Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Lạm phát ở Việt nam thập kỉ 90

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.33 KB, 26 trang )

Lời dẫn
Lạm phát là một trong những hiện tợng quan trọng nhất của thế kỉ 20 và đụng
chạm tới mọi hệ thống kinh tế, dù có phát triển hay không. Milton Friedman có
một tuyên bố nổi tiếng: Lạm phát luôn luôn và mọi nơi là vấn đề thuộc về tiền
tệ, và chúng ta đã biết tiền tệ là công cụ điều tiết hiệu quả các chính sáchvĩ mô
của nền kinh tế. Vì thế thực trạng lạm phát hiện là một vấn đề đợc quan tâm
hàng đầu của các nhà kinh tế khi hoạch định các chính sách cho quốc gia.
Mỗi quốc gia đều có những đặc điểm, tình hình, thực trạng nền kinh tế khác
nhau. Kiềm chế lạm phát là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong chính
sách kinh tế của các nớc nói chung và ở Việt Nam ta nói riêng. Từ một nền kinh
tế tập trung và cha phát triển, Việt Nam chuyển đổi sang kinh tế thị trờng mà
khó khăn đầu tiên phải đơng đầu là lạm phát. Lạm phát là thớc đo độ đúng sai
của các chính sách cải cách và đo lờng lòng tin của dân chúng và chính quyền
trong xây dựng và phát triển kinh tế. Vì chính mức độ lạm phát ít hay nhiều và
khả năng kiềm chế đến đâu ảnh hởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của ngời
dân. Rõ ràng ở nớc ta, trong bối cảnh đổi mới kinh tế dới sự lãnh đạo của Đảng,
vấn đề lạm phát không những là một tiêu thức kinh tế mà còn mang cả ý nghĩa
chính trị nữa. Nớc ta đã trải qua thời kì lạm phát cao kéo dài với những ảnh hởng
nặng nề trong suốt thập kỉ 80, đợc coi nh là hậu quả tất yếu của cơ chế quản lí
thiếu hiệu quả và tình trạng bao cấp tràn lan của thời kì chiến tranh. Những năm
bớc vào nền kinh tế thị trờng, chúng ta đã vận dụng một cách sáng tạo các công
trình nghiên cứu lạm phát trên thế giới vào điều kiện thực tế phù hợp với thực
trạng lạm phát nớc nhà. Đảng và Nhà nớc ta cũng xem đây là nhiệm vụ cấp bách
trớc mắt cũng nh về lâu dài, nên đã tiến hành cùng lúc nhiều biện pháp có kết
quả về chính sách kinh tế để kiềm chế lạm phát và tăng trởng kinh tế. Chính vì
thế mà tình hình kinh tế tài chính của nớc ta trong những năm vừa qua đã đạt đ-
ợc sự ổn định và có chiều hớng tốt.

1
Nghiên cứu về lạm phát sẽ giúp chúng ta hiểu đợc bản chất cũng nh những tác
động của nó, thúc đẩy hay kìm hãm sự tăng trởng của nền kinh tế diễn ra trên


thực tiễn ở Việt Nam, từ đó mới có thể đa ra đợc những biện pháp hữu hiệu để
đảm bảo vừa tăng trởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất.
Với tất cả kiến thức đã thu thập đợc từ môn học Lí thuyết tiền tệ ngân hàng và
những học hỏi từ thầy cô, bạn bè, sách báo... em xin đợc trình bày trong đề tài
Lạm phát ở Việt Nam thập kỉ 90. Trong khuôn khổ bài viết có thể sẽ không tránh khỏi
những sai sót, rất mong đợc các thầy cô chỉ bảo để em tiến bộ hơn trong những
đề tài sau.
***

2
Nội dung
I. Khái quát về lạm phát
Lạm phát từ lâu đã là căn bệnh chung cho mọi nền kinh tế, nhiều lí thuyết đợc đ-
a ra để chẩn đoán cũng nh xác định giải pháp khắc phục. Song khi xem xét và
giải quyết căn bệnh, chúng ta phải hiểu một cách đầy đủ về nó. Vậy lạm phát là
gì ?
Trong lịch sử, tình trạng lạm phát đợc coi là xảy ra khi nào khối lợng tiền tệ lu
hành quá thừa đối với nhu cầu của nên kinh tế. Để xét đoán tình trạng đó, các
nhà kinh tế đã có nhiều định nghĩa về lạm phát, phù hợp với trình độ hiểu biết
ngày càng sắc. Các định nghĩa về lạm phát đợc đa ra thờng tiếp cận từ hai khía
cạnh chủ yếu. Loại thứ nhất là các định nghĩa xuất phát từ việc xem xét các
nguyên nhân, chẳng hạn lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít hàng hoặc lạm
phát là khi tiền lơng danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao động. Thực chất
đây là đa ra các giải thích khác nhau về nguyên nhân lạm phát hơn là định nghĩa
về lạm phát. Cách tiếp cận thứ hai tập trung vào những ảnh hởng của lạm phát
và đợc sử dụng phổ biến hiện nay: lạm phát là mức giá cả chung (mức giá bình
quân) tăng lên. Đây là hiện tợng xảy ra ở tất cả các nớc với mức biến động khác
nhau. Sự tăng lên của mức giá làm giảm giá trị tiền tệ đợc đo lờng bằng sức mua
đối nội của nó. Mức biến động giá cả khác nhau giữa các nớc và kéo dài sẽ ảnh
hởng tới tỉ giá ngoại tệ và làm giảm sức mua đối ngoại của đồng tiền. Đối

nghịch với lạm phát là giảm phát khi mức giá cả chung có xu hớng giảm xuống.
Cả hai hiện tợng đều có thể gây những ảnh hởng tiêu cực đến đời sống kinh tế
xã hội.
Quan niệm trên đợc tóm tắt trong phơng trình của Fisher:
MV = PY
Trong đó, M : số lợngtiền tệ trong lu thông.

3
V : tốc độ lu thông tiền tệ.
P : giá trị trao đổi của tiền tệ.
Y: hàng hoá, dịch vụ (kể cả chứng khoán) trên thị trờng.
Nếu M tăng thêm, trong khi Y vẫn giữ vững thì tất nhiên P sẽ tăng. Thêm vào
đó, nếu V tăng thì P càng tăng nhanh và không giới hạn.
Hiện tợng lạm phát là nh vậy song nguyên nhân của nó là gì ? Sau nhiều năm
nghiên cứu tìm tòi, các nhà kinh tế đã phân biệt hai nguyên nhân cơ
bản gây ra lạm phát nh sau:
* Lạm phát do cầu kéo. Đây là nguyên nhân do tổng cầu (AD) tăng lên vợt quá
mức cung ứng hàng hoá của xã hội đẫn đến áp lực làm tăng giá. Các lí do cụ thể
là:
Chi tiêu của Chính phủ tăng lên (chi phúc lợi xã hội, trợ cấp thất nghiệp...).
Chi dùng của các hộ gia đình tăng lên (có thể do thu nhập thực tế tăng hoặc
do lãi suất giảm).
Nhu cầu đầu t tăng xuất phát từ dự đoán về triển vọng phát triển kinh tế, khả
năng mở rộng thị trờng hoặc lãi suất đầu t giảm.
Do chính sách tiền tệ mở rộng làm cho cả lợng tiền cơ sở và mức cung tiền
tăng lên.
Các yếu tố liên quan đến nhu cầu của nớc ngoài nh tỉ giá, giá cả hàng hoá n-
ớc ngoài so với hàng hoá cùng loại ở trong nớc...
* Lạm phát chi phí đẩy. Đặc điểm quan trọng nhất của lạm phát chi phí đẩy là
áp lực làm tăng giá cả xuất phát từ sự tăng lên của chi phí sản xuất vợt quá mức

tăng của năng suất lao động và làm giảm mức cung ứng hàng hoá của xã hội.
Chi phí sản xuất có thể tăng lên do:
Mức tăng tiền lơng vợt quá mức tăng năng suất lao động.
Sự tăng lên của mức lợi nhuận ròng của ngời sản xuất đẩy giá cả hàng hoá
lên cao.

4
Giá nội địa của hàng khập khẩu tăng lên do giá trị của đồng nội tệ giảm so
với ngoại tệ hoặc do ảnh hởng của khủng hoảng...
Thuế và các khoản nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nớc tăng....
II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam thập kỉ 90.
Trong giai đoạn này, lạm phát ở Việt Nam là lạm phát vừa phải, nghĩa là lạm
phát ở mức một con số, xảy ra khi tốc độ tăng giá chậm. Hiện ở phần nhiều các
nớc phát triển lạm phát đợc duy trì ở mức vừa phải, tỉ lệ là bao nhiêu còn tuỳ
thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế và môi trờng chính sách tiền tệ
từng thời kì. Với điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tăng chậm (thờng xấp xỉ
bằng mức tăng tiền lơng hoặc cao hơn chút ít), tác hại của nó là không nguy
hiểm mà trái lại có tác dụng kích thích sản xuất, thúc đẩy các hoạt động đầu t.
Thập kỉ 90 này tỉ lệ lạm phát ở nớc ta đạt dới một chữ số cùng với tốc độ tăng tr-
ởng bình quân 8,6%/năm. Để hiểu đợc thực trạng lạm phát trong thập kỉ 90,
chúng ta có thể xem xét và phân tích các số liệu về tỉ lệ lạm phát qua các năm
trong bảng.
Tỉ lệ lạm phát (tính theo tháng)
Đơn vị : %
năm
tháng
90 91 92 93 94 95 96 97 98 99
1 2,9 13,2 4,4 1,7 1,8 3,8 0,9 0,8 1,6 1,7
2 3,8 8,7 5,5 1,9 3,7 3,4 2,5 1,8 2,2 1,9
3 1,9 0,5 0,5 -0,5 -0,4 0,2 0,8 -0,5 -0,8 -0,7

4 2,5 2,2 0,9 -0,2 0,3 1,0 0,1 -0,6 1,6 -0,6
5 2,6 3,0 1,3 1,5 0,6 1,8 -0,5 -0,5 1,4 -0,4
6 2,1 1,7 0.1 -0,3 0,9 0,8 -0,5 0,1 0 -0,3
7 3,6 2,5 0,3 -0,2 0,2 0 -0,7 0,2 -0,5 -0,4
8 5,8 3,4 0,3 0,5 0,9 0,3 -0,4 0,1 1,1 -0,4
9 4,3 3,7 0 -0,1 1,6 0,5 0,3 0,6 1,0 -0,6
10 6,1 2,8 -0,2 -0,3 1,3 0,1 0,1 0,3 0,3 -1,0
11 7,9 5,6 1,98 0 1,7 0,1 0,9 0,3 0,1 0,4
12 - 6,06 1,35 1,2 1,1 0,3 1,0 1,0 0,8 -

5
Công cuộc đổi mới kinh tế ở nớc ta thời gian qua đã thu đợc những kết quả bớc
đầu rất khả quan, tạo niềm tin trong dân chúng cũng nh các nhà đầu t trong và
ngoài nớc. Nhng nhiều ngời cũng lo sợ khả năng nền kinh tế Việt Nam sẽ rơi
vào tình trạng thiểu phát và khó có thể thoát ra khỏi vòng xoáy này. Tính xác
thực của nó là hết sức rõ ràng, đợc thể hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế giảm
sút trong thời gian gần đây. Biểu đồ trên cho ta thấy tỉ lệ lạm phát thập kỉ 90 là
luôn biến đổi với xu thế giảm dần nhng đôi khi vẫn có sự tăng lên đáng kể.
*Thời kì hai năm đầu 1990-1991.
Nhìn lại thời kì 1990-1991 tái lạm phát, hai nhân tố trực tiếp có liên quan đến
việc tăng đáng kể lạm phát hai chữ số (trên 60%/năm) là:
1. ảnh hởng có tính quyết định của thị trờng quốc tế về sự thay đổi căn bản thị
trờng xuất nhập khẩu, quan hệ kinh tế đối ngoại. Do biến động chính trị ở Liên
Xô (cũ) và các nớc XHCN Đông âu, khu vực tập trung tuyệt đại bộ phận kim
ngạch XNK của Việt Nam và cũng là khu vực cung ứng các nguồn tài chính chủ
yếu cho Việt Nam gần nh bị cắt đứt hoàn toàn. Hơn nữa, kim ngạch xuất khẩu
qua khu vực I (đồng rúp) năm 1991 chỉ hơn 18% (so với năm 1986) và 10% (so
với năm 1989), trong khi kim ngạch nhập khẩu tơng ứng là 20% và 17%. Sự
kiện chiến tranh vùng Vịnh làm cho giá xăng dầu tăng đột ngột, ảnh hởng khá
nặng nề đến lạm phát. ở Việt Nam, trong quý III-1990 giá xăng dầu đợc điều

chỉnh và làm tăng giá điện cũng nh giá một loạt hàng nhập khẩu.
2. Các chỉ tiêu tài chính, tiền tệ cũng trực tiếp ảnh hởng đến tình trạng lạm phát.
Tuy chỉ tiêu tăng trởng GDP và các bộ phận hợp thành nó trong năm 1990 và
cả năm 1991 đều có tốc độ tăng khá cao nhng do ảnh hởng chủ yếu của những
biến động trong quan hệ quốc tế đã làm thay đổi trong cán cân thơng mại và
cán cân thanh toán.
*Thời kì hai năm tiếp theo 1992-1993.

6
Đánh dấu một xu thế mới về diễn biến lạm phát ở Việt Nam. Trong giai đoạn
này tốc độ tăng giá và lần đầu tiên xuất hiện lạm phát một con số (tháng
11/1993, tỉ lệ lạm phát là 0%). Những nhân tố tác động đến việc hạ thấp nhanh
chỉ số lạm phát đó là:
1. Kết quả của công cuộc đổi mới trong suốt 7 năm qua đã tạo ra những chuyển
biến tích cực trong cơ cấu và cơ chế kinh tế theo hớng kinh tế thị trờng, tạo
động lực thúc đẩy tổng sản phẩm trong nớc GDP tăng nhanh.
2. Sự tăng trởng GDP có xu hớng đáp ứng quỹ tiêu dùng và từ năm 1991 nền
kinh tế bắt đầu có tích luỹ, đến năm 1993 đạt gần 10%. Điều này cho thấy đã
có bớc ngoặt trong lịch sử kinh tế Việt Nam, sản xuất nông nghiệp tăng
mạnh, giải quyết đợc vấn đề lơng thực.
3. Cán cân thơng mại đợc cải thiện rõ rệt, từ nhập siêu liên tục chuyển qua thời
kì cân bằng (nhập siêu ở mức độ không đáng kể, kim ngạch XNK đạt trên 6
tỉ USD và bằng 118% tổng kim ngạch năm 1990, xấp xỉ bằng 140% năm
1991)
4. Cán cân thanh toán bắt đầu có khả năng hoàn thành dự trữ ngoại tệ, làm cho
quỹ điều hoà và điều hành tỉ giá hối đoái đợc chủ động.
5. Các biện pháp hạn chế sự tăng quá mức của cầu đã đem lại những kết quả tức
thời: hạn chế chi tiêu ngân sách, khơi tăng nguồn thu, giảm bội chi, hạn chế
và tiến tới ngừng phát hành bù đắp thiếu hụt ngân sách.
6. Từ năm 1990 đã bắt đầu thực hiện cuộc cải cách hệ thống ngân hàng theo h-

ớng chuyển từ đơn cấp sang hai cấp. Chính sách lãi suất thực dơng, chính
sách một tỉ giá sát với tỉ giá thị trờng, tỉ giá hối đoái thực tế và việc khắc
phục lạm phát từ kênh tín dụng đã góp phần quan trong trong ổn định và phát
triển kinh tế, chống lạm phát.
7. Do kết quả chính sách đổi mới và mở cửa, hàng hoá nớc ngoài vào Việt Nam
ngày càng nhiều góp phần cân đối tiền-hàng. Dù Mĩ vẫn duy trì cấm vận nh-

7
ng luồng ngoại tệ từ xuất khẩu, đầu t trực tiếp, dịch vụ, tín dụng, viện trợ và
các kênh phi mậu dịch vẫn đợc đa vào nớc ta nh một thứ hàng hoá có giá làm
tăng khả năng đáp ứng của cung ứng đối với tiêu dùng.
* Năm 1994, tiếp tục kiểm soát lạm phát đồng thời thực hiện nhiệm vụ cân bằng
tăng trởng kinh tế đi đôi với chuyển biến mạnh mẽ về ổn định và tăng cờng
quốc phòng, an ninh xã hội.
* Năm 1995, lạm phát tiếp tục biến động và chủ yếu có xu hớng giảm, mức thấp
nhất là 0% vào tháng 7.
* Bắt đầu từ năm 1996, nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát, cuối quý I giá cả
giảm liên tục và chuyển sang âm. Đến quý IV giá mới nhích lên do đợc điều
chỉnh mức tăng của tổng phơng tiện thanh toán.
* Năm 1997, cơn bão khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu á đã cuốn các nớc
trong khu vực rơi vào vòng xoáy của nó. Việt Nam tuy không chịu tác động trực
tiếp nhng cũng bị ảnh hởng ít nhiều.
* Năm 1998, mức gia tăng lạm phát 9,2% gấp khoảng 2,5 lần năm 1997, chấm
dứt thời kì thiểu phát tiền tệ kéo dài 2 năm (1996-1997). Sở dĩ lạm phát năm này
tăng mạnh là do biến động và gia tăng các yếu tố kích cầu của nền kinh tế, tuy
phân tán, rời rạc và cha nồng độ (liên quan đến bố trí cơ cấu đầu t, chi tiêu ngân
sách, giảm khung thuế tiêu thụ đặc biệt, tăng u đãi tín dụng, tạo việc làm, xoá
đói giảm nghèo...) cũng bắt đầu phát huy tác dụng.
* Năm 1999, lạm phát là 0,1% - đây là năm lạm phát thấp cha từng thấy từ trớc
tới nay. Các nhà kinh tế đã ví lạm phát nhẹ đối với nền kinh tế giống nh chất

nhờn giúp cỗ máy không bị hoen rỉ và hoạt động êm ả hơn. Tiền tệ cung ứng
nhiều hơn so với khối lợng hàng hoá tăng lên trong năm là nguyên nhân của lạm
phát vừa phải, giúp nền kinh tế ổn định và GDP tăng trởng nhanh.
* Dự tính năm 2000 này tỉ lệ lạm phát ở nớc ta sẽ đợc kiểm soát ở mức 6% , tốc
độ tăng trởng kinh tế ở mức 5,5-6%.

8
Trong khoảng 10 năm qua, chúng ta đã đạt đợc nhiều thành tựu trong kiểm soát
lạm phát nhng lại có ít kinh nghiệm trong chống thiểu phát. Một số nguyên
nhân tạo nên lạm phát thấp trong năm 1999, đặc biệt thiểu phát ở 8 tháng cuối
năm:
1. Thiểu phát đã đợc báo trớc. Theo báo cáo thờng niên năm 1998 của NHNN
Việt Nam, khối lợng tiền cung ứng năm 1998 tăng 23,9% so với năm 1997
nhng thấp hơn số tiền cung ứng năm 1996 là 2,2%. Cũng theo báo cáo, khối
lợng tiền mặt trong lu thông tăng 7,4% so với năm 1997 nhng con số tăng
thấp nhất so với nhiều năm trớc đó. Cuối năm 1998, tiền mặt trong lu thông
chiếm tỉ trọng 26,6% tổng phơng tiện thanh toán, giảm 4,2% so với năm
1997. Trong khi thanh toán qua ngân hàng giữa nhân dân với doanh nghiệp,
với Nhà nớc hoặc ngợc lại hầu nh không đáng kể, tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
tại các NHTM chiếm tỉ trọng 50,6% tổng phơng tiện thanh toán, tăng 9,2%
so với năm 1997. Đó là những dấu hiệu cảnh báo thiểu phát sẽ đến trong năm
1999.
2. Vai trò của ngân hàng chống thiểu phát trong 8 tháng liên tục là không nhạy
bén. Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nh hạ lãi suất cho vay,
giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM, hạ lãi suất tái cấp vốn... chỉ đợc
thực hiện trong 6 tháng cuối năm.

9
Biểu đồ lạm phát năm 1999tỉ lệ %
-1

-0.5
0
0.5
1
1.5
2
T
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Tóm lại, năm 1999 là năm mà thực trạng lạm phát Việt Nam đợc quan tâm nhiều
nhất vì đã xuất hiện những hiện tợng ít thấy từ trớc tới nay. Khi nhìn nhận vấn
đề này đã có nhiều quan điểm tiếp cận theo từng góc độ khác nhau, nhng tất cả
chúng ta đều thấy rằng lạm phát trong 11 tháng đầu năm 1999 chỉ đạt mức
-0,4%, trung bình mỗi tháng khoảng 0,036%. So với cùng kì các năm từ năm
1990 trở lại thì con số này là đáng khích lệ, vậy giảm phát có phải là một lợi thế
kinh tế ? Nhìn nhận vấn đề ở góc độ mang tính học thuật và tích cực hơn, thì
hiện tợng lạm phát thấp nh vậy cha hẳn là điểm xấu, mà trên thực tế đã và đang
là những cơ hội lớn nhằm tiến hành các giải pháp điều chỉnh chính sách chiến l-
ợc về điều hành kinh tế vĩ mô.
Tỉ lệ lạm phát trong thập kỉ 90
tỉ lệ %

10

×