyết các vướng mắc để tiếp tục triển khai đối
với các khu, cụm công nghiệp đã phê duyệt, đảm bảo triển khai thông thoáng nhưng
chặt chẽ.
+ Kết hợp với việc lấp đầy diện tích các KCN với việc nâng cao chất lượng
các dự án đầu tư vào KCN bằng cách chọn lọc và khuyến khích thu hút các dự án có


25
sức cạnh tranh cao và phát triển bền vững. Hiện mức đầu tư/ha đất KCN bình quân
của cả nước khoảng 2 –3 triệuđ/m2 . Số dự án công nghiệp có hàm lượng chất xám
cao, hàm lượng lao động thấp, hiện nay được đánh giá chiếm 18,18%.
Trong quy hoạch và xây dựng các KCN, tình trạng “quy hoạch treo” cũng
như tình trạng “dự án treo” đều xãy ra ở nhiều nơi. Do nóng vội trong đầu tư phát
triển công nghiệp và dự báo về khả năng đầu tư không sát với thực tế hoặc thiếu các
giải pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư nên nhiều địa phương thu hồi đất của dân,
san lấp mặt bằng nhưng phải để đất trống trong nhiều năm vì chưa có nhà đầu tư
phù hợp. Một số nơi vội giao đất cho nhà đầu tư không năng lực nên dự án không
triển khai đúng tiến độ, có khi qua 5 năm mà dự án chưa hoàn thành. Một số địa
phương đã có chính sách phù hợp để điều tiết hợp lý giá cho thuê đất để xây dựng
kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN và giá cho thuê lại đất trong KCN
+ Khó khăn về tiếp cận nguồn vốn do những hạn chế về thủ tục, quy định,
thiếu thông tin. Để đầu tư xây dựng các hạng mục công trình hạ tầng, mở rộng quy
mô sản xuất…doanh nghiệp trong KCX rất cần đến nguồn vốn của ngân hàng, nhất
là đối với nhà đầu tư nước ngoài.
+ Chất lượng nguồn nhân lực trong các KCN chưa cao. Nguồn nhân lực
đầu vào của các KCN chất lượng còn hạn chế , và do nhiều nguyên nhân thường
xuyên biến động.
+ Điều kiện làm việc và sinh hoạt của công nhân trong KCN chưa đảm bảo.
+ Vấn đề môi trường tại và xung quanh các KCN đang trở nên bức xúc.
Bên cạnh những tác động của các KCN đối với việc đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá mà còn đặt ra những vấn đề cần phải quan tâm như:
+ Xu thế chung của các nhà đầu tư nước ngoài là thường tìm cách đưa công
nghệ lạc hậu vào các nước đang phát triển nhằm lợi dụng nguồn nhân lực rẻ gia
công sản phẩm cho chính quốc và trong góp vốn hợp tác, liên doanh sản xuất thì tìm
cách khai tăng giá trị cho máy móc, thiết bị cao hơn giá trị thực của chúng.
+ Quan điểm nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý
chủ chốt của các địa phương về vị trí, vai trò của KCN còn có sự khác nhau và thiếu

×