Tải bản đầy đủ (.pdf) (229 trang)

giáo dục nghệ thuật cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về bộ đội cụ hồ (sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.67 MB, 229 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM



Đặng Mỹ Hạnh




GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT
CHO BỘ ĐỘI HIỆN NAY QUA CA KHÚC
VỀ BỘ ĐỘI CỤ HỒ
(sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975)




LUẬN ÁN TIẾN SỸ VĂN HÓA HỌC







Hà Nội - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM



Đặng Mỹ Hạnh




GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT
CHO BỘ ĐỘI HIỆN NAY QUA CA KHÚC
VỀ BỘ ĐỘI CỤ HỒ
(sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975)

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62 31 06 40


LUẬN ÁN TIẾN SỸ VĂN HÓA HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS NGUYỄN CHÍ BỀN



Hà Nội - 2014

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:
Luận án tiến sỹ: Giáo dục nghệ thuật cho bộ đội hiện nay qua ca
khúc về Bộ đội Cụ Hồ (sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975) là do
tôi viết và chưa công bố.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.


Hà Nội, ngày 30 - 11 - 2014
Tác giả luận án




ĐẶNG MỸ HẠNH

















2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN 3
MỞ ĐẦU 4
NỘI DUNG 12
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT 12
1.1. Nghệ thuật và quan niệm về giáo dục nghệ thuật 12
1.2. Chức năng của giáo dục nghệ thuật 19
1.3. Các lý thuyết về giáo dục nghệ thuật 21
1.4. Điều kiện giáo dục nghệ thuật 29
Tiểu kết chương 1 40
Chương 2:
GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT CHO BỘ ĐỘI QUA CA KHÚC VỀ
BỘ ĐỘI CỤ HỒ - LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG
42
2.1. Ca khúc về Bộ đội Cụ Hồ và vai trò của ca khúc về Bộ đội Cụ Hồ 42
2.2. Một số vấn đề lý luận và nhân tố tác động đến giáo dục nghệ thuật cho bộ
đội qua ca khúc về Bộ đội Cụ Hồ 67
2.3. Thực trạng giáo dục nghệ thuật cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về Bộ đội
Cụ Hồ 77
Tiểu kết chương 2 95
Chương 3:
BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG
TRONG GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT CHO BỘ ĐỘI HIỆN NAY
QUA CA

KHÚC VỀ BỘ ĐỘI CỤ HỒ
98
3.1. Bàn luận về kết quả nghiên cứu 98
3.2. Bàn luận về ứng dụng kết quả nghiên cứu trong giáo dục nghệ thuật
cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về Bộ đội Cụ Hồ 107
Tiểu kết chương 3 132
KẾT LUẬN 134
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 137
TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
PHỤ LỤC 151

3
CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BĐCH : Bộ đội Cụ Hồ
BQP : Bộ Quốc phòng
CKCM : Ca khúc cách mạng
CLB : Câu lạc bộ
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTĐ, CTCT : Công tác đảng, Công tác chính trị
ĐVCS : Đơn vị cơ sở
e : Trung đoàn
f : Sư đoàn
GDNT : Giáo dục nghệ thuật
KHXH&NV: Khoa học xã hội và nhân văn
KTQS : Kỹ thuật quân sự
NCS : Nghiên cứu sinh
NVH : Nhà văn hoá
Nxb : Nhà xuất bản
QCHQ : Quân chủng Hải quân

QCPK, KQ : Quân chủng Phòng không, Không quân
QĐ : Quân đoàn
QĐND : Quân đội nhân dân
QK : Quân khu
QUTW : Quân ủy Trung ương
TCCT : Tổng cục Chính trị
Tp : Thành phố
VHNT : Văn hóa Nghệ thuật
VNQC : Văn nghệ quần chúng
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng con người đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN nói chung, giáo dục, bồi
dưỡng quân nhân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của Quân
đội nhân dân Việt Nam nói riêng, GDNT có vai trò hết sức quan trọng. Thông
qua các loại hình GDNT, trong đó có giáo dục âm nhạc, sẽ góp phần bồi dưỡng,
phát triển, hoàn thiện nhu cầu nhận thức và th
ị hiếu thẩm mỹ, giáo dục, bồi
dưỡng, phát triển nhân cách. Đặc biệt, hoạt động GDNT trong quân đội, nhất
là GDNT qua ca khúc về BĐCH sẽ góp phần giáo dục, bồi dưỡng nhu cầu
nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ cho bộ đội, hoàn thiện nhân cách người quân
nhân cách mạng - nhân cách Bộ đội Cụ Hồ.
Thực tiễn 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của
Quân độ
i nhân dân Việt Nam đã khẳng định rằng, trong các hoạt động VHNT
của quân đội, hoạt động GDNT cho bộ đội qua các ca khúc về BĐCH, nhất là

các ca khúc sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975 là hoạt động không thể thiếu
trong đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội. Các ca khúc về BĐCH thuộc
dòng CKCM Việt Nam, là sản phẩm văn hóa của một thời đại mới, thời đại
mà cả dân tộc ta đ
ã cống hiến, hy sinh trong hai cuộc kháng chiến nhằm giành
lại độc lập, tự do, thống nhất đất nước để đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nó có
vai trò rất to lớn trong đời sống tinh thần của bộ đội, đặc biệt khi được sử
dụng làm “chất liệu” GDNT cho bộ đội.
Nhận thức rõ vai trò của GDNT cho bộ đội qua ca khúc về BĐCH,
những năm qua, hoạt động GDNT cho bộ
đội qua ca khúc về BĐCH đã được
các cơ quan, đơn vị trong toàn quân triển khai tích cực, đảm bảo sâu sắc về nội
dung, phong phú, đa dạng về hình thức thể hiện và đã đem lại nhiều kết quả rất
đáng khích lệ, góp phần quan trọng nâng cao nhận thức, nhu cầu, thị hiếu thẩm
mỹ cho bộ đội, xây dựng và bồi dưỡng nhân cách người quân nhân cách mạng.

5
Tuy nhiên, trong những năm qua, hoạt động GDNT cho bộ đội qua ca khúc
về BĐCH trong các cơ quan, đơn vị của quân đội vẫn còn những biểu hiện hạn
chế, bất cập cả trong nhận thức và trong tổ chức hoạt động thực tiễn. Những hạn
chế, bất cập đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, nhất là
chưa được phân tích, lý giải một cách đầy đủ, sâu sắc và thấu đ
áo những cơ sở lý
luận khoa học của hoạt động GDNT cho bộ đội qua các ca khúc về BĐCH.
Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN, yêu cầu, nhiệm vụ của huấn luyện, sẵn sàng chiến
đấu và thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân chiến đấu, công tác, lao động
sản xuất của Quân đội nhân dân Vi
ệt Nam nói chung, của mỗi cơ quan, đơn vị
trong quân đội nói riêng trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và

trong nước, thì hơn lúc nào hết, hoạt động GDNT cho bộ đội qua ca khúc về
BĐCH càng trở nên quan trọng và cấp thiết nhằm góp phần phát triển nhân
cách người quân nhân cách mạng, giữ vững và phát huy phẩm chất BĐCH
trong thời kỳ mới.
Trong thời gian qua, có nhiều công trình nghiên cứu từ các góc độ tiếp
cận khác nhau
đã đi sâu luận giải về GDNT, GDNT cho công chúng nói
chung, đã đưa ra được những kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn có
giá trị về mặt khoa học. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng những công trình
chuyên sâu nghiên cứu về GDNT cho bộ đội qua ca khúc về BĐCH, nhất là
các ca khúc sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975. Chính vì vậy, NCS lựa chọn
vấn đề “Giáo dục nghệ thuật cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về B
ộ đội Cụ
Hồ (sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975)” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về GDNT và GDNT qua ca khúc về BĐCH, phân
tích, bàn luận, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp ứng dụng kết quả nghiên
cứu trong GDNT cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về BĐCH, đáp ứng yêu

6
cầu giáo dục nhận thức thẩm mỹ cho bộ đội, giáo dục và hoàn thiện nhân
cách quân nhân.
Từ mục đích trên, luận án hướng tới những mục tiêu, nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể:
2.1. Nghiên cứu, tổng hợp và hình thành các quan điểm lý luận như:
nghệ thuật và GDNT, chức năng, lý thuyết và điều kiện GDNT.
2.2. Nghiên cứu ca khúc về BĐCH và vai trò, giá trị của nó trong đời
sống tinh thần c
ủa bộ đội.
2.3. Nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng GDNT cho bộ đội hiện nay

qua ca khúc về BĐCH.
2.4. Bàn luận về kết quả nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu
trong GDNT cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về BĐCH.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục nghệ thuật cho bộ đội qua ca khúc về Bộ đội Cụ Hồ.
3.2. Phạm vi nghiên c
ứu
Về lý luận, các tài liệu nước ngoài được luận án sử dụng trong nghiên
cứu tổng quan về GDNT chủ yếu là tài liệu của Nga được sưu tầm từ nguồn
Thư viện điện tử của Viện GDNT thuộc Viện Hàn lâm GDNT Nga từ năm
1999 đến nay. Bên cạnh đó nghiên cứu, tổng hợp, kế thừa các tài liệu nước
ngoài về nghệ thuật và GDNT đã được d
ịch và một số công trình của các tác
giả trong nước. Các ca khúc về BĐCH sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975
được NCS nghiên cứu tập trung trong tuyển tập Anh bộ đội Cụ Hồ qua các tác
phẩm âm nhạc của Trường Đại học VHNT Quân đội sưu tầm. Bên cạnh đó
NCS nghiên cứu mở rộng thêm các ca khúc về BĐCH trong tuyển tập Những
khúc quân hành vượt thời gian (2004), Nxb Quân đội nhân dân; Hát trên

7
đường đánh giặc (1999), Nxb Trẻ và tuyển tập ca khúc Hành khúc ngày và
đêm (2004), Nxb Hà Nội.
Về thực tiễn, nghiên cứu GDNT cho bộ đội hiện nay qua các ca khúc
về BĐCH, khảo sát ở một số đơn vị tiêu biểu là các ĐVCS, các học viện, nhà
trường đào tạo sĩ quan kỹ thuật, sỹ quan chính trị, đơn vị nghệ thuật. Cụ thể
là: f 395 (QK3), e 95 (f 325, QĐ 2), f 312 (QĐ 1), Học viện KTQS, Học vi
ện
Hải quân, Đại học Biên phòng, Đại học Chính trị, Đại học VHNT Quân đội,
Nhà hát Ca múa nhạc Quân đội, Đoàn Nghệ thuật Quân chủng PKKQ, Đoàn

văn công QK 7, từ đó có cái nhìn toàn diện về GDNT cho bộ đội qua ca khúc
về BĐCH trong quân đội hiện nay.
Bên cạnh việc phân tích khái quát GDNT cho bộ đội qua các ca khúc
về BĐCH của các đơn vị này, luận án sẽ đi sâu nghiên cứu trường hợp hoạt
động GDNT của đơn vị
làm nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực GDNT trong
quân đội: Trường Đại học VHNT Quân đội. Các đơn vị khác (nêu trên) sẽ
được nghiên cứu theo đối tượng thực hành GDNT và tiếp nhận GDNT phù
hợp với nhóm chức năng nhiệm vụ của các đơn vị quân đội như: Khối học
viện, nhà trường; khối các ĐVCS; khối VHNT. Bên cạnh đó nghiên cứu
mở rộng đối với lực lượng sáng tác, bi
ểu diễn và các sản phẩm âm nhạc
trong quân đội hiện nay để có thêm cơ sở so sánh, đối chiếu, nhận diện đầy
đủ GDNT cho bộ đội hiện nay.
GDNT cho bộ đội qua các ca khúc về BĐCH của các đơn vị này
được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2002 trở lại đây. Chọn
thời điểm này bởi đó là thời điểm sau 10 năm phát động và thực hiện cuộc
vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú”
ở các đơn vị trong quân đội, các đơn vị nghệ thuật và các ĐVCS trong
toàn quân đã bước đầu có chuyển biến tích cực trong các hoạt động văn hóa,
trong đó có GDNT.

8
4. Giả thuyết nghiên cứu
GDNT qua các ca khúc về BĐCH sẽ hướng tới nâng cao năng lực
thưởng thức, cảm thụ, biểu diễn ca khúc về BĐCH, định hướng thị hiếu
âm nhạc, đảm bảo cho sự phát triển nhận thức thẩm mỹ cho bộ đội, nâng
cao và làm phong phú đời sống tinh thần, giáo dục lý tưởng cách mạng,
hoàn thiện nhân cách quân nhân trong trường hợp:
4.1. Vấn đề nêu trên tại các học việ

n, nhà trường, ĐVCS trong quân
đội được làm rõ từ cơ sở lý luận về GDNT và GDNT cho bộ đội qua ca khúc
về BĐCH.
4.2. Trong thực tiễn việc đào tạo chiến sỹ - nghệ sĩ, các vấn đề lý thuyết
âm nhạc, về ca khúc BĐCH, kỹ năng, kỹ xảo biểu diễn, kiến thức lịch sử, văn
hóa truyền thống dân tộc cần là nguồn tri thức tổng hợp đi
ều khiển toàn bộ
quá trình phát triển tư duy sáng tạo, biểu diễn của người nghệ sỹ. Ở các
ĐVCS, các học viện, nhà trường, giá trị của các ca khúc này cùng với hình
thức và phương pháp GDNT cho bộ đội qua ca khúc về BĐCH cần là điều để
bộ đội nâng cao năng lực thưởng thức, cảm thụ ca khúc về BĐCH, có sự lựa
chọn đúng đắn những tác phẩm âm nhạc chân chính, hình thành thị
hiếu âm
nhạc, thỏa mãn và nâng cao đời sống tinh thần, định hướng nhân cách, tự giáo
dục để đạt mục tiêu giáo dục toàn diện.
4.3. Các giải pháp ứng dụng trong GDNT cho bộ đội có cơ sở lý luận
và thực tiễn phù hợp với đặc điểm của môi trường văn hóa quân sự, phù hợp
với thực tiễn hoạt động VHNT của đất nước hiện nay và phù hợp với yêu cầu
nâng cao
đời sống tinh thần của bộ đội, đặc biệt là nhu cầu về thưởng thức ca
khúc về BĐCH trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
5. Lý thuyết, phương pháp nghiên cứu
Hoạt động GDNT trong quân đội là một trong những hoạt động
nhằm thực hiện nhiệm vụ CTĐ, CTCT, góp phần định hướng nhân cách,

9
bồi dưỡng lý tưởng, giáo dục chính trị cho bộ đội. Ca khúc về BĐCH
thuộc dòng CKCM Việt Nam, là sản phẩm văn hóa chứa dựng những giá
trị nhân văn phản ánh bản sắc dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, luận án được
triển khai trên tiền đề quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng; lý thuyết về
sự lây
lan của Vưgốtxki và quan niệm về sự tiếp nhận nghệ thuật của Mỹ học
Mác - Lênin được sử dụng làm cơ sở để bàn luận những vấn đề nghiên
cứu đặt ra của luận án.
Luận án sử dụng phương pháp điền dã dân tộc học - một phương
pháp của ngành nhân học văn hóa làm phương pháp chủ đạo. Ngoài ra còn
sử dụng phương pháp ti
ếp cận liên ngành. Đặc thù trong tổ chức hoạt
động của quân đội là điều kiện thuận lợi để NCS sử dụng phương pháp
điền dã tại các ĐVCS, các học viện, nhà trường trong toàn quân; phân
tích, tổng hợp các tài liệu là nội dung, chương trình, giáo trình giảng dạy
âm nhạc của Trường Đại học VHNT Quân đội, các báo cáo công tác văn
hóa văn nghệ của các đơn vị trong toàn quân, kết hợp phỏng vấn sâu các
nhà quả
n lý, các nghệ sỹ sáng tạo, các nhà chỉ đạo nghệ thuật, công chúng
là bộ đội trong nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt động GDNT cho bộ
đội hiện nay qua ca khúc về BĐCH sáng tác từ năm 1944 đến năm 1975.
6. Những kết quả và đóng góp của luận án
6.1. Kết quả nghiên cứu
- Hệ thống một cách cơ bản những vấn đề lý luận về GDNT. Cụ thể là
tổng hợp và hình thành các quan
điểm lý luận như: nghệ thuật và GDNT,
chức năng, lý thuyết và điều kiện GDNT.
- Hình thành lý luận chung về ca khúc BĐCH. Trong đó khái quát về sự
ra đời của ca khúc về BĐCH, phân tích tính đặc trưng trong hình tượng ca từ
và vai trò, giá trị của ca khúc về BĐCH trong đời sống tinh thần của bộ đội.

10
- Phân tích lý luận và những nhân tố tác động đến GDNT cho bộ đội qua

ca khúc về BĐCH.
- Cung cấp thông tin và đánh giá một cách toàn diện về thực trạng
GDNT cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về BĐCH.
- Vận dụng lý thuyết về sự lây lan của Vưgốtxki và quan điểm về sự
tiếp nhận nghệ thuật của Mỹ học Mác - Lênin để bàn luận về sự tác động c
ủa
GDNT qua ca khúc về BĐCH tới thưởng thức nghệ thuật, hình thành thị
hiếu nghệ thuật, góp phần định hướng tới sự phát triển toàn diện nhân
cách quân nhân.
- Hình thành và xây dựng một số biện pháp cơ bản ứng dụng nâng cao
hiệu quả GDNT cho bộ đội hiện nay qua ca khúc về BĐCH.
6.2. Đóng góp của luận án
- Ứng dụng thống nhất, hiệu quả việc sử dụng ca khúc v
ề BĐCH làm chất
liệu GDNT trong quân đội hiện nay trong nghiên cứu tâm lý học quân sự, trong
giáo dục nhận thức thẩm mỹ cho bộ đội, đặc biệt là thẩm mỹ nghệ thuật, góp
phần hoàn thiện nhân cách quân nhân, giữ vững và phát triển phẩm chất BĐCH
thời kỳ mới.
- Sử dụng kết quả nghiên cứu trong chương trình giảng dạy về phương
pháp luận GDNT của trường Đại họ
c VHNT quân đội, trong việc đào tạo và
đào tạo lại để nâng cao trình độ của giảng viên nghệ thuật quân đội; sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy lĩnh vực hoạt động
VHNT trong các nhà trường đào tạo cán bộ, sĩ quan chính trị của quân đội; ứng
dụng để nâng cao chất lượng biểu diễn của các đơn vị nghệ thuật của quân đội,
nâng cao ch
ất lượng các hoạt động giáo dục chính trị, VHNT ở ĐVCS trong
quân đội.
- Cung cấp luận cứ khoa học cho các cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn
vị quân đội xây dựng các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, tổ


11
chức GDNT cho bộ đội qua ca khúc về BĐCH, đáp ứng hiệu quả hoạt động
CTĐ, CTCT trong quân đội.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 227 trang được chia làm 2 phần, phần chính văn và phần
phụ lục. Phần chính văn gồm 150 trang: mở đầu (8 trang), kết luận
(3 trang),
tài liệu tham khảo (12 trang), nội dung luận án gồm 3 chương (127 trang).
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giáo dục ngh
ệ thuật.
Chương 2: Giáo dục nghệ thuật cho bộ đội qua ca khúc về BĐCH - Lý
luận và thực trạng.
Chương 3: Bàn luận kết quả nghiên cứu và ứng dụng trong GDNT cho
bộ đội hiện nay qua ca khúc về BĐCH.

















12
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC NGHỆ THUẬT

1.1. Nghệ thuật và quan niệm về giáo dục nghệ thuật
1.1.1. Nghệ thuật
Nghệ thuật được quan niệm và lý giải theo nhận thức của các quan điểm
triết học khác nhau trong lịch sử nhận thức nói chung và trong nhận thức về
nghệ thuật nói riêng của loài người. Bàn về nghệ thu
ật, Mỹ học Mác - Lênin
cũng đã đề cập tới nhiều quan điểm về nghệ thuật khác nhau của các trường
phái trong hệ thống triết học. Luận án trên cơ sở kế thừa và tổng hợp những
quan điểm về nghệ thuật như sau:
Theo quan điểm của mỹ học duy tâm, nghệ thuật là sự biểu hiện của
tình cảm thần thánh, củ
a ý chí thượng đẳng, siêu nhiên. Mỹ học duy tâm
khách quan quan niệm nghệ thuật là sự biểu hiện của thế giới ý niệm. Từ thời
cổ đại, Platôn coi cái đẹp là ý niệm tồn tại trong cõi tinh thần huyền bí; cái
thẩm mỹ, cái đẹp do con người tạo ra chỉ là hình ảnh “sao chép” của cái thẩm
mỹ, cái đẹp tuyệt đối của ý niệm; nghệ thuật chỉ là cái bóng của ý niệm tuyệt
đối, cho nên, theo ông, nghệ thuật
đứng cách xa chân lý tới ba bậc. Hêghen
cũng coi nghệ thuật là hình ảnh được sinh ra từ tinh thần, ý niệm. Hình tượng
nghệ thuật là sự cụ thể hóa ý niệm tuyệt đối vào trong dạng thức hiện thực -
sự hiện thực hóa cái đẹp ý niệm thành cái đẹp thực tế [36, tr.251-252].
Mỹ học duy tâm khách quan nhìn thấy bản chất của nghệ thuật trong
cảm giác đặc biệt. Cantơ và những đồng sự của ông cho r
ằng, thế giới nghệ

thuật là thế giới của các cảm giác chủ quan, là năng lực phản tỉnh tiên nghiệm
vươn tới những ý niệm hoàn thiện. Tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm tinh thần
của nghệ sỹ, nhưng là nghệ sỹ siêu nghiệm, tức là cái nằm ở bên kia ý thức,

13
thế giới của “vật tự nó” - của ý chí tự do, của tinh thần bất tử. Trái với
Hêghen, Cantơ cho rằng, nghệ thuật là sản phẩm đứng ở đỉnh cao nhất của lý
trí, là sự kết thúc của triết học [36, tr.252].
Triết học - mỹ học phương Tây hiện đại, hoặc duy tâm hoặc tự nhiên
chủ nghĩa cũng có nhiều cách lý giải khác nhau về bản chất của nghệ
thuật.
Nếu như Cantơ coi nghệ thuật là sự phản tỉnh siêu nghiệm, song nó gắn với
khả năng phản tư của con người nhằm vươn tới các giá trị cao quý, thì chủ
nghĩa siêu thực lại đẩy nghệ thuật ra bên lề cuộc sống con người, đưa nghệ
thuật vào thế giới siêu thực, thậm chí thần bí, thế giới của những ảo giác.
Vào đầu thế
kỷ XX, mỹ học phương Tây phổ biến sâu rộng quan điểm
duy tâm chủ quan dựa trên hiện tượng luận. Những lý thuyết nghệ thuật như
“Di nhập tình cảm” của Lippa; “Cự ly tâm lý” của Bullough hoặc “Trực giác
hình thể” của Krosse, đều là các biến thái khác nhau của quan niệm coi thế
giới vốn trung lập về thẩm mỹ - không xấu, không đẹp; cái đẹp là do nghệ sỹ
tạo ra, thiên nhiên có được chất thẩ
m mỹ là nhờ nghệ thuật cho nó vay mượn.
Nhiều nhà mỹ học hiện đại phát triển các quan điểm nghệ thuật của
Cantơ, Heghen cùng các quan điểm khác của nghệ thuật hiện đại với những
tuyên ngôn khác nhau, song đều bộc lộ quan điểm chung: nghệ thuật không
phải là sự phản ánh hiện thực, không liên quan gì đến xã hội, nó là sự phản
ánh tự do, bằng cách riêng, nó tạo ra thế giới riêng củ
a nó - nghệ thuật là thế
giới riêng của nghệ thuật.

Song song với dòng tư tưởng nghệ thuật duy tâm là dòng tư tưởng nghệ
thuật duy vật. Từ thời cổ đại, Arixtốt đã nhìn thấy tính vật chất, tính hiện thực
của nghệ thuật. Arixtốt cho rằng nghệ thuật bắt nguồn từ giới tự nhiên, nó có
nguồn gốc từ đời sống hiện thực củ
a con người. Ông đưa ra lý thuyết “Bắt
chước”: nghệ thuật là sự bắt chước khéo léo các mô hình của giới tự nhiên -
mô phỏng giới tự nhiên để làm ra những sản phẩm mới cao hơn hiện thực tự

14
nhiên. Theo ông, nghệ thuật bắt chước “Người Mẹ” tự nhiên, là phương tiện
để thanh lọc cảm xúc của con người, là phương tiện giáo dục con người trở
nên cao đẹp hơn.
Nhiều nhà tư tưởng thời Phục Hưng như: Lêôna Đơvanhxi, Mikenlăng,
Raphaen, Sếchxpia đã đem lại cho nghệ thuật sức sống mới khi khẳng định
tính chất hiện thực sống động của nghệ
thuật. Họ khẳng định rằng, giá trị thẩm
mỹ là thuộc thiên nhiên và niềm vui cảm thụ thiên nhiên. Tuy còn mang tính
chất duy vật siêu hình, các nhà Khai sáng thế kỷ XVIII như Vonte, Điđơrô,
Gớt, đã tạo ra bước tiến quan trọng trong quan niệm khoa học về nghệ thuật.
Tiếp thu tư tưởng tiến bộ của những người đi trước, các nhà Khai sáng đã mở
rộng phạm vi thuộc tính thẩm mỹ, đư
a chúng từ ý niệm về hiện thực trần gian,
nhấn mạnh nội dung nhân bản, nhân đạo, nhân văn, tính thực tiễn lớn lao.
Các nhà Dân chủ cách mạng Nga thế kỷ XIX như Biêlinxki,
Đôbrôliubốp, Tsécnưsépxki đã tiến xa hơn trong việc gắn nghệ thuật với đời
sống xã hội, đã đưa nghệ thuật trở về đúng cội nguồn của nó. Ông chứng
minh bản chất hiện th
ực, bản chất xã hội của nghệ thuật - nghệ thuật không gì
khác là mối quan hệ giữa con người với thế giới hiện thực, với đời sống xã
hội. Song Tsécnưsépxki không thể vượt qua được hạn chế nhận thức của thời

đại, trong khi tìm cách nhấn mạnh vị trí to lớn của thực tiễn xã hội trong nghệ
thuật, ông đã coi giá trị cao nhất của nghệ thuật là “b
ản sao cuộc sống” - nghệ
thuật chính là cuộc sống [36, tr.255].
Sự xuất hiện triết học Mác - Lênin đã tạo bước ngoặt vĩ đại trong lịch
sử phát triển tư tưởng mỹ học và giải quyết một cách khoa học vấn đề bản
chất của nghệ thuật. Mỹ học Mác - Lênin đã đưa nghệ thuật về đúng vị trí là
sản phẩm của ý th
ức bậc cao của con người.
Nghệ thuật, cũng như bất cứ hình thái ý thức xã hội nào khác, là một
hình thái phản ánh thế giới của ý thức con người, là sản phẩm của hoạt động

15
sáng tạo của con người với những chất liệu được lựa chọn hoặc định dạng (âm
nhạc, múa, sân khấu, điêu khắc, hội họa ) để chuyển tải ý tưởng, cảm xúc từ
hoạt động thực tiễn của con người tạo nên những tác phẩm nghệ thuật thỏa
mãn sự thích thú thưởng thức. Tác phẩm nghệ thuật mang giá trị chân - thiện -
mỹ, cô đặc tri thứ
c và tình cảm con người, có khả năng nhân vốn sống tình
cảm, lý trí con người lên nhiều lần. Đánh giá thẩm mỹ ẩn sâu trong hình
tượng nghệ thuật được người thưởng thức tiếp nhận như sự gợi mở, sự thể
hiện và định hướng. Gây dựng và rèn luyện cảm xúc thẩm mỹ, bồi dưỡng
năng lực đánh giá, định hướng giá trị về sáng tạo thẩm m
ỹ, đó chính là ưu thế
giáo dục của nghệ thuật.
1.1.2. Quan niệm về giáo dục nghệ thuật
Khác với các hình thức giáo dục khác là giảng giải, chứng minh,
khuyên bảo, v.v , nghệ thuật cảm hóa, chinh phục lòng người thông qua
những cảnh đời, số phận, những hình tượng sống động chứa đầy cảm xúc. Vì
vậy, cảm thụ nghệ thuật không hề bị ức chế bởi tâm lý “bị

giáo dục”. Con
người tìm đến với nghệ thuật như một phương tiện giải trí hoàn toàn thoải
mái, tự do. Nghệ thuật liên kết các năng lực trí tuệ cơ bản như khả năng tưởng
tượng, sáng tạo, biểu đạt và trải nghiệm, giúp cho con người tự hiểu biết về
mình và về xã hội, giúp liên kết con người và sự kiện vượt qua thời gian,
không gian và giới hạn vùng, lãnh thổ để
gắn kết các truyền thống, cộng
đồng, các nền văn hóa.
Phát triển và hoàn thiện con người là nhu cầu tự thân, nhu cầu phổ quát
nhất và cao nhất của con người, của mỗi cá nhân và cả xã hội. Phát triển và
hoàn thiện con người theo quan điểm nhân văn là làm cho con người được
phát triển toàn diện, hài hòa tất cả các phương diện về thể chất và tinh thần:
Đức - Trí - Thể - Mỹ. Nếu thừa nhận Cái đẹp là m
ột chỉnh thể toàn vẹn

16
Chân - Thiện - Mỹ, thì nhu cầu thẩm mỹ, trong đó có nhu cầu nghệ thuật là
biểu hiện tập trung và cao nhất, là một nhu cầu toàn vẹn, hoàn thiện, do đó nó
nằm ở tầng cao trong đời sống tinh thần của con người. Nếu nhìn con người
phát triển và hoàn thiện, tức là nhìn con người như một chủ thể toàn vẹn, vừa
là sản phẩm của lịch sử - xã hội, vừa là người sáng tạo ra lị
ch sử - xã hội, vừa
tạo ra bản thân mình. Với ý nghĩa này, con người vừa sáng tạo ra văn hóa cho
xã hội, vừa văn hóa hóa chính mình. Như vậy, con người toàn vẹn chính là
con người văn hóa. Con người tự văn hóa hóa chính mình, đó chính là con
người đóng vai trò chủ thể thẩm mỹ - chủ thể nghệ thuật. Từ thời cổ đại, các
triết gia đã coi GDNT là một trong những phương thức hiệu quả nhất cho việ
c
giáo dục con người trở thành người tốt. GDNT là một hoạt động xã hội, gắn
liền với các thiết chế xã hội và vai trò con người, là nhu cầu tất yếu, là mục

đích của sự nghiệp phát triển con người của xã hội và chính là một trong
những phương thức giáo dục hiệu quả nhằm phát triển con người văn hóa -
chủ thể nghệ thuật.
Sự phát triển con người với tư
cách vừa là chủ thể, vừa là khách thể
nghệ thuật, có tình cảm thẩm mỹ - nghệ thuật, có lý trí sâu sắc, có năng lực
sáng tạo cao, tất nhiên phải là một quá trình giáo dục có tính tổng hợp. GDNT
là loại hình giáo dục tổng hợp mà ở đó, trước hết phải có các nền tảng văn hóa
chung, song văn hóa thẩm mỹ là nền tảng giá trị trực tiếp, và đặc biệt là nền
tảng giá trị. Thế
giới thẩm mỹ, đặc biệt là thế giới nghệ thuật với bản chất,
đặc trưng có tính toàn vẹn của nó sẽ tác động và làm phát triển toàn diện, hài
hòa tất cả các mặt: thể chất, tinh thần, trí tuệ, tài năng của con người bên cạnh
sự phát triển tất cả các lĩnh vực tri thức khác.
GDNT là lĩnh vực có khả năng mang đến cho đối tượng những tri thức,
kỹ n
ăng cơ bản để có thể tiếp cận, thưởng thức và sáng tạo một hay nhiều loại
hình nghệ thuật. Kết quả của GDNT sẽ hướng tới cho đối tượng tham gia vào

17
quá trình giáo dục nâng cao khả năng cảm thụ nghệ thuật, nâng cao năng lực
sáng tạo, hoàn thiện nhân cách, từ đó phát huy vai trò của GDNT đối với một
xã hội trong giáo dục văn hóa, định hướng sáng tạo, phát triển văn hóa. Để
thực hiện những mục đích khác nhau của GDNT nói riêng và các mục đích
giáo dục khác, GDNT chính là hỗ trợ quyền con người về giáo dục và tham
gia vào đời sống văn hóa, phát triển các khả năng c
ủa cá nhân, nâng cao chất
lượng sống, góp phần cho sự phong phú nền văn hóa. Đường lối phát triển
GDNT của Nga nhận định: GDNT đó là quá trình nắm vững và chinh phục
con người bởi văn hóa của dân tộc mình và của nhân loại, một trong những

phương thức quan trọng nhất để phát triển và hình thành nhân cách toàn diện,
tâm hồn, tính sáng tạo, sự phong phú về trí tuệ và cảm xúc. Quá trình này bao
gồm sự hình thành những nhận thức về mặt lị
ch sử văn hóa của dân tộc và
nhân loại; hình thành phương pháp thực hành, biểu hiện nghệ thuật với các
loại hình nghệ thuật khác nhau; hình thành các tiêu chí để thưởng thức, đánh
giá nghệ thuật ở các góc độ tinh thần bao gồm tư duy về lý tưởng, đạo đức [117].
Theo quan điểm hiện đại về GDNT của một số nhà nghiên cứu Văn hóa học Nga,
GDNT được xem như nguồn gốc và phương thức phát triể
n con người (đặc biệt là
lớp trẻ), là mảnh đất mà trên đó có thể gieo trồng và nuôi dưỡng các tiềm năng
tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ và sáng tạo của mỗi cá nhân [115]. Trong các nhà
trường, GDNT sẽ tạo nên một môi trường văn hóa - tinh thần để thông qua đó
làm đổi mới nội dung giáo dục và phong phú thêm những hình thức, nội dung
hiện đại trong giáo dục lĩnh vực nghệ thuật. Những điều kiệ
n văn hóa - xã hội
có ảnh hưởng chi phối GDNT tới sự hình thành nhân cách con người xã hội.
Mỗi một nền văn hóa - xã hội khác nhau thì có sự khác nhau trong việc định
hướng nhân cách con người. Bởi vậy, hình thành nhân cách, thế giới quan kiểu
mới của con người trong xã hội hiện đại cũng chịu sự tác động trực tiếp của những
điều kiện văn hóa - xã hội hiện đại. Mặt khác, trong xã hội hiện
đại, sự bùng nổ

18
của công nghệ thông tin đã chứng minh rằng, sự thay đổi căn bản của các hình
thức sản xuất và tiêu thụ của xã hội gắn liền với sự phát triển và ứng dụng các
công nghệ thông tin mới, dẫn đến sự xuất hiện nhu cầu mới trong việc sử dụng các
phương tiện để thực hiện GDNT (công cụ hiện đại để sáng tạo, thưởng thức nghệ
thuật: thiết bị nghe nhìn). Yêu cầu mới lại đặt ra và đòi hỏi tính chuyên
nghiệp trong GDNT đối với đội ngũ giảng dạy nghệ thuật, thể hiện ở việc ứng

dụng các thiết bị nghe nhìn trong quá trình GDNT.
GDNT là quá trình nhận thức hiện thực của đời sống xã hội của con
người và diễn ra liên tục, là yếu tố quan trọng trong hình thành và phát triển
nhân cách, là điều kiện cho sáng tạo. Và quá trình GDNT là quá trình diễn ra
lâu dài, thường xuyên, liên tục, về bản chất là không có sự kết thúc.
Từ đó, chúng ta có thể đưa ra quan niệm về GDNT như sau:
GDNT là một hoạt động giáo dục của các chủ thể trong lĩnh vực đời
sống tinh thần của xã hội gắn với nghệ thuật, thông qua những hình thức,
biện pháp phong phú, đa dạng trong giáo dục nâng cao sự hiểu biết, tri thức,
đặc trưng, kỹ năng của con người v
ề phương diện nghệ thuật, nhằm bồi
dưỡng và nâng cao năng lực thẩm mỹ, tri thức nghệ thuật, định hướng lý
tưởng nghệ thuật, thị hiếu nghệ thuật cho con người.
Như vậy, quá trình GDNT được thực hiện đầy đủ khi nó đảm bảo cho đối
tượng giáo dục được trang bị đầy đủ tri thức nghệ thuật (để hiểu, cảm thụ và
đ
ánh giá về một tác phẩm nghệ thuật); kỹ năng, kỹ xảo nghệ thuật (để biểu
hiện nghệ thuật), có nghĩa là bồi dưỡng năng lực nghệ thuật. Khi đối tượng
giáo dục có năng lực nghệ thuật, có nghĩa là nghệ thuật sẽ phát huy vai trò và
trở thành một công cụ, phương tiện để thực hiện các mục đích giáo dục khác,
ví dụ như: sử d
ụng âm nhạc để giáo dục thẩm mỹ, giáo dục nhận thức, giáo
dục chính trị; sử dụng sân khấu để giáo dục lịch sử văn hóa dân tộc, giáo dục
đạo đức, giá Như vậy, giáo dục nghệ thuật cao hơn cả là giúp cho con người
nâng cao nhận thức thẩm mỹ, bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách.

19
1.2. Chức năng của giáo dục nghệ thuật
Mục đích xây dựng yếu tố con người của bất kỳ xã hội phát triển nào
cũng đều là chủ động tạo ra những con người phát triển toàn diện và hài hòa

tất cả các mặt từ thể chất đến tinh thần, từ đạo đức đến tài năng, làm cho mỗi
cá nhân từng bước trở thành những cá nhân có khả năng hoạt
động sáng tạo
và hưởng thụ các giá trị do mình tạo ra. Khả năng sáng tạo và khả năng hưởng
thụ các giá trị, nhất là các giá trị văn hóa, các giá trị nghệ thuật đòi hỏi một
trình độ cao. Trình độ đó gần gũi với trình độ nghệ thuật, bởi nói đến nghệ thuật
là nói đến sáng tạo, nói đến khả năng sáng tạo. Bốn nhóm chức năng mang
những đặc trưng riêng c
ủa nghệ thuật theo quan điểm của Mỹ học Mác - Lênin
như: chức năng thưởng thức gồm khoái cảm, giải trí, đền bù; chức năng nhận
thức gồm phát kiến, tiên đoán, dự báo; chức năng giáo dục gồm thức tỉnh,
thanh lọc, sáng tạo; chức năng giao lưu gồm thông tin, giao tiếp…đã làm quá
trình văn hóa hóa của con người trở nên hiệu quả [36, tr.281]. Vì vậy, đối với
m
ục đích tạo ra những con người có khả năng sáng tạo và hưởng thụ các giá
trị do mình tạo ra thì GDNT có vai trò và lợi thế đặc biệt.
Chức năng đầu tiên của GDNT là giáo dục năng lực thưởng thức nghệ
thuật. Chức năng này làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển những phẩm chất
nghệ thuật của các đối tượng được giáo dục. Hơn nữa, năng lự
c thưởng thức
nghệ thuật cũng chứa đựng những yếu tố nghệ thuật trong bản thân các chủ thể
nghệ thuật, chứa đựng bản chất quan hệ và trình độ thẩm mỹ - nghệ thuật trong
bản chất và mọi hoạt động của con người, thể hiện trên ba bình diện chủ yếu:
tri thức nghệ thuật, năng lực hoạt động nghệ thuật, th
ế giới các sản phẩm nghệ
thuật. Chức năng của GDNT là xây dựng và nâng cao năng lực thưởng thức
nghệ thuật của xã hội, của các cá nhân theo ba bình diện tri thức, hoạt động,
sản phẩm nghệ thuật nêu trên.

20

GDNT có chức năng hình thành ở cá nhân các nhu cầu và thị hiếu
nghệ thuật, năng lực đánh giá, thẩm định nghệ thuật, khả năng tổ chức và
hoạt động, sáng tạo nghệ thuật. Như vậy cùng với chức năng giáo dục năng
lực thưởng thức nghệ thuật, GDNT còn phải xây dựng những chủ thể nghệ
thuật có đầy đủ các phẩm chất, nă
ng lực và khả năng thẩm mỹ nghệ thuật
của mình. Trên cơ sở những chức năng của nghệ thuật theo quan điểm của
Mỹ học Mác - Lênin, luận án tổng hợp và cụ thể hóa một số chức năng cơ
bản của GDNT như sau:
- GDNT tạo khả năng thẩm mỹ hóa, nghệ thuật hóa cao độ thế giới
khách quan bên ngoài và bản chất bên trong của con ngườ
i (của chính bản
thân người được giáo dục), nghĩa là GDNT vừa thẩm mỹ hóa, nghệ thuật hóa
thế giới bên ngoài con người (môi trường) vừa phải thẩm mỹ hóa, nghệ thuật
hóa thế giới bên trong của chính các chủ thể thẩm mỹ, chủ thể nghệ thuật.
- GDNT làm cho sự sáng tạo (hoạt động sáng tạo) theo quy luật thẩm mỹ -
quy luật nghệ thuật, trở thành nhu cầu sống và tác động tớ
i mọi hoạt động sống
của các cá nhân, của cả xã hội. Thế giới nghệ thuật là thế giới các giá trị tổng hợp,
nơi kết tụ các ước mơ, khát vọng, nơi thể hiện các khả năng chiếm lĩnh những
đỉnh cao tình cảm, trí tuệ không chỉ trong hiện thực, mà cả trong tương lai. Vì
vậy, GDNT còn có chức năng làm cho con người không chỉ được nâng cao về
nhu cầu nghệ thu
ật, mà còn được phát triển cao các khả năng hiện thực hóa
các nhu cầu nghệ thuật của mình. Để có được điều đó, mỗi cá nhân phải trở
thành một chủ thể nghệ thuật: hiểu biết về bản chất, cấu trúc, đặc điểm của
nghệ thuật, hiểu biết các loại hình, loại thể nghệ thuật, đồng thời có khả năng
thể hiệ
n (biểu diễn, thực hành) được một số loại hình, loại thể nghệ thuật.
- GDNT cũng có chức năng cung cấp cái nhìn tổng quát, sinh động và uyển

chuyển thông qua tri thức thẩm mỹ - nghệ thuật; hỗ trợ cho việc làm phong phú và
mềm mại hóa, uyển chuyển hóa cách nhìn, cách tư duy cũng như các thao tác,

21
các hoạt động của con người. Thực chất, đó là nghệ thuật hóa suy nghĩ, tư duy,
hành vi, hành động của các chủ thể được giáo dục, đưa nghệ thuật vào đời sống
con người. Trong thời đại ngày nay, khi người lao động trở thành những chủ thể
tích cực của đời sống vật chất - tinh thần, những con người sáng tạo ra các giá trị
văn hóa ngày càng cao, thì sự phát triển các chủ thể nghệ
thuật có tư tưởng đúng,
tình cảm đẹp, biết thưởng thức cái đẹp, biết hành động có hiệu quả theo quy luật
của cái đẹp trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, càng trở nên bức thiết. Khi
trong xã hội chất lượng sống cao thì nhu cầu nghệ thuật cũng cần được nâng cao.
GDNT phải đạt tiêu chí, các thông số thẩm mỹ - nghệ thuật không chỉ theo tiêu
chí và thông số của hoạ
t động nghệ thuật, mà là của mọi lĩnh vực hoạt động sống
của con người trong xã hội.
Trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế, trong xu thế phát triển khoa
học, công nghệ, nghệ thuật đương đại, các chuẩn mực và các tiêu chí thẩm mỹ -
nghệ thuật cũng vận động theo cấp độ tiến bộ chung. Giáo dục thẩm mỹ - nghệ
thuậ
t có chức năng góp phần gợi mở các cách tiếp cận tới cái đẹp, định hướng
thẩm mỹ - nghệ thuật cho nhân dân. Hiện tại, đời sống nhân dân còn thấp, nhưng
để thực hiện sự nghiệp phát triển con người, GDNT cần có những phương án chủ
động. Cần phát triển môi trường văn hóa - xã hội, nâng cao chất lượng lao động -
sản xuất và chất lượng sống của nhân dân, đưa cái đẹp (ngh
ệ thuật) vào đời sống
và biến nhu cầu thẩm mỹ - nghệ thuật thành lẽ sống hàng ngày, thành chuẩn mực
phát triển cá nhân và xã hội. Nâng cao cũng là điều kiện tạo nên sự hài hòa giữa
con người với con người, con người với thiên nhiên. GDNT sẽ góp phần quan

trọng vào việc xây dựng một xã hội văn minh.
1.3. Các lý thuyết về giáo dục nghệ thuật
Trong lịch sử xã hội loài người đã có những quan đ
iểm khác nhau về
GDNT. Tùy theo lập trường, thế giới quan, phương pháp luận mà vấn đề về
GDNT được các nhà nghiên cứu đặt ra và giải quyết với những mức độ cấp

22
thiết khác nhau. Cũng chính bởi vậy, các lý thuyết về GDNT cũng được các
nhà nghiên cứu sử dụng khác nhau để tiếp cận phù hợp với mục đích nghiên
cứu của mình. Nếu như lựa chọn âm nhạc như một chất liệu để thực hiện
GDNT cho con người, lý thuyết về sự lây lan của Vưgốtxki, cùng với quan
điểm về sự tiếp nhận nghệ thuật c
ủa Mỹ học Mác - Lênin sẽ là những cơ sở lý
luận phù hợp để nghiên cứu phát huy hiệu quả của quá trình GDNT cho con
người nhằm đạt mục đích nâng cao năng lực nghệ thuật, bồi dưỡng thẩm mỹ
nghệ thuật, giúp cho sự hoàn thiện nhân cách.
1.3.1. Lý thuyết về sự lây lan
Trong số những công trình nghiên cứu về nghệ thuật xuất hiện trên thế
giới, “Tâm lý học nghệ thuật” củ
a Vưgốtxki là một trong những công trình
gây tiếng vang, là những phát kiến mới của ông về mối liên hệ giữa nghệ
thuật và cuộc sống. Trong nghiên cứu này, Vưgốtki đã đề cập đến nhiều
thuyết và quan điểm về nghệ thuật của các nhà văn lớn như: Sếchxpia, Gớt,
Tônxtôi Qua giới thiệu, phân tích có phê phán những thuyết của các tác giả
này, Vưgốtxki đưa ra nhiều ý kiế
n hết sức thích đáng về những vấn đề cơ bản
của văn học, nghệ thuật, trong đó nhấn mạnh về bản chất, đặc trưng, vai trò và
tác động của nghệ thuật, phép biện chứng giữa nội dung và hình thức trong
tác phẩm nghệ thuật…đứng trên quan điểm tâm lý học ứng dụng để khẳng

định vai trò tác động của nghệ thuật trong đời số
ng xã hội.
Lép Tônxtôi đã từng đưa ra thuyết nổi tiếng về tác động xã hội của nghệ
thuật như là sự lây lan tình cảm. Theo ông, thông qua tác phẩm nghệ thuật,
tình cảm của một người nghệ sĩ lây lan sang một hay nhiều người khi người
đó thưởng thức nghệ thuật. Tônxtôi quan tâm đến phương diện số lượng trong
tác động của nghệ thuật. Vưgốtxki bằng phân tích đã lưu ý chúng ta
đến
phương diện biến đổi về chất trong sự sáng tạo nghệ thuật. Ông viết: “Âm
nhạc không chỉ trực tiếp những hành vi nào phải diễn ra tiếp theo sau đó, tuy

23
nhiên việc nó làm sống dậy những sức mạnh nào, cái gì nó giải thoát và cái gì
nó chèn nén sâu hơn là những điều tác động cơ bản của nó, vào chiều hướng
mà nó đưa lại cho catacxit tâm lý” [113, tr.8]. Theo thuyết của Tônxtôi, tình
cảm của tác giả lây lan sang công chúng thì trở thành tình cảm xã hội.
Vưgốtxki làm sáng tỏ bản chất xã hội của nghệ thuật bằng quan niệm “Nghệ
thuật là kỹ thuật xã hội của tình cảm…sức mạnh c
ủa tình cảm xã hội được
khách thể hóa, được vật chất hóa và củng cố trong những đối tượng bên ngoài
của nghệ thuật, những đối tượng được biến thành những công cụ của xã hội”
[113, tr.8]. Ông cũng phân tích cho thấy, nghệ thuật là kỹ thuật xã hội của tình
cảm, là công cụ của xã hội, bằng phương tiện nghệ thuật, nó lôi cuốn vào
phạm vi đời sống xã hội những m
ặt sâu kín nhất và riêng tư nhất của thực thể
chúng ta. Tônxtôi quan tâm đến sức mạnh truyền cảm của nghệ thuật.
Vưgốtxki làm nổi bật quyền lực mãnh liệt của sức mạnh này. Khi nói tới ma
lực tiết tấu của nhạc, ông đã dẫn ý kiến của Nitse: “Nó (tiết tấu) làm nảy sinh
ham muốn ghê gớm muốn bắt chước, hòa nhịp với nó không chỉ bằng bước
chân, mà hòa c

ả tâm hồn…” [113, tr.9]. Theo ông, khả năng trút xả trong
nghệ thuật hình thành nên trong con người những say mê cực lớn. Những
quan niệm của Vưgốtxki về tính năng tác động của âm nhạc vào tư tưởng,
tình cảm, lay động và thức tỉnh tâm hồn con người là hoàn toàn có lý. Toàn
bộ hành vi ứng xử của con người với nghệ thuật từ sự say mê ấy không ngoài
gì hơn là quá trình cân bằng cơ thể với môi trường, như vậy ngh
ệ thuật chính
là sự tích tụ cuộc sống. Vưgốtxki cũng đã dựa trên những nghiên cứu của
Biukher về cội nguồn của âm nhạc và thơ ca là từ công việc tay chân nặng nề
và chúng có nhiệm vụ giải quyết bằng catacxit sự căng thẳng nặng nề của lao
động để nêu ra đặc điểm của âm nhạc là xuất phát từ lao động. Và theo ông,
về sau này khi nghệ thuật đ
ã tách khỏi nghệ thuật và tồn tại như một hoạt
động độc lập thì nó đưa vào bản thân tác phẩm nghệ thuật cái yếu tố trước kia
do lao động tạo ra; “cái cảm xúc nhọc nhằn đau khổ cần được giải quyết, giờ

×