MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................... 1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT ......................................................... 3
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM .......... 18
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ............................................................. 35
KẾT LUẬN ...................................................................................... 39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................... 40
LỜI MỞ ĐẦU
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay
của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niêm gần đây. Trong nền kinh
tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi
nhuận cao và đứng vững trên thương trường. Các nhà kinh tế cũng như các
doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền
kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn
đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm khác trong
kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một
căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi
hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết
quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp
mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền
kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động. ở nước ta
hiện nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối
là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan
tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khắc phục. Đã từ lâu tiền giấy
xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn
đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm
phát, giá cả của hầu hết các hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng
tiền ngày càng giảm nhanh.
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thể kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. ở nước
ta lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu
quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã
phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối
quan hệ trong nền kinh tế - xã hội.
1
Vì giới hạn của một đề án môn học nên trong đề án này tôi chỉ nghiên
cứu một cách chung nhất về lạm phát và vấn đề lạm phát ở Việt Nam,
không có điều kiện đi sâu vào phân tích một số cuộc lạm phát điển hình
trên thế giới như lạm phát ở Đức năm 1922. Và cũng không có điều kiện để
đi sâu hơn về các vấn đề khác liên quan đến lạm phát vì lạm phát là một
vấn đề kinh tế vĩ mô nên tác động của nó là rất rộng, trong đề án này tôi chỉ
nghiên cứu những tác động chính.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề án gồm 3
chương
Chương I: Tổng quan về lạm phát
Chương II: Thực trạng kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
Chương III : Một số biện pháp nhằm kiềm chế và kiểm soát lạm phát
ở Việt Nam
Tôi xin cám ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Minh Huệ đã giúp đỡ tôi hoàn
thiện đề tài này.
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm và phân loại
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất
hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn
trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ơ đâu còn sản xuất hàng hoá, còn
tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm
phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi
phạm.
Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành
tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông
nhờ các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng
tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà
nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất
hiện.
Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra
và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm
phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian"
Để xác định lạm phát, cần xác định 3 yếu tố:
- Thứ nhất, để biết được tình trạng tăng giá, người ta phải so sánh giá
cả hàng hóa giữa thời điểm này và thời điểm khác làm mốc. Trong khoảng
thời gian giữa hai điểm nếu giá tăng, đó là lạm phát. Nếu gọi Pt1 là giá cả
hàng hóa ở thời điểm t1 và Pt0 là giá cả hàng hóa ở thời điểm to thì phần
tăng giá sẽ bằng Pt1 - Pt0.
- Thứ hai, trong một nền kinh tế thì có nhiều hàng hóa khác nhau nằm
trong khoảng giữa t1 và to, mỗi loại hàng hóa có những mức tăng giá khác
nhau. Cho nên, để tính được tỉ lệ lạm phát chung cho tất cả hàng hóa trong
3
nền kinh tế, người ta lấy chỉ số giá cả bình quân của cả nước làm chuẩn. Có
ba loại chỉ số giá cả bình quân thường sử dụng :
Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu
dùng CPI. CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị
trưòng, các nhóm chính đó là hàng lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà
cửa, đất đai,chất đốt, vật tư y tế. Để tính CPI, người ta phải dựa vào tỷ
trọng của phần chi cho từng mặt hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của
thời kỳ có lạm phát.
Chỉ số giá cả hàng sản xuất PPI, đây là chỉ số giá bán buôn. PPI
được xây dựng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn
định. Chỉ số này có ích vì nó được tính chi tiết sát với những thay đổi của
thực tế.
Chỉ số giá bán lẻ RPI, thường được tính bằng tỉ lệ %. Cách tính như
sau:
Pt1- Pto
In%=----------- x 100%
Pt0
1.2. Phân loại lạm phát
Tùy theo quan điểm và dựa trên những tiêu thức khác nhau sẽ có các
cách phân loại lạm phát khác nhau.
1.2.1. Tiêu chí định lượng
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát
dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương
đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của
người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên
4
chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và
tích trữ hàng hoá với số lượng lớn. . .
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ
trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản
thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
- Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh
với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả
chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng
được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động
sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi
đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao
vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông
tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế
bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác,
các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng
rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xẩy ra.
Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát
triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và
trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại: Lạm
phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dướ 50% một năm; lạm
phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu
lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
1.2.2. Theo tiêu chí định tính
- Lạm phát thuần túy : là trường hợp đặc biệt khi giá cả hàng hóa tiêu
dùng và hàng hóa sản xuất đều tăng lên gần như cùng tỉ lệ 5 trong một đơn
vị thời gian. Đây là trường hợp mà nhu cầu tiền thực tế tăng cùng chiều và
khá tương đương với cung tiền thực tế.
5
- Lạm phát cân bằng và không cân bằng:
* Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm
phát không ảnh hưởng tới đời sống của người lao động.
* Lạm phát không cân bằng: tỉ lệ lạm phát tăng không tương ứng với
thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường xảy ra nhất.
- Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
* Lạm phát dự đoán trước : xảy ra trong một thời gian đủ dài với một
tỉ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn và ổn định khiến cho dân chúng có
tâm lý và sự chờ đợi trở thành quán tính, người ta đã sống quen đần với
lạm phát. Do vậy người ta có thể dự đoán được tỉ lệ lạm phát của những
năm tiếp theo và đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát
này.
* Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó
chưa hề xuất hiện. Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của người dân
đều chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường xảy ra thường tạo nên
những cú sốc về kinh tế và sự mát tin tưởng của người dân vào chính quyền
đương đại.
1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không
thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá
nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương
tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng.
Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục
mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách.
- Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa
mức cung tiền.
6
- Theo học thuyết Keynes, lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và
dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo).
- Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản
xuất (chi phí đẩy)
Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi
nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau.
Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát,
mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong
việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung
tiền.
Tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách:
- Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều
kiện kinh doanh tốt). hoặc
- Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng
Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và
chi phí. Về mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và
dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ
được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay
nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng
sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng.
Ví dụ: Năm 1966 - 1967 chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để
trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm
phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970).
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức
cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên
M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá
cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ.
7
Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân
này.
1.3.1 Cung ứng tiền và lạm phát
“ Lạm phát luôn luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”, đây
là một câu nói nổi tiếng của Friedman, qua đó ông đã nêu được bản chất
sâu xa, cái nguyên nhân sâu thẳm của lạm phát. Những nhà kinh tế học đầu
tiên quan tâm đến nguyên nhân của giá cả tăng đều cố gắng giải thích hiện
tượng đố bằng tiền tệ. Đó là trường hợp của John Bodin ở thế kỷ thứ XVI,
ông cho rằng “mọi cái mắt đỏ” là do vàng, bạc ở châu Mỹ dồn về, mặc dùu
ông cũng không giới hạn sự phân tích của mình về vai trò của bản thân tiền
tệ.
Vào thế kỷ XVII và XVIII, William Petty, ohn Locke, David Hume,
rồi David Ricacdo vào đầu thế kỷ thứ XIX, hệ thống hóa cách giải thích :
Mọi biến động của mặt bằng giá cả danh nghĩa bằng biiến động của khối
lượng tiền tệ. Thật vậy, trong “câu chuyện hoang tưởng” của mình, Hume
đã chỉ ra rằng : Nếu do một “phép lạ” lượng tiền tăng lên gấp đôi trong một
đêm thì sáng hôm sau toàn bộ giá cả cũng tăng lên gấp đôi. Và theo
Ricacdo, tổng giá trị hàng hóa trao đổi được xác định bằng khối lượng dự
trữ đang có. Ông cho giá cả tăng chỉ do khối lượng dự trữ đó tăng hoặc
tăng các phương tiện dự trữ mà mỗi phương tiện đại diện cho một khối
lượng nhỏ vàng hoặc bảcTong trường hợp thứ nhất, giá cả hàng hóa tăng
làm giảm sức mau của đồng tiền quá nhiều, còn trong trường hợp thứ hai,
sự mất giá của đồng tiền xác nhận rằng nó đại diện cho một đương lượng
vàng rất thấp.
Đến đây chúng ta có thể phân tích cung ứng tiền gây ra lạm phát như
thế nào ?
Các nhà kinh tế theo thuyết tiền tệ cho rằng khi cung tiền tệ tăng lên
và kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát họ đã sử
8
dụng công thức của Irving Fisher : MV= PY để giả thích hiện tượng như
sau :
Với M : khối lượng tiền tệ lưu thông
P. Y : tổng chi tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa và dịch vụ
P : giá cả
Y : tổng sản phẩm thực tế = tổng thu nhập thực tế
V : tốc độ lưu thông tiền tệ ( có nghĩa là cùng một đơn vị tiền tệ
có thể qua nhiều chu trình chi trả trong một thời gian nhất định )
Và theo họ : “ tốc độ lưu thông tiền tệ thay đổi theo thời gian một cách
có thể đoán trước được và không liên quan đến những thay đổi trong cung
tiền tệ”. Như vậy V thường ít biến đổi theo thời gian.
Với điều này thì ứng với mỗi mức cung tiền tệ ta sẽ có một tổng chi
tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa và dịch vụ P. Y là không đổi. Bởi vậy với
mỗi mức giá, ta sẽ có một mức tổng sản phẩm thực tế. Giá càng tăng thì
sản phẩm thực tế càng giảm và để thể hiện mối quan hệ này họ xây dựng
đường tổng cầu trong nền kinh tế. Và theo thuyết tiền tệ thì để thay đổi
đường tổng cầu này chỉ do một nguyên nhân duy nhất đó là cung ứng tiền
thay đổi và như vậy lạm phát xảy ra khi cung ứng tiền tăng.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta xét một ví dụ sau :
9
Giả sử ban đầu nền kinh tế đang ở điểm cân bằng cung cầu (Điểm 1)
khi cung ứng tiền tăng làm cho tổng chi tiêu danh nghĩa để mua hàng hóa
và dịch vụ P. Y tăng làm đường tổng cầu tăng dịch chuyển sang phải từ
AD1 tới AD2. Tại đây điểm cân bằng của nền kinh tế là 1’ với mức sản
lượng lớn hơn mức sản lượng tự nhiên và mức giá P2 cao hơn mức giá P1.
Do nền kinh tế đạt mức sản lượng lớn hơn mức sản lượng tự nhiên nên tỉ lệ
thất nghiệp nhỏ hơn tỉ lệ thấ nghiệp tự nhiên làm cho chi phí tăng dẫn tới
đượng cung dịch phải vào trong từ AS1 tới AS2 với điểm cân bằng mới
(Điểm3). Mức sản lượng đạt mức sản lượng tự nhiên như cũ nhưng giá cả
tăng từ P2 lên P3. Nếu như cung ứng tiền tiếp tục tăng một quy trịnh như
vậy lại diễn ra và làm cho giá cả tăng lên liên tục và gây ra lạm phát.
Nhưng một vấn đề đặt ra là trường phái của Keynes lại cho rằng
không chỉ có cung tiền tăng mới làm dịch chuyển đường cầu mà theo họ
còn có rất nhiều các yếu tố khác cũng làm dịch chuyển nó, ví dụ như chính
sách tài chính, xuất khẩu ròng, lạc quan tiêu dùng, lạc quan kinh doanh. . .
Song những vấn đề của chính sách tài chính lại có những giới hạn của
nó, chính phủ không thể chi tiêu quá 100% GNP cũng như không thể cắt
giảm thuế dưới 0%. và như vậy việc tăng lên của tỉ lệ lạm phát trong
trường hợp này chỉ là tạm thời.
10
P1
P2
P3
P
3
2’
2
1
1’
Yn Yt
AD1
AD2
AD3
y
Tổng sản lượng
AS1
AS2AS3
Tổng mức giá
Hay trong một lập luận khác của Keynes về các cú sốc cung bất lợi
làm dịch trái đường tổng cung làm giá cả tăng lên, sản lượng giảm. Nhưng
nếu cung tiền không tăng tức là AD không dịch phải thì theo thời gian
dường AS sẽ lại dịch chuyển về vị trí ban đầu bởi một lẽ do sản lượng thực
tế nhỏ hơn sản lượng tiềm năng ( tự nhiên) và làm cho chi phí sẽ rẻ trở lại.
Và đây cũng là hiện tượng lạm phát tạm thời.
Với những phân tích như vậy, quan điểm của Keynes cũng thống nhất
với phái tiền tệ là lạm phát cao có thể xảy ra chỉ với một tỉ lệ tăng trưởng
tiền tệ cao.
1.3.2 Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát
Một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng mà hầu hết các chính phủ theo
đuổi là chỉ tiêu công ăn việc làm cao nhưng đây cũng chính là một nguyên
nhân gây nên lạm phát. Có hai loại lạm phát là kết quả của chính sách ổn
định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao : lạm phát
cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy. Lạm phát cầu kéo xảy ra khi những nhà
hoạch định chính sách theo đuổi các chính sách làm đường tổng cầu dịch
chuyển sang phải , còn lạm phát chi phí dẩy xảy ra khi có những cú sốc
cung tiêu cực hoặc do công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên. Bây giờ
chúng ta có thể sử dụng cách phân tích tổng cung và tổng cầu để xem xét
một chỉ tiêu công ăn việc làm có thể đưa đến lạm phát chi phí đẩy và lạm
phát cầu kéo như thế nào ?
1.3.3. Lạm phát cầu kéo
Giả sử ban đầu nền kinh tế đang đạt được mức sản lượng tiềm năng, tỉ
lệ thất nghiệp đang ở mức thất nghiệp tự nhiên, nền kinh tế đạt mức cân
bằng tại điểm 1. Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo
đuổi một tỉ lệ thất nghiệp dưới mức tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Để đạt được mục tiêu này, các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đưa
ra các biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng
11
tiềm năng, mức chỉ tiêu sản lượng cần đạt được đó là Yt (Yt>Yn). Các biện
pháp mà họ đưa ra sẽ tác động lên tổng cầu và làm tăng tổng cầu, đường
tổng cầu sẽ dịch chuyển ra AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm 1’ ( giao
điểm giữa đường tổng cầu AD2 và đường tổng cung AS1). Sản lượng bây
giờ đã đã đạt được tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục tiêu tỉ
lệ thất nghiệp nhỏ hơn tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên đã đạt được.
Vì hiện nay tỉ lệ thất nghiệp thực tế trong nền kinh tế là thấp hơn tỉ lệ
thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng lên và đường tổng cung sẽ dịch
chuyển đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ đến điểm 2’. Nền kinh tế quay
về mmức sản lượng tiềm năng và tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng ở một
mức giá cả P2 cao hơn P1.
Đến lúc này tỉ lệ lại cao hơn tỉ lệ mà các nhà hoạch định chính sách đã
đề ra. Do đó, họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách làm tăng tổng cầu.
Quá trình này cứ tiếp diễn liên tục đảy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn.
Như đã phân tích trên đây, do giới hạn của những chính sách tài chính
nên việc tăng lên liên tục của tổng cầu chỉ có thể là kết quả của một quá
trình tăng cung ứng tiền liên tục. Do đó lạm phát cầu kéo là một hiện tượng
tiền tệ.
12
P1
P2
P3
P
3
2’
2
1
1’
Yn Yt
AD1
AD2
AD3
y
Tổng sản lượng
AS1
AS2AS3
Tổng mức giá
E
1
E
0
E
0
ASLR
AD
1.3.4. Lạm phát chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm
thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ" Hình thức của lạm phát này
phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang
người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh
tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn.
Ví dụ:
Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch
vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản
xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho
người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu
cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều
đó tạo thành vòng xoáy lượng giá.
Một yếu tố chi phí chính khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu
thô. Trong năm 1972 - 1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến
lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới.
Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống
mức thấp chưa từng thấy.
Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn
được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ
khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố
tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng... Song nguyên
nhân trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng
hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ
số giá.
13
E
1
E
0
E
0
ASLR
AD
Theo cách phân tích của Keynes, những chính sách tài chính luôn có
những giới hạn của nó, nên mặc dù những chính sách này cũng gây ra
những tác động làm tăng tổng cầu nhưng đó chỉ là từng đợt không thể sử
dụng trong thời gian dài. Như vậy, nó không thể được sử dụng để dịch
chuyển liên tục đường tổng cầu. Việc dịch chuyển liên tục đường tổng cầu
chỉ có thể là việc tăng cung ứng tiền liên tục, do đó lạm phát chi phí đẩy
cũng là một hiện tượng tiền tệ.
1.3.5. Lạm phát do thâm hụt ngân sách
Trong những phân tích trước đây, chúng ta thấy rằng lạm phát chỉ có
thể mở rộng khi lượng tiền tăng lên liên tục. Một thâm hụt ngân sách được
trang trải bằng việc in thêm tiền có thể tạo ra lạm phát không ? câu trả lời là
có nếu thâm hụt đó xảy ra trong một thời gian khá dài.
Chính phủ có thể khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước
bănngf niện pháp phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường để vay vốn
trong dân chúng, bù đắp cho phần bị thiếu hụt. Biện pháp này không nhả
14
yy
y
1
y
0
y
0
y
*
y
*
AD
1
AD
0
P
P
1
P
0
E
1
E
0
E
0
ASSLASRL
P
1
P
0
E
1
ASLR
ADP
ASSR
1
ASSR
2
Chi tiêu quá khả năng cung ứng
- Khi sản lượng vượt tiềm năng
đường AS có độ dốc lớn nên khi cầu
tăng mạnh, AD - AD
1
, giá cả tăng P
0
-
P
1
Chi phí tăng đẩy giá lên cao
- Cầu không đổi, giá cả tăng sản lượng
giảm xuống Y
0
- Y
1
AS
1
- AS
2
hưởng đến cơ số tiền tệ và do đó, không tăng cung ứng tiền tệ và không gây
ra lạm phát. Một biện pháp khác chính phủ có thể sử dụng bù đắp cho thâm
hụt ngân sách nhà nước đó là phát hành tiền. Biện pháp này trực tiếp làm
tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền tệ, đẩy tổng cầu lên cao
và làm tăng tỉ lệ lạm phát. Tuy nhiên,ở các nước đang phát triển, do thị
trường vốn bị hạn chế nên việc phát hành trái phiếu Chính phủ nhằm bù
đắp cho thiếu hụt nngân sách nhà nước là rất khó thực hiện. Đối với các
quốc gia này, con dường duy nhất đối với họ đó là “in thêm tiền”. Vì thế,
khi tỉ lệ thâm hụt nhân sách nhà nước của các quốc gia đó tăng cao thì tiền
tệ cũng sẽ tăng nhanh và lạm phát tăng. ở các nước kinh tế phát triển, thị
trường vốn phát triển, vì vậy một khối lượng lớn trái phiếu Chính phủ có
thể bán ra và nhu cầu trang trải cho thâm hụt ngân sách nhà nước thực hiện
từ nguồn vốn vay của Chính phủ. Tuy nhiên nếu Chính phủ cứ tiếp tục phát
hành trái phiếu ra thị trường, cầu về vốn vay sẽ tăng và do đó, lãi suất sẽ
tăng cao. Để hạn chế việc tăng lãi suất trên thị trường, ngân hàng Trung
ương sẽ phải mua vào các prái phiếu đó, điều này lại cho cung tiền tệ tăng.
Do vậy, trong mọi trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sáchnhà nước
cao, kéo dài sẽ là nguồn gốc tăng cung ứng tiền gây ra lạm phát.
1.3.6. Lạm phát theo tỉ giá hối đoái
Tỉ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nước ngoài tăng
cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Khi tỉ giá tăng, đồng nội tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý
của người sản xuất trong nước, muốn kéo giá cả lên cao theo mức tăng của
tỉ giá hối đoái.
Thứ hai khi tỉ giá hối đoái tăng, giá nguyên liệu, hàng hóa nhập khẩu
cũng tăng cao, đẩy chi phí nguyên liệu tăng lên, lại quay trở về lạm phát chi
phí đẩy như đã phân tích trên đây. Việc tăng giá cả của nguyên liệu và hàng
hóa nhập khẩu thường gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở rất
15