1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ 21 thế kỷ của sự bùng nổ về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện
đại, tiên tiến nhất từ trước đến nay. Những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
trong những năm gần đây đã làm thay đổi cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế
giới.
Việt Nam là một quốc gia thuộc các nước đang phát triển về mặt kinh tế,
lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Song, dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, Việt Nam cũng đang từng ngày từng giờ
thay đổi diện mạo của mình.
Hiện nay, trong sự nghiệp xây dựng đất nước, với quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế đòi hỏi chúng ta phải mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế và giao lưu
văn hoá với các nước trên thế giới. Thông qua việc mở rộng quan hệ, chúng ta đã
tiếp thu được nhiều thành tựu văn minh của nhân loại, làm phong phú thêm nền
văn hóa dân tộc. Nhưng cũng trong quá trình mở cửa hội nhập, sự xâm nhập của
văn hoá và lối sống ngoại lai làm cho văn hoá truyền thống dân tộc có nguy cơ bị
lãng quên. Trong đời sống xã hội, đã có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị
truyền thống, chạy theo thị hiếu không lành mạnh. Đặc biệt, tệ sùng bái nước
ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá
nhân vị kỷ đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các tệ nạn xã hội
ngày càng gia tăng, đó là một thực trạng đáng lo ngại.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng và quản lý của
Nhà nước, bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất hiện những cách sống và lối
sống xa lạ, trái với các chuẩn mực của xã hội và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
2
Một bộ phận trong các tầng lớp, các thành phần xã hội khi mưu cầu lợi ích cá
nhân đã chà đạp lên nhưng khuôn mẫu, những giá trị đạo đức đích thực. Nạn
tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn xã hội khác đang phát
triển tràn lan. Một bộ phận trong lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống thực dụng,
buông thả, quay lưng lại với văn hóa, đạo đức truyền thống Trong bối cảnh đó,
việc bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống là vấn đề cần phải nhìn nhận nghiêm
túc và có sự quan tâm đặc biệt cùng với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế
thị trường ở nước ta.
Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường, đồng
thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VII, nguyên Tổng
Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất
định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất
nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh
mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số định hướng lớn trong công tác
tư tưởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự phát triển của một dân tộc phải vươn
tới cái mới tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển
phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ
được cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là những giá
trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần rất
lớn vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Sinh viên Đại học Tây Bắc là
lực lượng trẻ, với trên dưới 10.000 sinh viên, chủ yếu là con em đồng bào dân
3
tộc ở Tây Bắc, thích ứng nhanh với những biến đổi của thời đại, đặc biệt là
những điều được cho là đến từ “Thế giới văn minh”. Cũng chính vì thế mà nhiều
khi các em chưa ý thức hết được giá trị của việc giữ gìn và phát huy những giá
trị truyền thống trong bản sắc văn hóa của dân tộc. Giới sinh viên đã nảy sinh xu
hướng quan tâm nhiều đến lợi ích kinh tế của cá nhân, điều đó được biểu hiện
trong việc chọn ngành nghề để làm giàu hoặc có quyền lực. Khi tất nghiệp ra
trường, phần lớn trong số họ không muốn làm việc ở các cơ quan của tổ chức
Đảng, đoàn thể, giáo dục "Thập nạn" trong sinh viên hiện nay, như tiêu cực
trong thi cử, cờ bạc, quan hệ tình dục phóng túng,, mê tín dị đoan, uống rượu
say, nghiện hút, cắm quán, trộm cướp, ham mê văn hoá phẩm đồi truỵ, vô kỷ
luật, mất trật tự vệ sinh, đua đòi, chạy theo lối sống thực dụng cho thấy, thực
trạng đạo đức sinh viên đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, giải quyết.
Liệu chúng ta có thể giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị
phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Làm
như thế nào để chúng ta "hội nhập" mà không bị "hòa tan", phát triển mà không
bị "mất gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã và
đang yêu cầu thanh niên Việt Nam nói chung - sinh viên Đại học Tây Bắc nói
riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng vững trước mọi thử thách khắc
nghiệt của cuộc sống hiện đại dựa vào việc phát huy những giá trị đạo đức tryền
thống của dân tộc.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là vấn đề
hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận
văn chọn: " Giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên đại hoc Tây Bắc
hiện nay)" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
4
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có nhiều
công trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã đề cập
đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Tìm hiểu định
hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" do
Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994; "Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay
và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên, 1995; "Sự
biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường" của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học, số 5-1995; "Sự tác động hai mặt
của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh
Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2-1997; "Định hướng xã hội chủ nghĩa về các
quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp
chí Triết học, số 5, 1998; "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục,
rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Hoàng Trung, Tạp chí Triết
học, số 5, 1998; "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát
triển" của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2, 1998; "Giáo dục đạo đức
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán, 1999; "Vì sao Hồ Chí Minh
lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?" của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số
4, 2000; "Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay"
của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000, "Kế thừa và đổi mới các giá
trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; "Giá trị đạo
đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội" của Mai Xuân Lợi, Tạp chí
Triết học, số 3, 2001, "Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho
thanh niên trong điều kiện hiện nay" của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số
5
2, 2001; "Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người
cán bộ lãnh đạo quản lý" của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý luận chính trị, số
4, 2001 ; "Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại
của đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết
học, số 5, 2002; "Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam hiện nay" của Lê Sĩ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Một
số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết
học, số 6, 2002; "Khoa học công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường" của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Quan hệ biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt
Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; "Tiêu
chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" của Trần Văn
Phòng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, 2003 v.v
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to lớn đối
với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước
ta. Tuy nhiên, những công trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo
dục đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trường đại học Tây Bắc trong
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục đạo đức truyền thống của sinh viên
trường đại học Tây Bắc hiện nay và nguyên nhân của nó, luận văn đưa ra một số
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức truyền thống cho
sinh viên trường đại học Tây Bắc hiện nay.
6
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Khái quát hóa một số vấn đề lý luận và vai trò của việ giáo dục đạo đức
truyền thống cho sinh viên trường đại học Tây Bắc hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên trường
đại học Tây Bắc hiện nay và nêu lên những nguyên nhân.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
truyền thống cho sinh viên trường đại học Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay .
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục đạo đức
truyền thống cho sinh viên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giáo dục đạo đức
truyền thống cho sinh viên trường đại học Tây Bắc hiện nay.
5. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục những
đạo đức truyền thống cho sinh viên trường đại học Tây Bắc hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho
sinh viên trường đại học Tây Bắc hiện nay bước đầu đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên
trường đại học Tây Bắc trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập môn "Đạo đức học" ở trường đại học Tây Bắc. Đồng
thời, nó cũng góp phần nhất định vào việc nhận thức rõ vai trò của việc giáo dục
đạo đức truyền thống cho tầng lớp sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó,
7
tác giả luận văn cố gắng lượng hóa nội dung các giá trị đạo đức truyền thống quý
báu của dân tộc, làm cho đạo đức truyền thống dân tộc mãi mãi là những chuẩn
mực đạo đức mà mỗi con người Việt Nam luôn hướng tới.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng
hợp quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học nhằm thực hiện mục đích và
nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
8
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY
BẮC HIỆN NAY
1.1 Một số vấn đề về việc giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên
trƣờng đại học Tây Bắc hiện nay
1.1.1 Khái niệm đạo đức, đạo đức truyền thống
Khái niệm đạo đức, trong tâm lý học đạo đức được hiểu theo những khía
cạnh sau: Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui
tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã
hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân. Nghĩa rộng hơn: Đạo
đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng
xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên, đạo đức
là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người
với con người, con người với cộng đồng xã hội với tự nhiên.
Theo Chiết tự: Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở. Đức theo
Khổng Tử sống đúng luân thường là có Đức. Theo đạo Lão Tử tu thân tới mức
hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức.
Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó
thuộc về vấn đề tốt - xấu, hơn nữa xem như là đúng - sai, được sử dụng trong ba
phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc
9
còn được gọi là giá trị đạo đức, nó gắn với nền văn hóa, tôn giáo, chủ nghĩa nhân
văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui
tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với
nhau, với xã hội,với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội
.
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các
quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thuỷ, đạo đức của chế độ chủ nô,
đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp
thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có, trái lại, giai cấp bị
bóc lột tuỳ theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên
đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có
giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất
định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại
những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của
đạo đức phản ánh "những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng đồng người
nào" (Lê nin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên
hệ đơn giản nhất giữa người với người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn
bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính
trực, độ lượng, khiêm tốn "không ai nghi ngờ được rằng nói chung đã có một
sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri thức khác của nhân
loại" (Enghen). Quan hệ giữa người với người ngày càng mang tính nhân đạo
cao hơn. Ngay trong xã hội nguyên thuỷ đã có những hình thức đơn giản của sự
10
tương trợ và không còn tục ăn thịt người. Với sự xuất hiện của liên minh bộ lạc
và nhà nước, tục báo thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết
nô lệ là việc riêng của chủ nô, đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị lên án.
Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo và quý tộc,
đạo đức tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. "Nhưng chúng ta vẫn
chưa vượt được khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có
tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ
có thể có được khi nào xã hội đã tới một trình độ mà trong thực tiễn của đời
sống, người ta không những thắng được mà còn quên đi sự đối lập giai cấp". Đó
là trình độ của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã
hội và được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử
giữa con người với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo
đức biến đổi theo sự biến đổi của đời sống xã hội.
Về khái niệm truyền thống, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau về vấn đề "truyền thống". Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên
Xô, "truyền thống" có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio - sự chuyển giao, lưu
truyền lại - đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được lưu truyền từ những thế hệ
trước và nó được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất định. Trong
cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa có đoạn viết:
"Từ đây, cái được gọi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận thiết
yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ
khi nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của chúng ta" [3, tr. 23].
11
Truyền thống của một cộng đồng dân tộc bao gồm những đức tính, thói quen,
những phong tục tập quán xã hội của các thế hệ nối tiếp nhau, nó mang các đặc
trưng: cộng đồng, bình ổn, lưu truyền. "Nói đến truyền thống là nói đến phức hợp
những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những phong tục, lối sống, cách
ứng xử, ý chí của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở nên
ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác" [3, tr. 16-19].
Dưới góc độ khoa học, truyền thống được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ
nhất, truyền thống đó là những giá trị tốt đẹp, được lưu truyền từ đời này qua đời
khác, nó đứng vững được trong thời gian và có thể đương đầu với những biến
động của lịch sử. Hơn nữa, những giá trị ấy có khả năng tạo ra sức mạnh, sản
sinh ra các giá trị mới, đem lại lợi ích cho con người.
Tuy nhiên, trong đó cũng có những cái mà chúng ta vẫn gọi là "truyền
thống" nhưng không đem lại lợi ích cho con người, nhiều khi nó kìm hãm sự
phát triển đây là nghĩa thứ hai, nghĩa tiêu cực của phạm trù này. Trong cuốn
Ngày mười tám tháng Sương mù của Louis Bonaparte, C.Mác viết rằng: "Truyền
thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người
đang sống". Còn Hồ Chí Minh, trong bài "Đạo đức cách mạng" (tháng 12-1958)
cũng đã viết: "Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm
ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải
tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài"
Hiểu theo nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu của
đời sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống của chúng
ta. Tóm lại, sự nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá trị.
12
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh
thần của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được
xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử
giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên (mà ngày nay ta gọi
là giá trị đạo đức sinh thái). Đặc điểm cơ bản của truyền thống nói chung, giá trị
đạo đức truyền thống nói riêng là sự kế thừa. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã rèn luyện và tạo nên những thế hệ người Việt
Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương con người, cần cù, thông minh, sáng tạo,
chịu thương, chịu khó Những đức tính đó đã trở thành những giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, mà hàng ngàn đời nay chúng ta vẫn nâng niu quý
trọng.
Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc, chính là nói đến
truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó chính là những giá trị bình
ổn, tốt đẹp, có thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần được giữ
gìn phát huy phát triển cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền
thống là một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị
tinh thần đó. Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc ta, là nói đến những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo
lưu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc ta được cô đúc, được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ
khác nhau, theo những bước thăng trầm của lịch sử, nó chứa đựng một tiềm năng
hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có của dân tộc Việt Nam,
giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Giá trị đạo đức truyền thống của
13
dân tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam tạo lập trong quá trình dựng nước
và giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù riêng vốn có, đã tạo nên
một bản sắc hết sức độc đáo.
1.1.2 Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam
Như chúng ta đã biết, lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước. Quá trình đó đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, thương yêu
con người, thương yêu đồng loại, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn
Những đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế
hệ con người Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ, đó là những giá trị tinh thần, tư
tưởng, tâm lý như lòng yêu nước, tính cần cù, óc sáng tạo, hài hước, trọng nhân
nghĩa, kính thầy, ham học,… những giá trị tốt đẹp đó có tác dụng củng cố, phát
triển quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con người vượt qua khó khăn trong
cuộc sống hiện tại để phát triển xã hội và hoàn thiện nhân cách. Có những phong
tục tập quán, những thói quen không phù hợp với sự phát triển xã hội thì không
thể coi đó là những truyền thống. Vậy, khi nói đến đạo đức truyền thống thường
là nói đến những giá trị văn hóa, tinh thần tốt đẹp, có ý nghĩa tích cực.
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình
thành, lắng đọng và phát triển qua hàng mấy nghìn năm lao động sáng tạo, chiến
đấu kiên cường của cả dân tộc. Là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa
nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Việt Nam là một quốc gia nằm giữa Đông Nam Á, với địa hình chạy dài
theo bờ biển và tiếp nối giữa ba vùng: miền núi, đồng bằng, bờ biển. Khí hậu
14
nhiệt đới gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều, giàu tài nguyên thiên nhiên, tạo điều
kiện thuận lợi và cũng không ít khó khăn cho nghề trồng lúa nước.
Về mặt lịch sử, Việt Nam là một quốc gia nhỏ hẹp lại phải trải qua rất
nhiều cuộc đấu tranh chống ách đô hộ, chống kẻ thù từ bên ngoài mà thường là
những kẻ thù hùng mạnh hơn ta gấp bội phần. Vì lẽ đó người dân Việt Nam luôn
luôn tập hợp lại thành một khối đại đoàn kết, đấu tranh chống giặc ngoại xâm và
mở mang bờ cõi.
Chính trong quá trình ấy, văn hóa Việt Nam đã có dịp giao lưu với văn
hóa bên ngoài, trong đó văn hóa phương Đông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền
văn hóa tín ngưỡng và tôn giáo của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là tư tưởng Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam từ rất lâu và đã đi sâu vào đời
sống tín ngưỡng người dân Việt Nam.
Phật giáo truyền bá tư tưởng từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn, yêu thương
chúng sinh. Phật giáo cho rằng, có một thế giới vĩnh hằng, tồn tại tích cực siêu
việt, đó là cõi "niết bàn", nhưng muốn đến được nơi cực lạc đó thì con người
phải sống từ bi, ăn hiền, ở lành, xa lánh mọi ham muốn vật chất, mọi thú vui
hưởng lạc, sống không tranh giành, yêu thương nhau. Đương nhiên, tư tưởng này
vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, nhưng ít nhiều nó cũng ảnh hưởng đến
những truyền thống vốn có của ta, làm sâu đậm thêm truyền thống nhân ái yêu
thương con người của dân tộc Việt Nam.
Đạo Nho là một hệ thống quan điểm về thế giới, về xã hội và về con
người, là một học thuyết chính trị - đạo đức - xã hội (mà Khổng Tử là người khởi
xướng) đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam.
Những nội dung tư tưởng của Nho giáo như: Nhân, lễ, chính danh, tam cương,
15
ngũ thường cũng dần thấm sâu vào đời sống, trở thành lối sống, cách ứng xử ở
đời của người Việt Nam và được Việt hóa.
Đạo gia của Lão Tử cũng góp phần làm phong phú thêm cho truyền thống
vốn có của dân tộc ta, nó góp phần làm mạnh mẽ thêm tinh thần đoàn kết thân ái,
gắn bó và tinh thần chống áp bức, đô hộ khi có thời cơ.
Văn hóa Việt Nam không chỉ giao lưu với văn hóa phương Đông mà còn
có sự giao lưu với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Tuy nhiên, khi
các trào lưu văn hóa, tôn giáo đó du nhập vào Việt Nam đã được nhân dân Việt
Nam kế thừa có chọn lọc để hình thành nên những nét riêng đặc trưng cho mình,
nhưng cái riêng đó nó vẫn luôn ẩn chứa cái chung tạo nên sự tương đồng trong
việc hình thành nên các giá trị đạo đức của các dân tộc khác trên thế giới.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi trên nhiều phương
diện nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa riêng của mình, hội nhập mà
không hòa tan, không đánh mất mình và vẫn giữ được những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp quý báu của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban
chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự tôn, tự cường dân tộc, tinh
thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, là
đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, là sự
tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối sống [8, tr. 10-11].
16
Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt
Nam, đã có rất nhiều quan điểm của các học giả, các nhà khoa học bàn về vấn đề
này.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù
và sáng tạo, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo
đức của dân tộc [13, tr. 74-86].
Giáo sư Trần Văn Giàu nói về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta với
bảy nội dung như sau: "Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương
người, vì nghĩa" [12, tr. 108].
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác
tư tưởng hiện nay chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân
tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý
"thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong
lao động " [9, tr. 19].
Trong chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước: "Con người Việt
Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" (KX-07) đã khẳng
định: Cốt lõi của các giá trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách con
người Việt Nam bao gồm: tinh thần yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người
Tuy còn có sự khác biệt nào đó trong việc sắp xếp thang giá trị đạo đức.
Nhưng nhìn chung, các quan điểm các ý kiến đều thống nhất cao độ ở một điểm
coi chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử
Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại" [10, tr. 100], là "tiêu điểm của các tiêu điểm,
17
giá trị của các giá trị" [12, tr. 94], là "động lực tình cảm lớn nhất của đời sống
dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân
tộc ta" [19, tr. 74].
Tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều có tình cảm yêu quê hương đất nước
mình. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương đất nước là một
thứ tình cảm hết sức thiêng liêng, nó xuất phát từ ý thức cộng đồng gắn bó keo
sơn. Mỗi người dân Việt Nam, đều đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, khi có
giặc ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh thân mình, lúc hòa bình biết chăm lo xây
dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Lòng yêu nước của dân tộc ta đã trở thành
triết lý sống, triết lý nhân sinh, trở thành chủ nghĩa yêu nước. GS. Trần Văn
Giàu có viết: "Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam
được bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi người đối với quê hương mình tiến
lên thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ của nhận thức đúng sai, tốt
xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương lược xây dựng và bảo vệ nước nhà"
[11, tr. 7].
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã gắn
bó con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình, chính vì vậy truyền
thống yêu nước của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương
làng xóm, yêu cây đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh
chị em, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ tiên. Nơi con người
hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm.
Vì vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân
tộc. Cho dù ở hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên cường bất khuất,
18
"thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ", già trẻ gái trai nhất tề đứng lên đánh giặc, "còn cái lai quần cũng đánh".
Chính vì vậy mà trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, ông cha ta vẫn bám trụ
đến cùng, giữ đất, giữ làng, gắn bó với mồ mả tổ tiên, giữ vững nơi chôn rau, cắt
rốn của mình. Kiên quyết chống lại chính sách đô hộ của ngoại bang, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào tinh thần yêu nước của dân tộc
Việt Nam không hề giảm sút mà nó luôn luôn được hun đúc, âm ỉ cháy trong
lòng mỗi người dân nước Việt.
Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay từ thuở vua Hùng
dựng nên nước Văn Lang cho đến thời đại Hồ Chí Minh. Với hơn 1000 năm đấu
tranh giành độc lập từ 197 (TCN) đến 938 (SCN), đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng, cho đến cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán với chiến
thắng giòn giã, đã mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Từ 938 - 1789 dân tộc
ta liên tiếp đánh tan quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh, Thanh Đến thời kỳ
chiến tranh giải phóng dân tộc: từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1975, chúng ta đã
đánh thắng cả hai tên đế quốc to: Pháp, Mỹ. Với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,
chúng ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giang sơn thu về
một mối, nước nhà hoàn toàn độc lập. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động
Việt Nam (11-2-1951), Bác Hồ nói: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp
nước.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, được thử
thách và được khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung và
19
phát triển qua từng thời kỳ, nó là một trong những giá trị truyền thống cao quý
và bền vững nhất của dân tộc ta. Ngày nay, truyền thống yêu nước của nhân dân
Việt Nam thể hiện trong xây dựng đất nước, trước hết là chăm lo xây dựng đất
nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa Thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng
vào đường lối đổi mới của Đảng, vào khả năng, sức mạnh tự lực tự cường của
mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Có thể nói rằng, dưới thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống
yêu nước được phát huy lên tầm cao mới thành lý tưởng: sống, chiến đấu, lao
động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân
dân
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Truyền thống nhân ái - yêu thương con
người là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, truyền
thống ấy có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh hoạt công xã nông thôn, được củng
cố và phát triển qua quá trình chung lưng, đấu cật khai phá giang sơn, giữ gìn đất
nước. Tấm lòng nhân nghĩa, nhân ái đó chính là cơ sở cho cách xử thế ở đời của
người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Hết lòng vì nghĩa cả,
giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó khăn mà không hề tính toán, lên án mạnh mẽ
những kẻ tàn ác "táng tận lương tâm", "phụ tình bạc nghĩa".
Từ trong sâu lắng của lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn luôn gắn tình yêu
quê hương đất nước với lòng nhân ái - yêu thương con người. Do vậy, người
Việt Nam luôn xả thân vì đất nước, con người yêu nước và con người yêu dân
gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn luôn
đứng trước nguy cơ bị xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết, chúng ta hiểu rất rõ
quyền sống của mình gắn với vận mệnh của Tổ quốc và dân tộc.
20
Lòng nhân ái nhân nghĩa của người Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị tha
cao thượng, không cố chấp đối với những người lầm đường lạc lối, nhưng biết
lập công chuộc tội, trở về với chính nghĩa. Chính tư tưởng "lấy nhân nghĩa để
thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo" trong Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi là sự thể hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt Nam lấy
tình yêu thương làm cách xử thế ở đời, đối với kẻ thù thậm chí còn mở đường
hiếu sinh khi thua trận, Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh còn cấp
lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân về nước.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ lòng
thương yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã bôn ba
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy sinh cho độc
lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết: "Bác ơi
tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người". Lòng nhân ái của Người
đã trở thành sức mạnh, nó đã thấm sâu vào chủ trương đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng cảm hóa hàng vạn con người lầm đường lạc
lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như là những đứa con "lạc bầy"
cần được cưu mang. Bác nói: Giống như bàn tay cũng có ngón dài ngón ngắn,
nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu người, có người
thế này, người thế khác, nhưng tất cả đều là dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt
Nam, nên cần phải khoan dung đại lượng. Hàng năm, Đảng và Nhà nước thường
có những đợt giảm án cho các phạm nhân cải tạo tốt, điều đó thể hiện lòng nhân ái
của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày nay, truyền thống đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại của
Đảng: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Lòng nhân ái của người Việt Nam
21
cũng là lòng yêu chuộng hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan
hệ với các nước láng giềng, nhân dân ta bao giờ cũng trọng tình hòa hiếu, cố
gắng tránh xảy ra những xung đột.
Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào "uống nước
nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia
đình thương binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già cả neo đơn không nơi nương
tựa. Phát động phong trào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng sâu
vùng xa, rút ngắn khoảng cách thành thị - nông thôn miền xuôi - miền ngược
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V Đảng ta đã khẳng định: Người Việt Nam
vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân chủ, bình đẳng trong quan hệ
giữa người với người. "Thương nước - thương nhà, thương người - thương
mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và dân
chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử bốn ngàn năm, dân tộc ta đã làm nên
những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng, dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân chủ của nhân dân ta được nâng
lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Truyền thống nhân nghĩa nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta. Nó là cái gốc của đạo đức, truyền thống này chính là nguồn gốc
sâu xa nhất, bền chặt nhất của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, chủ nghĩa nhân đạo
hiện thực chứ không phải chủ nghĩa nhân đạo chung chung trừu tượng phi hiện
thực, phi lịch sử, phi giai cấp của các giáo lý tôn giáo hay theo cách hiểu của
Phoiơbắc.
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo là một giá trị đạo đức
có từ bao đời của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển trong điều
22
kiện, hoàn cảnh tự nhiên xã hội không ít những khó khăn khắc nghiệt ngay từ
những buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Về tự nhiên: liên tục xảy ra bão lụt hạn hán, về xã hội: liên tục chiến tranh
chống giặc ngoại xâm. Nhưng, trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, những
người dân Việt Nam vẫn kiên trì bám đất, bám làng, vừa sản xuất vừa đánh giặc
để tồn tại và bảo vệ đất nước. Sống trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ như vậy,
nhưng nhờ có đức tính cần cù và tiết kiệm, mà nhân dân ta đã vượt qua, để từng
bước tự khẳng định mình trên con đường phát triển của dân tộc.
Để có bát cơm thơm dẻo, người nông dân đã phải một nắng hai sương
"bán mặt cho đất bán lưng cho trời", hình ảnh người nông dân trong những câu
ca dao dân ca Việt Nam còn đó: "Trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ
cấy con trâu đi bừa". Ông cha ta thường dạy con cháu phải biết quý trọng thành
quả lao động của con người: "Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng
cay muôn phần".
Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì vậy
cần mà không kiệm thì khác nào: "Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống". Nên
ông cha ta thường nhắc nhở con cháu rằng: "Được mùa chớ phụ ngô khoai. Đến
khi thất bát lấy ai bạn cùng". Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: con người phải có bốn đức
tính: Cần, kiệm, liêm, chính, so sánh với bốn mùa của trời, bốn phương của đất,
nếu thiếu một đức thì không thành người:
Trời có bốn mùa: Xuân - hạ - thu - đông
Đất có bốn phương: Đông - Tây - Nam - Bắc
Người có bốn đức: Cần - kiệm - liêm - chính.
23
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một hướng thỡ khụng thành đất
Thiếu một đức thì không thành người [18, tr. 631].
Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ, cần,
kiệm, liêm, chính là nền tảng, là cốt lõi của đạo đức xã hội mới.
Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản
xuất, trong khoa học- kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong
trào thi đua rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng
ruộng, trong nhà máy xí nghiệp, trong nhà trường
Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", hơn bao giờ hết truyền thống cần
cù sáng tạo càng được phát huy cao độ.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam cũng hòa vào dòng chảy của
chủ nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây là
nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử
dân tộc.
Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong việc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc, nhất là
khi đất nước có giặc ngoại xâm. Từ cách lý giải sự ra đời của dân tộc Việt Nam
trong truyền thuyết "Trăm trứng nở trăm con". Đây chính là sự khẳng định
truyền thống đoàn kết anh em giữa các dân tộc.
24
Cách dùng từ "đồng bào"- một từ Hán, nhưng chỉ có người Việt Nam sử
dụng để chỉ mối thâm tình "gà cùng một mẹ", cho đến lịch sử hình thành của một
dân tộc Việt Nam: theo lời gọi của tiếng trống Hùng Vương mà mười lăm bộ lạc
hợp thành một quốc gia Văn Lang thống nhất.
Thấy rõ vai trò của yếu tố đoàn kết, cha ông ta luôn có ý thức chống chính
sách chia rẽ của các thế lực ngoại bang và xu hướng cát cứ của các thế lực phong
kiến. Từ chính sách "dùng người Việt đánh người Việt" của bọn phong kiến
phương Bắc đến chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp, của đế quốc Mỹ đều
lần lượt bị thất bại trước tinh thần đoàn kết của nhân dân ta.
Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết đã trở thành điểm tựa tinh thần vững
chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Xưa Nguyễn Trãi nói: "Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân" để chỉ
sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dân là gốc, là nền tảng của sự tồn tại và phát
triển. Lúc sinh thời Bác Hồ từng nói: Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó
trăm lần dân liệu cũng xong. Và: "Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm
chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì
phải nổi" [17, tr. 258]. Người còn khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;
thành công, thành công, đại thành công". Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn các
cán bộ, đảng viên: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và
của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" (Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh công bố năm 1969).
25
Truyền thống giáo dục - hiếu học của người Việt Nam được hình thành từ
nhiều thế hệ. Là người Việt Nam ngay từ thuở ấu thơ đã được sống trong lời ru
của mẹ:
"Qua sông phải bắc cầu Kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy".
Câu hát ru đó đã thể hiện truyền thống "Tôn sư trọng giáo" của người Việt
Nam.
Truyền thống "Tôn sư trọng giáo" là một nội dung trong học thuyết của
Khổng Tử, khi vào Việt Nam đã trở thành một nội dung đạo lý của người Việt
Nam. Học trò Việt Nam luôn ghi nhớ: "Cơm cha, áo mẹ, nghĩa thầy", "Mồng
một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy".
" Không thầy đố mày làm nên", đó là một triết lý sống của người Việt
Nam. Là cây phải có gốc, là sông phải có nguồn, để trở thành một con người
đúng nghĩa phải có thầy. Nhớ công ơn thầy vừa là đạo lý, vừa là nét đẹp truyền
thống uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo của người Việt Nam.
Hiếu học là một truyền thống trong giáo dục của người Việt Nam từ xưa
đến nay. Có thể nói, ngay từ xa xưa con người đã sớm nhận thức được học hành
không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Chính vì vậy, người
xưa thường nói: "Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo" (Viên
ngọc không mài dũa thì không thành đồ dùng được, con người không học thì
không biết đạo) và: "Hiếu nhân, bất hiếu học kỳ tế dã ngu" (Kể cả những người
mong muốn làm điều nhân đức chí thiện nhưng không học thì cũng bị sự ngu dốt
che lấp đi).