Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.82 KB, 27 trang )

Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đề làm văn là một khâu quan trọng của quá trình giáo dục văn học cho
học sinh trung học cơ sở. Đề văn hội tụ những năng lực của tư duy, đòi hỏi học
sinh phải suy luận, phán đoán. Quá trình xử lý đề, học sinh phải vận dụng các
thao tác tư duy, kỹ năng biểu đạt. Đề văn còn điều chỉnh việc học của trò và việc
dạy của thầy.
Đề văn “Nêu ra những đầu đề buộc học sinh phải suy nghĩ, phải tìm tòi
trong ký ức của mình, kinh nghiệm của mình, đời sống của mình những gì đáng
nói”. Như vậy, học sinh phải đối diện với chính mình, cảm nhận được sự thiếu
hụt, non kém hoặc bày tỏ được những hiểu biết, những đánh giá của cá nhân về
vấn đề mà đề văn đặt ra. Thông qua bài viết của học sinh người thầy đánh giá
được việc dạy văn của mình. Nếu lối dạy áp đặt, lối học thụ động thì việc giải đề
văn chỉ là sao chép thông tin một cách máy móc.
Đề văn gợi mở được hứng thú sáng tạo sẽ giúp cho học sinh bộc lộ trình
độ nhận thức, quan niệm cá nhân, thái độ và tình cảm đối với quê hương đất
nước, lòng nhân ái được vun đắp và phát triển. Đề văn chính là tiền đề để phát
huy năng lực sáng tạo cho học sinh.
Tuy nhiên, việc ra đề làm văn nghị luận văn học ở các trường phổ thông
còn phổ biến lối ra đề sao chép tái hiện kiến thức. Giáo viên ra đề kiểm tra kiến
thức văn học là chính. Tình trạng học sinh sử dụng các bài văn mẫu để đối phó
với đề ra của cô giáo là phổ biến.
Cho nên cần thiết phải cải tiến "Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo
hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở" để học sinh hứng thú
với việc học, tự rèn luyện mình, từng bước nâng dần năng lực cảm thụ văn học.
II. MỤC ĐÍCH – Ý NGHĨA
Đề tài nhằm mục đích sau đây:
- Đánh giá thực trạng ra đề ở trường trung học cơ sở.
- Đề xuất một quan niệm về ra đề làm văn nghị luận văn học.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:


Chúng tôi tiến hành phương pháp chủ yếu sau:
1. Phương pháp khảo sát phân loại thống kê
- Khảo sát 25 đề nghị luận văn học trung học cơ sở
- Phân loại thống kê theo tiêu chí
2. Phương pháp phân tích tổng hợp:
- Đọc một số tài liệu và những ý kiến rải rác về làm văn để tổng hợp khái
quát thành một số nhận định và luận điểm chung.
- Khảo sát bài làm của học sinh trung học cơ sở, phân tích rút ra nhận định
thực trạng ra đề nghị luận văn học ở trường trung học cơ sở.
3. Phương pháp thực nghiệm:
- Bộ đề đề xuất đã được đưa cho học sinh lớp 8, 9 thực nghiệm. Đối tượng
thực nghiệm là các trường, các lớp có học sinh trung bình, khá, giỏi. Các trường
ở khu vực trung tâm thành phố và ở các Huyện.
Trang: 1
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH RA ĐỀ
NGHỊ LUẬN VĂN HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
I. KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH RA ĐỀ Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC CƠ SỞ.
Đề nghị luận văn học được tập trung ở những kiểu bài cơ bản và kiểu bài
hỗn hợp.
Đề số 1: “Thơ văn Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV chứa chan tình
cảm yêu nước và tự hào dân tộc”
Bằng các tác phẩm: Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo), Nước Đại Việt ta
(Nguyễn Trãi), Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt) em hãy chứng minh ý kiến
trên.
Đề số 2: Có ý kiến cho rằng: “Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi là bài ca
yêu nước chứa chan niềm tự hào dân tộc”. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Đề số 3: Đọc đoạn trích “Trong lòng mẹ” (Những ngày thơ ấu – Nguyên
Hồng) ta thấy bé Hồng có một tình cảm yêu thương mẹ thật là thắm thiết.
Em hãy chứng minh nhận xét trên.
Đề số 4: “Văn học Việt Nam từ cách mạng Tháng Tám đã sáng tạo được
những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về con người Việt Nam”. Phân tích một số
tác phẩm đã học, đã đọc mà em yêu thích làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề số 5: Phân tích nhân vật Vũ Nương (Vũ Thị Thiết) trong “Chuyện
người con gái Nam Xương” (Truyền kỳ mạn lục) của Nguyễn Dữ.
Đề số 6: Phân tích vẻ đẹp hào hùng của nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn
thơ:
“ Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào lại dám lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mày
Truyền quân bốn phía bổ vây bịt bùng
Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đường chạy ngay
Phong Lai chẳng kịp trở tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
(Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu)
Đề số 7: Phân tích nhân vật Ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim
Lân để cảm nhận được tình yêu tha thiết làng quê hoà quyện với tình yêu nước
Trang: 2
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
và tinh thần kháng chiến chống Pháp.

Đề số 8: Phân tích hình ảnh chị Dậu qua đoạn trích đã học, đã đọc trong
tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố.
Đề số 9: Phân tích nhân vật Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam
Cao.
Đề số 10: Phân tích nhân vật Phan Bội Châu trong cuộc gặp gỡ Phan Bội
Châu và Varen trong tác phẩm “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu”
của Nguyễn Ái Quốc
Đề số 11: Phân tích nhân vật con hổ trong vườn thú trong bài thơ “Nhớ
rừng” của Thế Lữ.
Đề số 12: Phân tích nhân vật Chị Dậu trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”
(Ngữ văn 8 tập I ).
Đề số 13: Phân tích tâm trạng nhân vật Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu
Ngưng Bích trong các câu sau:
“ Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông mặt nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt dềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du )
Đề số 14: Hình ảnh người chiến sĩ cộng sản trong văn học cách mạng Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945. Những suy nghĩ của em về lẽ sống và tâm hồn của
người chiến sĩ đó.
Đề số 15: Phân tích đoạn truyện “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”
(Ngữ Văn 9, tập 1) để thấy rõ Lục Vân Tiên đã hành động rất đúng với lý tưởng
của mình.
“ Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Đề số 16: Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn là “Bài
văn sôi sục nhiệt huyết, tràn đầy khí thế quyết chiến thắng. Đó là tác phẩm tiêu
biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất của thời đại chống Nguyên Mông”.
Phân tích Hịch tướng sĩ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đề số 17: Phân tích bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.
Đề số 18: Phân tích 4 khổ thơ trong bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy
Cận.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Trang: 3
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng…”
Đề số 19: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy được tình
đồng chí của những người chiến sĩ trong buổi đầu chống Pháp.
Đề số 20: Khổ thơ nào trong bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương làm
cho người đọc xúc động.
Chọn một khổ thơ trong bài thơ trên và phân tích khổ thơ đó nhằm tán

thành ý kiến đã nêu.
Đề số 21: Trong phần thứ nhất của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” Thanh
Hải viết:
“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Đoạn thơ đẹp như một bức tranh. Em hãy phân tích đoạn thơ để làm sáng tỏ
nhận xét đó.
Đề số 22: Mở đầu đoạn trích “Nước Đại Việt ta” trong tác phẩm “Bình
Ngô Đại Cáo”, Nguyễn Trãi viết:
“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Suy nghĩ của em về câu đó và hãy chứng minh rằng tư tưởng tình cảm này
đã được thể hiện trong suốt “Bình Ngô đại cáo” và các tác phẩm khác của
Nguyễn Trãi mà em đã học, đã đọc.
Đề số 23: Từ đoạn trích “Nước Đại Việt ta” em hãy bình luận về quan
điểm “Lấy dân làm gốc” của Nguyễn Trãi.
Đề số 24: Phân tích nhân vật anh thanh niên.
Đề số 25: Phân tích đặc điểm nghệ thuật và lòng nhân đạo qua tác phẩm
“Kiều ở lầu Ngưng Bích" của Nguyễn Du.
Phân loại theo đề
Số
T
T
Loại đề Số đề
Tổng số
khảo sát

Trang: 4
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
1 Loại đề yêu cầu học sinh sao chép tái hiện kiến thức 11 25
2
Đề nghị luận văn học phát huy khả năng sáng tạo của
học sinh
10 25
3 Loại đề quá sức học sinh 2 25
4
Đề chưa chuẩn xác về nội dung khoa học và phương
pháp diễn đạt
2 25
Phân loại theo kiểu bài nghị luận và hỗn hợp
Số TT Loại đề Số đề Tổng số khảo sát
1 Giải thích 0 25
2 Chứng minh 6 25
3 Phân tích nhân vật 10 25
4 Bình luận 2 25
5 Phân tích tác phẩm 7 25
II. NHẬN ĐỊNH ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH RA ĐỀ Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ:
1. Tình hình ra đề làm văn ở trường trung học cơ sở:
Theo phân phối chương trình Ngữ Văn của trường trung học cơ sở, học
sinh lớp 7 được học các kiểu bài nghị luận :
- Văn chứng minh
- Văn giải thích
Học sinh lớp được học các kiểu bài nghị luận
- Tìm hiểu các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả trong văn nghị luận
- Viết đoạn văn trình bày luận điểm trong văn nghị luận.
Học sinh lớp 9 được học các kiểu bài nghị luận :

- Nghị luận về sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội
- Nghị luận về tư tưởng đạo lí
- Nghị luận về tác phẩm truyện, đoạn trích.
- Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.
Trong thực tế, kiểu bài giải thích có nội dung xã hội phổ biến hơn là đề
giải thích vấn đề văn học. Trong 25 đề khảo sát, không bắt gặp một đề giải thích
hỗn hợp có nội dung văn học.
Ở các trường nhiều giáo viên sử dụng đề theo cuốn sách “60 đề văn dùng
cho học sinh trung học cơ sở” của nhóm tác giả: Mai Đắc Lượng, Đoàn Minh
Ngọc, Phạm Thị Dừa, Tạ Đức Hiền, Nguyễn Xuân Mộc. Cuốn thứ 2 : “Hướng
dẫn ôn tập thi tốt nghiệp lớp 9” do Sở Giáo dục và đào tạo ban hành ( Đây là tài
liệu lưu hành nội bộ)
Khảo sát ở 3 trường chúng tôi thấy đề sử dụng trong 2 cuốn trên chiếm
60%.
Ngoài ra còn có một số cuốn khác:
"27 đề tuyển chọn tập làm văn lớp 9" của nhóm tác giả Trần Văn Sáu,
Đặng Văn Khương, “Những bài làm văn chọn lọc lớp 9” của nhóm tác giả:
Trang: 5
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Nguyễn Hữu Kiều – Vũ Nho - Vũ Băng Tú.
- Số đề do giáo viên tự soạn chiếm 30% trong tổng số đề ra cho học sinh
luyện tập.
- Đề kiểm tra chất lượng, kiểm tra học kỳ là đề thống nhất của Phòng giáo
dục và Sở giáo dục đào tạo.
- Đa số các đề đã ra (trong số đề đã khảo sát) là dành cho học sinh đại trà.
Loại đề này kết cấu theo kiểu mệnh đề mệnh lệnh: “Em hãy…” và chỉ ra kiểu
bài: “…phân tích” hoặc “chứng minh…”. Kiểu kết cấu đề như vậy có ưu điểm:
Chỉ rõ thể loại, kiểu bài. Nó phù hợp với đông đảo học sinh có trình độ trung
bình khá trở xuống. Hạn chế của kiểu kết cấu trên là một số đề sa vào yêu cầu
sao chép, tái hiện kiến thức.

- Kiểu bài phân tích nhân vật và phân tích tác phẩm chiếm đa số trong tổng
số đề đã khảo sát.
- Kiểu bài bình luận có nội dung nghị luận văn học chiếm số ít trong tổng
số đề bình luận đã khảo sát.
Đề làm văn nghị luận văn học với kiểu bài phân tích nhân vật, phân tích
tác phẩm và bình luận có nhiều khả năng gợi mở hứng thú sáng tạo của học sinh
hơn đề làm văn kiểu bài chứng minh và giải thích.
Đối với loại đề nặng về sao chép, tái hiện kiến thức, các em học sinh
thường thụ động khi làm bài. Lối làm bài phổ biến khi gặp đề yêu cầu tái hiện
kiến thức là học sinh chép các tài liệu có liên quan đến nội dung được đề cập và
ít chú ý đến yêu cầu cụ thể của đề.
Hai cô giáo dạy hai lớp cùng khối 9 cho hai đề sau:
Đề 1: Phân tích bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Đề 2: Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận là một khúc tráng ca về thiên
nhiên và con người lao động. Em hãy phân tích bài thơ để làm rõ nhận định trên.
Khi xem bài làm của học sinh, giáo viên thấy bất ngờ vì nhiều em ở hai lớp
làm bài có nội dung không khác nhau nhiều. Đề số 2 yêu cầu phân tích tác phẩm
để làm rõ nhận định nhưng học sinh dường như không nhận thấy. Phần bài làm
của các em ở cả hai lớp chỉ tập trung phân tích bài thơ còn yêu cầu cụ thể của
từng đề các em không xem xét kỹ.
Vấn đề chỉ hiểu chủ đề của đề cũng xảy ra ở hai đề khác nhau khi cho học
sinh so sánh:
Đề 1: Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết:
“Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước chứa chan niềm
tự hào dân tộc”. Bằng hiểu biết về các tác phẩm và cuộc đời Nguyễn Trãi, hãy
làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đề 2: “Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước chứa chan
niềm tự hào dân tộc.
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Có 17/25 em được hỏi ý kiến đều cho rằng hai đề không có sự khác nhau.

Một trong những nguyên nhân của việc học sinh “Nói như sách, viết như
sách” là do các đề làm văn ra không tính tới đối tượng học sinh. Các đề văn đó
được sao chép từ các loại sách, các bộ đề ôn. Nhiều đề văn quá sức đối với học
Trang: 6
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
sinh đại trà. Loại đề văn khô khan chỉ biểu hiện yêu cầu kiểu bài và nội dung
nghị luận (như: phân tích bài thơ…) có nhiều ở quyển đề ôn, đề luyện tập và
kèm theo đó là các bài văn mẫu. Một số học sinh chỉ cần thấy tên tác phẩm, tác
giả hoặc chủ đề đề văn đề cập đến thì cho rằng các đề này giống nhau. Do đó các
em chép bài văn mẫu của đề này để giải quyết một đề khác… Có không ít bài
chép kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Phổ biến là hiện tượng nhầm tác giả,
nhầm thời đại. Có học sinh viết về lòng nhân đạo của Nguyễn Du:
“ Lòng yêu thương con người nhất là người phụ nữ ở Nguyễn Du không
phải chỉ là lời than: “Đau đớn thay phận đàn bà…” Ông còn viết “Chuyện người
con gái Nam Xương” để tố cáo chế độ phong kiến đã bắt chồng Vũ Nương đi bộ
đội, gây ra sự nghi ngờ khủng khiếp”.
Hoặc có học sinh nhầm lẫn : Nguyễn Duy viết “Sang thu” để cho thấy cảm
nhận tinh tế của nhà thơ trước sự giao mùa của trời đất, của lòng người.
Môn làm văn ở trường trung học cơ sở có một trách nhiệm nặng nề: Chuẩn
bị cho học sinh thi vào Phổ thông trung học gây áp lực lớn tâm lý của học sinh
và phụ huynh của các em. Do đó, giáo viên cần cho học sinh những đề văn để
kiểm tra kiến thức văn học, kỹ năng kiểu bài. Việc học sinh cần phải làm đúng
kiểu bài đã cho, trình bày đủ các kiến thức cơ bản trở nên cần thiết hơn việc các
em bày tỏ xúc cảm riêng, ý kiến riêng về một vấn đề, một khía cạnh văn học…
Ví dụ: Trong một cuốn Ôn tập Ngữ văn lớp 9 có hướng dẫn phần kiến thức
văn học của bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
- Thời điểm sáng tác bài thơ.
- Nhan đề bài có ý nghĩa biểu tượng.
- Mùa xuân là đối tượng cảm xúc của tác giả, là hình tượng trung tâm của
bài thơ-

Mạch cảm xúc và tư tưởng theo trình tự xúc cảm của bài thơ: Từ mùa xuân thiên
nhiên của đất trời đến mùa xuân đất nước, của cách mạng, sau cùng là mùa xuân
của mỗi con người hoà trong mùa xuân lớn lao của đất nước, của cách mạng.
- Cảnh sắc quê hương tươi đẹp, gợi cảm, giàu màu sắc Huế – Nghệ thuật
miêu tả đặc sắc, giọng thơ tha thiết lắng sâu.
- Lời tâm niệm chân thành, thành kính thiêng liêng, thái độ tự nguyện hiến
dâng sự nghiệp đời mình dù nhỏ nhoi như “mùa xuân nho nhỏ” vào mùa xuân
Cách mạng lớn lao.
Đây là một hướng dẫn đầy đủ cho một tác phẩm: "Mùa xuân nho nhỏ” của
Thanh Hải. Bộ đề có ba đề văn về tác phẩm này:
Đề 1: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
Đề 2: Trong phần thứ nhất của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải
viết
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Trang: 7
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Đoạn thơ đẹp như một bức tranh.
Phân tích đoạn thơ để làm sáng tỏ nhận xét đó
Đề 3:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc".
(Trích “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải)
Phân tích đoạn thơ trên.
Đề thi tốt nghiệp của một năm học đã lựa chọn đề số 2. Điều đáng buồn
khi đọc bài làm của học sinh là có 30% - 40% các em không phân biệt sự khác
nhau giữa đề 1 và đề 2. Bài văn mẫu làm cho đề số 1 được học sinh chép y
nguyên để làm bài văn có nội dung đề số 2.
Ra đề tốt để học sinh có hứng thú sáng tạo là thước đo năng lực văn
chương, năng lực sư phạm, trình độ nhiều mặt của người giáo viên văn học.
Nhiều thầy cô giáo đã ý thức được vai trò của mình, xác định được tầm quan
trọng của môn làm văn nên đã ra đề phù hợp với trình độ đối tượng trong từng
lớp.
Khảo sát đề văn ở một số lớp, tôi thấy nhiều đề văn cô giáo cho đã tạo
được niềm say mê trong học sinh.
Ví dụ: Từ một người phụ nữ nhún nhường, nín nhịn nhưng khi cần chị Dậu
cũng có những phản kháng chống trả quyết liệt. Em hãy làm rõ điều đó qua đoạn
trích “Tức nước vỡ bờ” (Sách Ngữ văn lớp 8 tập II)
Có học sinh viết:
“ Sức mạnh ấy phải chăng khởi nguồn từ trái tim ngập tràn tình yêu thương
chồng tha thiết của chị Dậu? Khi chị Dậu mệt mỏi chờ anh Dậu trở về, lòng thắc
thỏm lo lắng thì bỗng bọn cai lệ trả anh Dậu lại cho chị: “rũ ra như cái chết” chị
tìm mọi cách cứu chồng vì tính mạng anh giờ đây chỉ tính từng giây từng
khắc ”
Như vậy, ít nhiều các em đã bộc lộ sự đồng cảm với chị Dậu trong nỗi đau
và sự uất ức.
Trong mỗi lớp học, bên cạnh 60% - 70% học sinh trung bình, có khoảng 5
% - 15% học sinh có năng khiếu văn hoặc có hứng thú học văn. Việc ra đề văn
nghị luận văn học nhằm gợi khả năng sáng tạo sẽ tạo ra sự phát triển của các
mầm non văn học. Năng lực văn học được bồi dưỡng, vun đắp trong suốt quá

trình phổ thông là cơ sở để có nhân tài mai sau.
Ngoài các loại tái hiện sao chép, đề có khả năng gọi hứng thú còn tồn tại
một số đề ra chưa chuẩn xác về nội dung khoa học và phương pháp diễn đạt.
Xin đơn cử một số đề thuộc loại này:
Đề 1: Phân tích đặc điểm nghệ thuật và lòng nhân đạo qua tác phẩm “Kiều
Trang: 8
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
ở lầu Ngưng Bích" của Nguyễn Du.
Trong đề này yêu cầu về nội dung diễn đạt không phù hợp, từ ngữ diễn đạt
chưa chuẩn xác.
Đề 2: Phân tích nhân vật anh thanh niên.
Đề chưa nêu đủ xuất xứ nhân vật (tác phẩm – tác giả)
2. Đánh giá chung về tình hình ra đề làm văn hiện nay ở trung học cơ
sở.
- Đề kiểm tra, đề thi chuyển cấp còn sử dụng nhiều đề văn sao chép tái
hiện kiến thức.
- Đề sao chép tái hiện kiến thức chiếm đa số là do chế độ thi cử và mục
đích thi cử còn đè nặng trong học sinh và giáo viên.
- Rải rác vẫn còn đề sai sót về nội dung, về cách diễn đạt.
- Tình trạng sao chép đề tràn lan từ sách bộ đề phổ biến không chỉ ở một
vùng mà còn ở nhiều vùng. Các sách văn mẫu hay và đủ đầy bài nên khi gặp đề
văn tương tự là học sinh viết, chép từ sách ra. Khả năng tự suy nghĩ, tự bộc lộ bị
giảm đi. Đa số học sinh trung bình muốn có bài văn hoàn chỉnh như văn mẫu
nên việc phân tích đề cụ thể không được coi trọng dẫn tới sự sa sút về kỹ năng
suy luận, khả năng diễn đạt chính xác tư duy của học sinh.
- Nguyên nhân của tình trạng trên là do năng lực của giáo viên và cũng còn
do ra đề tuỳ tiện, thiếu cẩn thận.
Để có những đề văn gợi mở, phát huy sự sáng tạo của học sinh cần bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên về năng lực văn học, ngôn ngữ văn học, kiến thức về
lĩnh vực Tập làm văn và nhất là xác định được quan niệm dạy học.

CHƯƠNG II.
HƯỚNG RA ĐỀ LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC THEO HƯỚNG
PHÁT HUY SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO VIỆC RA ĐỀ VĂN THEO HƯỚNG PHÁT
HUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ.
A. Những khả năng của học sinh trung học cơ sở:
A-1. Học sinh trung học cơ sở đã có hứng thú với văn học và bước đầu đã
đánh giá văn học bằng tiêu chuẩn thẩm mĩ.
Nghị luận văn học được dạy trong trường trung học cơ sở ở lớp 8 và lớp 9.
Các nhà khoa học nhất trí khẳng định: Học sinh ở vào độ tuổi 13, 14, 15 đã có sự
biến chuyển đáng kể trong sự phát triển về năng lực văn học.
Quan hệ của học sinh với nghệ thuật đã được xác định. Các em đã trở
thành độc giả thực thụ. Ở lứa tuổi này, việc đánh giá tác phẩm đã chuyển từ đánh
giá về đạo đức sang đánh giá bằng tiêu chuẩn thẩm mĩ. Quan hệ của học sinh với
nghệ thuật dần dần mang tính thẩm mĩ, có ý thức. Học sinh lĩnh hội sách báo
không chỉ căn cứ vào nội dung thông tin mà còn lĩnh hội giá trị nghệ thuật.
Học sinh lứa tuổi 13, 14, 15 thường chú ý vào những gì mà mình yêu thích.
Các em bắt đầu xem tác phẩm là nguồn cung cấp niềm vui, nỗi buồn cho mình.
Các em cũng đánh giá tác phẩm tuỳ theo sự trải nghiệm của bản thân.
Trang: 9
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Yêu cầu tự biểu hiện ở một số học sinh khá mạnh mẽ dẫn đến việc phân
tích tác phẩm được thay thế bằng phân tích có so sánh hoặc suy luận về những
chủ đề mình thích thú.
Cảm nhận về hai câu thơ “Cỏ non xanh tận chân trời- Cành lê trắng điểm
một vài bông hoa” trích "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du, một học sinh lớp 9
viết:
Hai câu thơ trên trích trong bài "Cảnh mùa xuân" ("Truyện Kiều" -
Nguyễn Du) là hai câu thơ đặc sắc tả cảnh thiên nhiên mùa xuân trong tiết thanh
minh. Nguyễn Du không miêu tả nhiều mà ông chỉ chọn tả một số hình ảnh đặc

sắc, tiêu biểu, đó là hình ảnh "cỏ non xanh" tận chân trời, "cành lê trắng" điểm
vài bông hoa. Cỏ xanh non, tươi tốt mơn mởn, mỡ màng được trải dài đến tận
chân trời dường như còn được nối với xanh của bầu trời mùa xuân. Thảm cỏ non
làm nền để làm nổi bật vẻ đẹp của mấy cành lê đang ra hoa, hoa nở điểm xuyết
trên cành. Bằng nghệ thuật đảo ngữ "trắng điểm", tác giả đã tạo nên một điểm
nhấn cho bức tranh, tô đậm sắc trắng tinh khiết của hoa lê nổi bật trên nền xanh
non của cỏ. Hai câu thơ của Nguyễn Du thực ra có mượn tứ của hai câu thơ cổ
của Trung Quốc:
" Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa"
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Cành lê có điểm một vài bông hoa)
Hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ gợi mà không tả, còn hai câu thơ của Nguyễn Du
tả rõ màu sắc khiến câu thơ sinh động, có hồn với màu sắc tươi tắn đậm chất hội
hoạ. Từ câu thơ ngũ ngôn mang phong vị Đường thi, dưới ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Du thành câu thơ lục bát uyển chuyển mang đậm hồn thơ dân tộc. Chỉ
với hai câu thơ tả cảnh với bút pháp chấm phá, Nguyễn Du cho ta cảm nhận
được bức tranh xuân tươi tắn, tràn đầy sức sống phơi phới của mùa xuân.
Ở đây, em học sinh đã cảm và đánh giá hai câu thơ theo cách nhìn riêng
của em, phù hợp với tính cách của em trong cuộc sống hàng ngày.
Trong lúc trao đổi về truyện Kiều, có học sinh thẳng thắn nói: “Kiều vì cha
mà bán mình – Nàng thật có hiếu! Nhưng nàng Kiều cứ khóc lên khóc xuống thì
đáng ghét quá. Nếu mất chàng Kim Trọng thì yêu người khác. Khóc làm gì?”.
Quả thực đó là thái độ của học sinh chưa trải qua tình yêu và là cách nghĩ của
thanh niên ngày nay.
Như vậy, học sinh lớp 8, 9 đã có hứng thú với văn chương và cảm thụ văn
chương bằng cái nhìn của bản thân. Nếu làm cho các em bộc lộ mình, bày tỏ
ham thích riêng và đánh giá bằng kinh nghiệm cá nhân đã có sự chắt lọc tổng
hợp thì học sinh sẽ phát triển vốn văn học.
Nhưng không phải học sinh nào cũng có hứng thú với văn chương và có

thái độ chủ quan trong thưởng thức. Ở một số em hứng thú cá nhân được bộc lộ
rõ rệt. Ở một số khác thì hết sức mờ nhạt. Ngay cả trong điều kiện sư phạm
giống hệt nhau thì sự phân hoá cũng khá rạch ròi. Nếu học sinh chỉ sao chép, tái
hiện hiểu biết về tác giả, tác phẩm thì giờ làm văn sẽ trở nên tẻ nhạt, chán ngán
đối với học sinh yêu thích văn chương, biết cảm thụ văn chương bằng con mắt
Trang: 10
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
chủ quan. Nhưng nếu đề văn chỉ chú ý đến đối tượng học sinh có năng lực văn
thì số học sinh trình độ trung bình sẽ thấy quá sức. Do đó các đối tượng khác
nhau về trình độ cùng học một lớp nên việc ra đề cần làm sao cho học sinh nào
cũng có hứng thú sáng tạo. Mức độ sáng tạo có thể khác nhau tuỳ vào năng lực
cá nhân. Đánh giá về mức độ cảm thụ chủ quan của độc giả, giáo sư Phan Trọng
Luận đã viết: “Đây là một hiện tượng rất nhiều, mỗi người một bản lĩnh, một
nhân cách, một chủ thể có ý thức, một tính cách riêng biệt thì nhu cầu thị hiếu
thẩm mĩ văn học nghệ thuật càng mang màu sắc cá nhân một cách sâu sắc đậm
nét”.
A-2. Học sinh lứa tuổi trung học cơ sở đã hình thành trí tưởng tượng sáng
tạo– một phẩm chất cần thiết để cảm thụ văn chương.
Khác với học sinh lớp 6, lớp 7 trí tưởng tượng của các em giờ đây không
bay bổng như trước song nó phát triển theo chiều hướng nội. Các em tưởng
tượng có đối chiếu với kiến thức văn học, ngôn ngữ, kiến thức khoa học xã hội
khác và cả kinh nghiệm đời sống của bản thân. Bởi vậy, học sinh sẽ vấp những
vấn đề mà tất cả kiến thức có trong qúa trình học tập không đủ sức lý giải. Thái
độ của thầy giáo và thái độ của xã hội về vấn đề đó sẽ hỗ trợ cho các em. Năng
lực tưởng tượng càng mạnh mẽ thì hiệu suất cảm thụ càng cao. Shemuchesky
nói: “ Chính trong cái thiên tài là cái mà người ta gọi là tưởng tượng sáng tạo”.
Tóm lại: Nếu xét về khả năng thì học sinh trung học cơ sở lứa tuổi 13, 14,
15 đã có tiền đề để cảm thụ văn và trình bày sự hiểu biết đầy cảm hứng đối với
tác phẩm văn, hình tượng nghệ thuật và nội dung tác phẩm. Trong quá trình nhận
thức, chiếm lĩnh, đánh giá tác phẩm, các em đã thể hiện tính sáng tạo khá rõ rệt.

Trong các em có cả năng lực tái tạo lẫn sáng tạo độc lập rõ rệt, năng lực tìm tòi,
suy nghĩ, vận dụng. Sự khác biệt trong lứa tuổi này chỉ là mức độ.
Vì vậy, những đề nghị luận văn học hay sẽ khơi dậy và phát huy tiềm năng
của mình và bồi dưỡng các em theo định hướng của mục tiêu giáo dục.
B. Trình độ học sinh trung học cơ sở:
B-1. Học sinh trung học cơ sở bước đầu đã có một vốn liếng hiểu biết khá hệ
thống về văn học sử.
Chương trình văn học trung học cơ sở cung cấp cho các em một số hiểu
biết nhất định về tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam và
nhân loại. Nhiều học sinh nhớ được các tác giả, tác phẩm ở các giai đoạn khác
nhau mà em được học. Một số học sinh khá trong các lớp còn nắm được nội
dung quan trọng của các xu hướng văn học. Cá biệt, còn có em giải thích được
sự xuất hiện các xu hướng văn học.
Khi phỏng vấn học sinh lớp 8, 9 nơi tôi đang công tác, nhiều học sinh đã
nói được nhiều điều hiểu biết về tác giả tác phẩm, phong cách tác giả, phong
cách nghệ thuật trong văn học trung đại, phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí
Minh
Tuy mức độ khác nhau nhưng những sự hiểu biết của các em có được là
những tiền đề để các em thâm nhập tác phẩm và nâng cao cần vốn hiểu biết văn
học.
Về văn học sử, cũng còn một bộ phận học sinh không nắm chắc các giai
Trang: 11
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
đoạn, các thời kỳ văn học, còn những lầm lẫn về xu hướng, tác giả khá ngây ngô.
Một số học sinh không thấy được tác động của hoàn cảnh đối với tác phẩm văn
học. Chính việc xác định hoàn cảnh ra đời của tác phẩm là điều cần thiết để tìm
hiểu nội dung nghệ thuật tác phẩm. Học sinh còn gặp khó khăn trong việc khái
quát phong cách nghệ thuật của tác giả được học trong chương trình.
B-2. Học sinh lứa tuổi trung học cơ sở đã có ít nhiều kết hợp kiến thức văn
học cụ thể với kiến thức khái quát.

Đa số học sinh trình bày chính xác nguyên văn câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn
đã học trong chương trình. Một số học sinh còn có tư liệu ngoài chương trình và
biết đưa vào đúng lúc đúng chỗ.
Đối với tác phẩm tự sự, học sinh nắm được cốt truyện, tuyến nhân vật và
các chi tiết quan trọng. Việc nắm vững kiến thức đã giúp các em chủ động trong
việc phân tích, bình, cảm nhận tác phẩm. Một bộ phận học sinh đã biết khai thác
nội dung tư tưởng tác phẩm, cảm xúc trữ tình, chủ đề sáng phẩm trong sự gắn bó
giữa các hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Trong bài: Ấn tượng của em về “Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của
Nam Cao” một em học sinh trường tôi đã viết:
“Lão Hạc thương con hơn cuộc sống của mình. Tình thương của lão ẩn
chứa nỗi ân hận của một người cha chưa tròn trách nhiệm với con, lo cho con
việc lớn “dựng vợ gả chồng”, nỗi lo của người mẹ: Bao bọc, ky cóp giữ gìn
mảnh vườn cho con khỏi đói. Lão hành động như thể chuộc lỗi, lão hy sinh từ
miếng ăn như người mẹ giữ gìn cho con. Con Vàng là người bạn thân thiết, tâm
tình của lão. Nó là hiện thân tình yêu của lão dành cho con trai. Nhưng để cho
con trai có một cuộc đời không nhục nhã, lão tự từ bỏ những gì liên quan đến
lão: lão bòn rau củ ở vườn; lão ăn những thứ không phải đồ ăn cho con người
(bốn mươi năm sau, người ta không thể tin đó là đồ ăn của con người). Điều đó
có thể hiểu được theo chân lý loài người đã nhất trí: Ăn để mà sống. Nhưng mà
Lão Hạc từ bỏ con Vàng, chấp nhận cuộc sống cô đơn để có được một tương lai
đẹp hơn cho con trai. Sự hy sinh âm thầm của lão cao cả làm sao. Vẻ đẹp tâm
hồn bừng lên xua đi vẻ thê lương của hình hài. Cái chết của Lão Hạc là sự bừng
cháy tất yếu của tình yêu vô bờ bến với sự khắc nghiệt cuộc đời đói nghèo ”
Cũng đề bài trên, có học sinh lại nghiêng về phân tích sự bất hạnh cuộc đời
Lão Hạc, từ đó nghĩ về thân phận những người nông dân trước Cách mạng
Tháng Tám.
Cảm thụ tác phẩm văn học mang đậm màu sắc chủ quan ở người đọc sáng
tạo. Bài làm của các em có hay được hay không, phải là sự suy ngẫm trước hiện
thực cuộc sống và giá trị đạo đức thẩm mĩ của học sinh. Tất cả điều đó chỉ có

được khi các em có vốn kiến thức văn học dồi dào, vững chắc. Chất văn của bài
làm được biểu hiện nhuần nhuyễn khi học sinh nắm vững đặc trưng văn học là
phản ánh bằng hình tượng.
Học sinh đại trà, bên cạnh ưu điểm trên còn bộc lộ một số hạn chế về kiến
thức tác phẩm văn học. Học sinh thuộc nhanh những bài thơ trữ tình, đặc biệt
thơ văn văn học lãng mạn. Học sinh hay quên những dấu hiệu thể hiện dụng ý
nghệ thuật của tác giả: Câu hỏi tu từ, câu thơ vắt dòng, ngắt giữa dòng thơ, khổ
Trang: 12
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
thơ. Đối với văn học trung đại nói chung và thơ văn chữ Hán nói riêng, học sinh
ít thuộc phần chữ Hán, chỉ thuộc thơ dịch. Khi phân tích cảm thụ học sinh còn
lúng túng trong việc khai thác cảm xúc nhân vật trữ tình được thể hiện qua tác
phẩm. Cảm xúc của tác giả rất tinh tế, sâu sắc khó nắm bắt. Nó thể hiện qua
ngôn ngữ, nhạc điệu thơ. Lời thơ trữ tình là sự kết tụ của chất thơ, kết tụ của mối
quan hệ thơ với đời sống được tích luỹ lâu đời. Sự hiểu biết loại thể, ngôn từ,
nhịp điệu, phép tu từ chưa đủ để giúp học sinh cảm thụ hết điền tác giả gửi
gắm trong tác phẩm. Vốn sống, vốn hiểu biết nhiều mặt góp phần giúp học sinh
lĩnh hội, thưởng thức tác phẩm.
B-3. Ở trường trung học cơ sở học sinh bước đầu được hình thành một số
khái niệm về lý luận văn học.
Có thể nói ngay, đây là điểm yếu của học sinh trung học cơ sở. Trong
chương trình, học sinh không được cung cấp lý luận văn học. Một số giáo viên
có năng lực khi dạy đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích tác phẩm “Tắt đèn” của
Ngô Tất Tố đã tìm cách cung cấp cho học sinh kiến thức về hoàn cảnh điển hình,
nhân vật điển hình
B-4. Vốn kiến thức ngôn ngữ của học sinh lớp 8, lớp 9 khá phong phú và kỹ
năng viết được hình thành.
Nghị luận văn học là mảng học sinh thể hiện được điểm mạnh về việc sử
dụng vốn từ. Đa số các em biết diễn đạt bằng ngôn ngữ phổ thông theo phong
cách khoa học. Có được điều đó là nhờ quá trình trau dồi, rèn luyện. Học sinh

thể hiện ngôn từ gợi tả, chính xác và sinh động.
Một em học sinh đã viết trong bài phân tích bài thơ "Bếp lửa" của bằng
Việt: "Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một bếp
lửa chờn vờn trong sương sớm, mà có biết bao nghĩa tình, mà sao tha thiết,
lắng sâu đến thế! Thì ra, có khi những điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa
tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, là hiện hình của những tình cảm
thiết tha, chân thành, không thể nào quên. Tiếng gà trưa đánh thức trong
Xuân Quỳnh những kỉ niệm về một thời ấu thơ sống trong tình thương yêu
của bà. Còn với Bằng Việt, trong bài thơ Bếp lửa (1963), như chính nhan đề
của nó (cũng như nhan đề của bài thơ của Xuân Quỳnh: Tiếng gà trưa), "Bếp
lửa" đã trở thành một hình ảnh biểu trưng cho sự ấm áp, nồng đượm của tình
bà cháu. "Bếp lửa" khơi gợi, làm nhen lên, lan toả, cháy mãi dòng hồi ức tuổi
ấu thơ, thao thức, đượm buồn.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Bài thơ đã bắt đầu như thế. Bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa "chập chờn trong
sương sớm, chập chờn trong kí ức. Hơi ấm của bếp lửa bắt đầu truyền thấm, bắt
đầu nhen nhóm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc thương yêu của cháu khi nhớ về
bà. Hình ảnh "Một bếp lửa" điệp lại hai lần như nhắc nhớ, như hơi thổi vào bếp
lửa đang "ấp iu", để nhịp hồi tưởng bắt đầu
Tuy nhiên học sinh có những hạn chế nhất định về sử dụng ngôn từ. Phổ biến
Trang: 13
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
là lỗi do sử dụng từ sai, chưa phù hợp hoặc chưa hay. Do không hiểu hết, hiểu
đúng nghĩa của từ, nhất là từ Hán Việt, từ trừu tượng, những khái niệm và thuật
ngữ chuyên ngành nên học sinh đưa vào bài viết nhiều từ ngữ thiếu chính xác
làm cho nội dung sai lệch ý cần diễn đạt. Hiện tượng bí từ khá phổ biến với học
sinh.
Có thể dẫn ra đây vài ví dụ:

- Nguyễn Trãi sau khi bình định xong đất nước, ông mới có thời gian nhìn
lại những gì đã qua.
- Mỗi trận đánh trên sông Bạch Đằng được điều khiển bởi khối óc tài ba
của mỗi thời đại.
- Trong cuộc đánh nhau của nhân dân ta với giặc Minh
- Thấy bọn cai lệ và người nhà lý trưởng vẫn hùng hục xông vào chồng
chị, chị đã đỡ tay chúng rồi hét lên thật mạnh mẽ: Mày trói chồng bà để bà cho
mày xem.
Nhiều bài làm của học sinh sai về diễn đạt, điễn đạt lủng củng tối nghĩa.
Có em không sử dụng đúng dấu câu. Việc rèn luyện cách sử dụng dấu câu thành
thạo là cơ sở để viết đoạn văn hay, sinh động.
Về năng lực cảm thụ văn học và trình bày tri thức, học sinh còn có những
hạn chế nhất định.
Học sinh lớp 7, lớp 8 chưa được rèn luyện nhiều về kiến thức đoạn văn mà
chỉ được hướng dẫn trong quá trình chấm trả bài. Lỗi trình bày ở lớp 8 còn
nhiều. Học sinh cuối cấp THCS vẫn còn viết sai lỗi chính tả. Đặc biệt học sinh
Hải Dương chưa phân biệt rõ L- N:
“ Một cây làm chẳng lên non
Hai cây chụm lại lên hòn núi cao”
Sai sót do thiếu tri thức:
- Những câu văn xáo rỗng
- Câu thơ hàm xúc cô đọng.
B-5. Cuối cấp học, học sinh đã nắm vững về kiểu bài. Học sinh lớp 8, lớp 9
nhận biết khá rõ về kiểu bài và ít nhầm lẫn trong việc nhận diện kiểu bài.
+ Với kiểu bài chứng minh thông thường được viết dưới dạng:
chứng minh ý kiến trên
làm sáng tỏ nhận định trên
lấy dẫn chứng minh hoạ.
+ Với kiểu bài giải thích thì:
giải thích câu nói trên

có ý nghĩa như thế nào?
hiểu câu trên như thế nào?
+ Với kiểu bài: phân tích nhân vật
Hãy phân tích nhân vật
( đặc điểm nhân vật)+ hãy chứng minh nhận xét trên.
+ Với kiểu bài bình luận
Bình luận vấn đề
Trình bày ý kiến của em.
Trang: 14
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Vấn đề trên đúng sai như thế nào, có ý kiến gì?
+ Với kiểu bài phân tích một tác phẩm thì thường được viết dưới dạng:
Phân tích một tác phẩm.
Có kiểu bài phân tích tác phẩm kèm theo phát biểu cảm nghĩ hoặc định
hướng làm sáng tỏ một khía cạnh của tác phẩm hay một nhận định nào đó.
Ví dụ: Hãy phân tích tác phẩm “Lặng lẽ Sapa” của Nguyễn Thành Long để
làm rõ ý kiến sau:
“ Lặng lẽ Sapa” ca ngợi những con người lao động.
Đối với những kiểu bài cụ thể trên, học sinh dễ dàng xác định được yêu
cầu của đề.
Học sinh đại trà thường gặp khó khăn ở đề hỗn hợp, các em không xác
định được kiểu bài chủ yếu; không xây dựng được dàn ý cho từng phần. Nhiều
học sinh khả năng suy luận kém, không xác định được kiểu bài khi gặp phải
dạng đề sau:
- Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh.
Đối với học sinh lớp 9, kiểu bài bình luận trở nên khó đối với các em.
Giáo viên đã dạy từng bước.
- Rèn phần bình
- Rèn viết phần luận.
Nhiều học sinh lớp 8, lớp 9 khi làm văn đã biết đưa các đánh giá, các nhận

định của các nhà phê bình hoặc các câu thơ đoạn trích để phần mở phong phú
hấp dẫn, đoạn kết có sức nặng.
Học sinh bộc lộ thiếu sót khi xác định kiểu bài ở dạng đề hỗn hợp. Kỹ
năng phân tích đề hỗn hợp yếu nên còn có tình trạng bài làm xa đề, thiếu luận
điểm. Học sinh có trình độ trung bình đưa dẫn chứng mà không phân tích, đánh
giá hoặc trình bày luận điểm không rõ ràng, chồng chéo lên nhau.
Tóm lại: Qua việc tìm hiểu tình hình chất lượng làm bài của học sinh trung
học cơ sở chúng tôi thấy các em có vốn tri thức nhất định về văn học sử, tác
phẩm văn học, ngôn ngữ tiếng Việt và kiến thức làm văn. Với một nền kiến thức
chung như vậy, học sinh có điều kiện rèn luyện để phát triển năng lực văn học và
trưởng thành về trí tuệ, hoàn thiện về nhân cách. Bên cạnh đó những khuyết
điểm của học sinh đặt ra cho nhà trường trung học cơ sở vấn đề cần thiết: Cần có
sự điều chỉnh trong cách đánh giá năng lực văn của học sinh. Cách đánh giá
đúng sẽ đưa đến cách học đúng. Cải tiến cách ra đề theo hướng nhằm phát huy
sáng tạo của học sinh là một khâu quan trọng trong cải tiến giảng dạy.
C- Khả năng sáng tạo của học sinh trung học cơ sở.
Nếu việc đánh giá là kiểm tra sự tiếp thu thông tin của trò thì bài làm của
học sinh cần đến kỹ năng tái hiện thông tin là chủ yếu, khâu vận dụng kiến thức
ít được chú trọng và đề cao. Hậu quả của lối học này là đào tạo ra lớp người chỉ
biết nhắc lại điều người khác nói, lặp lại cái thế hệ trước đã làm. Ngày nay, trong
thời đại thông tin bùng nổ, kỹ năng biết chọn lựa tri thức, biết vận dụng sáng tạo
các thành tựu khoa học đã có là yêu cầu chung cho các nước, đặc biệt là các
nước chậm phát triển trong đó có Việt Nam. Nhà trường phải giáo dục thế hệ trẻ
trở thành người công dân năng động tích cực, có sáng tạo, trung thực yêu nước
Trang: 15
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
và trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa. Văn học nói chung, kỹ năng làm
văn nói riêng có thể tạo cho học sinh những khả năng đó.
Khả năng sáng tạo trong văn không giống hoàn toàn khả năng phát minh
khoa học. Đây là khả năng vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề

đã được đặt ra. Bài làm văn không phải là sự chồng chất kiến thức đúng chỗ mà
là năng lực tư duy. Trong quá trình tư duy, các phẩm chất trí tuệ được rèn luyện,
cá nhân tự bộc lộ mình, để lại dấu ấn đạo đức trên các trang viết, trong cách xử
lý vấn đề. Đó mới là điều quan trọng đối với học sinh.
Học sinh trong quá trình sáng tạo, tạo ra cái mới không phải chủ yếu đối
với xã hội mà đối với chủ quan của mình. Những cái mới ấy đồng thời có ý
nghĩa xã hội vì khi đó cá nhân được hình thành và biểu lộ.
Cốt lõi của tư duy sáng tạo là gì? Chúng ta vẫn biết một câu nói của người
xưa và được Bác Hồ rất tâm đắc. “Lấy cái bất biến ứng với vạn biến”. Sự khác
nhau của người học là cái “vạn biến”. Làm cho mỗi người đều thức dậy trong
mình những tiềm năng đang ngủ yên là đánh thức các thiên tài. Vũ trụ vô cùng
và tư duy cũng vô cùng. Khơi dậy sự sáng tạo trong người học là làm cho lượng
tri thức tiếp thu trong trường học trở thành hữu ích và phát triển trong suốt cuộc
đời.
Trong trường học, sự sáng tạo của tư duy được biểu hiện ở khía cạnh:
1- Sự vận chuyển tri thức và kỹ năng vào các tình huống mới. Tính chất sáng tạo
tăng lên khi sự vận động càng độc lập không lập lại trường hợp tương tự.
2- Khả năng nhận thấy vấn đề mới trong điều kiện quen biết hoặc vấn đề quen
thuộc trong hoàn cảnh mới. Năng lực này đòi hỏi người học phải nắm được bản
chất tri thức. Biết nhìn nhận sự thay đổi tinh tế trong điều kiện mới.
3- Con người có thể nhìn thấy nhiều mặt của một vấn đề. Đây là năng lực của
tầm “nhìn xa trông rộng”.
4- Nhận biết cấu trúc của đối tượng bao gồm cấu trúc tổng thể và chi tiết.
5- Khả năng kết hợp nhiều lời giải, nhiều cách đánh giá để tạo ra một phương
thức mới.
Nếu học sinh được rèn luyện biết lựa chọn, vận dụng tri thức, học sinh sẽ
trở nên mềm dẻo và linh hoạt trong cuộc sống. Sự sáng tạo trong làm văn ở đối
tượng học sinh đại trà chính là vận dụng kiến thức đã được lĩnh hội để phát triển
lên hoặc xử lý tình huống có vấn đề theo cách cảm nhận và đánh giá của riêng
mình.

II. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC RA ĐỀ LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
NHẰM PHÁT HUY TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
CƠ SỞ.
1. Đề văn phải chính xác về nội dung và diễn đạt.
Nói về vấn đề này, Giáo sư Phan Trọng Luận viết: “Một đề văn ra cho học
sinh làm bài mà tự nó đã chứa đựng những sai sót về kiến thức thì không thể
chấp nhận được. Một đề văn mà tự nó đã không mẫu mực về cách dùng từ, về
cách diễn đạt thì không thể nào đưa đến cho học sinh một tâm thế làm hứng
thú”.
Đề văn chính xác về nội dung phải phù hợp với chương trình sách giáo khoa,
Trang: 16
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
sách giáo viên, về kiểu bài qui định cho từng lớp trong cấp học. Đã có không ít
lần, người ra đề kiểm tra chất lượng, kiểm tra cuối kỳ do không nắm chắc tiến
độ thực hiện chương trình nên đã ra những kiểu bài học sinh chưa học tới, khiến
học sinh không thể làm được. Kiểu bài chuẩn xác góp phần giúp học sinh xác
định đúng yêu cầu của đề phù hợp. Trong tình hình hiện nay, việc xoá bỏ trường
chuyên lớp chọn đặt ra vấn đề: Đề văn dùng cho các em học sinh có những khả
năng văn học khác nhau trong cùng một lớp phải giải quyết. Vậy cần có những
đề có yêu cầu thao tác nghị luận cụ thể dưới dạng quen thuộc.
có ý nghĩa như thế nào ? (Giải thích)
có ý kiến như thế nào? (Bình luận)
chỉ ra vẻ đẹp (Phân tích) v v
Đề văn diễn đạt chính xác đòi hỏi dùng từ chính xác, dùng câu văn đúng,
có màu sắc thẩm mỹ, gợi cảm hứng.
Đề văn diễn đạt sai sẽ khiến học sinh lúng túng khi xác định nội dung cần
nghị luận.
Ví dụ: “Phân tích đặc điểm nghệ thuật và lòng nhân đạo qua tác phẩm
“Kiều ở lầu Ngưng Bích" của Nguyễn Du.
Với đề văn này học sinh sẽ gặp lúng túng khi xác định yêu cầu của đề bởi

cách diễn đạt tối nghĩa đã gây khó khăn cho học sinh, học sinh dễ chán nản, mất
hứng thú làm bài.
Hoặc ở đề: “Phân tích nhân vật anh thanh niên”. Học sinh đều phải hiểu
ngầm là anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long. Đề văn như vậy thiếu đi những xuất xứ cần thiết, có thể gây sự hiểu lầm
tai hại.
2. Đề văn phải hạn chế sao chép, lặp lại máy móc kiến thức đã học.
Trong quá trình lĩnh hội tri thức học sinh phải có khả năng ghi nhớ. Những đề
văn được coi là phát huy khả năng sáng tạo không thể là đề chỉ yêu cầu học sinh
sao chép lại những gì học sinh tiếp thu một cách máy móc và khô cứng. Đề phải
chứa tình huống có vấn đề.
Dạy văn không chỉ là dạy chữ và dạy kỹ thuật xếp ngôn từ. Buphông từng
nói “Văn là người” (7-160) cho nên chúng ta dạy học sinh không nên biến các
em thành kho tích luỹ kiến thức mà phải làm sao để các em có môt trí tuệ tốt. Đề
văn giúp các em tái tạo và sáng tạo là đề văn khuyến khích phát triển trí tuệ học
sinh.
3. Đề văn phải vừa sức học sinh.
Niềm hứng thú làm bài của học sinh, sẽ bị mất đi nếu đề văn dồn học sinh vào
ngõ cụt, học sinh dễ bi quan thất vọng. Đề không vừa sức rơi vào cả hai trạng
thái: Quá khó hoặc quá dễ đối với học sinh.
Sau đây là đề không vừa sức với học sinh đại trà:
+ “ Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du”
Học sinh không dễ gì xác định được kiểu bài, phạm vi vấn đề. Thiên nhiên
trong thơ Nguyễn Du nếu chỉ ở các đoạn trích trong chương trình đã cũng khá
nhiều vấn đề. Nếu không giới hạn phạm vi thì vấn đề rất rộng. Cần chỉ rõ kiểu
bài và giới hạn vấn đề cho học sinh. Đây là đề khó đối với học sinh đại trà.
Trang: 17
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Ngược lại cũng có đề dễ, không tạo hứng thú cho học sinh:
+ Chị Dậu là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam “yêu chồng thương

con”. Chứng minh điều đó qua đoạn trích đã học.
Với đề này học sinh thường liệt kê các hành động của chị như: Thương yêu
lo lắng cho chồng con; chăm sóc chồng lúc đau ốm; chạy vạy lo tiền sưu Các
bài làm của đề này thường có ý văn nghèo nàn, lời văn ít tình cảm.
Đề văn vừa sức với học sinh tức là trong một lớp các em học sinh có trình
độ, khả năng khác nhau đều phải cố gắng. Đề văn phù hợp với mọi đối tượng là
tạo được sự hứng thú sáng tạo. Học trò sáng tạo được đến đâu là do trình độ,
năng lực riêng của từng đối tượng, do mặt bằng tri thức của trò cao hay thấp.
Nhưng tất cả đều có hứng thú sáng tạo, tạo ra được cái riêng của mình, đó là vấn
đề văn vừa sức với học trò.
Đề văn sau đây được nhiều học sinh thích:
“Ông giáo đã chuyển cái nhìn lão Hạc từ bằng mắt sang nhìn bằng cả tâm
hồn. Bằng những hiểu biết về tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao, em hãy lý giải
quá trình đó.”
Số học sinh trung bình đều phân tích được vẻ đẹp tâm hồn của Lão Hạc.
Vẻ đẹp đó bừng sáng ở cuối tác phẩm xua đi hình ảnh lão Hạc đói rách khốn
khổ. Các em học sinh khá giỏi đã chỉ ra một quá trình biến chuyển.
Một em học sinh đã viết:
“ Cả ba đôi mắt cùng nhìn lão Hạc: Cái nhìn của ông Giáo, vợ ông Giáo và
Binh Tư. Cái nhìn của vợ chồng ông Giáo là cái nhìn của người có một chút ít
tiền và nhiều lòng tự trọng. Thật khó chịu khi mình đã nghèo, đã đói, bên cạnh
mình còn có kẻ đói hơn. Lão Hạc còn đói hơn vợ chồng ông giáo mà lão lại có
tiền. Thế mới đáng ghét. Lão có tiền lại không chịu chi dùng nhưng lại muốn
người ta hiểu, thông cảm, thương cho lão. Thế là bần tiện. Lão Hạc còn biết yêu.
Lão yêu con chó Vàng. Con chó thì không cao quý bằng sách. Vậy mà lão Hạc
cứ bày tỏ nỗi đau với ông giáo. Ông giáo còn đau khổ bằng mấy lão Hạc ấy chứ.
Ông đã phải bán đi mấy cuốn sách – kỷ vật của thời trai trẻ đầy ước mơ.
Vợ chồng ông giáo không ưa lão Hạc là phải!
Nhưng khi biết con chó là của con trai lão, là ý định của ngày cưới vợ của
nó, ông giáo đã đau cùng nỗi đau của lão. Đó là sự cảm thông của người cùng

cảnh. Lão Hạc chăm sóc con chó bằng tình yêu của “bà hiếm hoi” đối với “đứa
con cầu tự”, của người cô đơn đối với bạn tâm tình. Vậy mà lão phải bán “cậu
Vàng”. “Lão Hạc cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước”. Tình yêu chân
thành của lão Hạc đã khiến ông giáo thấy “không xót cho năm quyển sách của
tôi như trước nữa”. Chỉ khi đứng cạnh nỗi đau lớn hơn thì con người mới thấy
nỗi đau của mình là nhỏ bé. Động cơ bán con chó của lão Hạc và nỗi đau khổ vì
lừa một con chó trung thành đã khiến ông giáo mủi lòng. Lão Hạc lo chuẩn bị
cái chết để không xâm phạm vào tài sản dành cho con. đấy cũng là một cách vun
vén, cách vun vén của người cùng đường.
Trong mắt Binh Tư, lão Hạc đáng ghét ở tính lương thiện. Nghèo mà
không hèn thì Binh Tư ghét qúa. Cái chết của lão Hạc nặng nề thê thảm. Nhưng
Trang: 18
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
cái lão Hạc để lại thật trọn vẹn, đẹp đẽ. Lão thà chết chứ không để mảnh vườn bị
suy suyển. Cả ông giáo và Binh Tư đều hiểu vì sao lão chết. Nỗi buồn trong
cuộc đời theo ông giáo là ở chỗ đã mất đi một con người đáng kính chứ không
phải một tâm hồn bị đánh mất.
“Tâm hồn lão Hạc soi sáng tâm hồn con người”
Bài văn đã có cái nhìn rất riêng của các em về con người, đề văn đã tạo
được hứng thú suy nghĩ cho mọi đối tượng học sinh.
4- Đề văn phải gợi mở, sáng tạo giúp cho học sinh bộc lộ bản thân.
Học sinh đại trà có cần được “gợi mở sáng tạo” không? Nhiều giáo viên
tham gia tranh luận vấn đề này. Theo một số người: “Học sinh chỉ cần nhắc lại
kiến thức cơ bản là tốt rồi”. Một số khác lại cho rằng: Không tạo ra được cái gì
mới, độc đáo thì không thể coi là đã sáng tạo. Theo khuynh hướng thứ nhất, giáo
viên muốn ra loại đề tái hiện kiến thức, kiểm tra, cân đong đo đếm những điều
mang đến cho trò còn đọng lại được bao nhiêu. Theo khuynh hướng thứ hai, giáo
viên phủ nhận học sinh cho rằng học sinh ngày nay ngày càng kém văn.
Nói về vấn đề sáng tạo trong văn nghị luận, giáo sư Nguyễn Thanh Hùng
viết: “Sáng tạo trong văn nghị luận được biểu hiện trên nhiều mặt – sáng tạo

trong cách đặt vấn đề, trong phương thức lập luận và trình bày dẫn chứng.
Nguồn gốc của sự sáng tạo ấy là ở phạm vi tự do của tư tưởng, ở đặc điểm tưởng
tượng của từng con người, ở cá tính không ai trộn lẫn ai và ở tính năng động của
chủ thể trong tình huống giao tiếp. Sáng tạo không có nghĩa là phải làm mới tất
cả, tính chất sáng tạo được kể từ làm theo mẫu một cách có cải biến”
Những gì học sinh viết theo quan điểm của cá nhân các em, trên cơ sở nền
tảng đạo đức xã hội cần được trân trọng. Quan điểm về sự sáng tạo mềm dẻo
như vậy sẽ giúp chúng ta đánh giá học sinh trong từng tiến bộ nhỏ.
Như vậy, vẫn tri thức đó, chỉ cần các em nói lên bằng tiếng nói của riêng
mình thì nó đã có âm sắc khác. Nhiều em sợ nói khác thầy khác cô, nếu để các
em phát biểu ý kiến chủ quan, nhiều em có suy nghĩ khiến chúng ta giật mình.
Chẳng hạn ở đề bài phân tích tâm trạng Thuý Kiều (Đoạn trích “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) có học sinh đã khen Thuý Kiều là
người con hiếu thảo đã hi sinh bản thân vì cha và em song lại trách Thuý Kiều là
người trọng tình hơn hiếu khi đã nhớ Kim Trọng trước cha mẹ của mình. Thậm
chí có em còn phủ nhận sự hiếu thảo của Thuý Kiều.
Một đề văn gợi được sức suy nghĩ cho học sinh thì sẽ gợi được sự sáng tạo.
Để cho các em tự bộc lộ mình thì sẽ gợi được sự sáng tạo. Để cho các em tự bộc
lộ mình là giúp các em rèn biểu hiện tư duy bằng cách nói hoặc viết. Ngôn ngữ
của học sinh sẽ chân thật hơn, giàu sức sống hơn.
Đối với học sinh đại trà đề gợi mở sáng tạo nhưng vẫn phải có phần gợi
luận đề. Sự sáng tạo ở đây là khả năng khai thác nhiều tầng bậc; khả năng đưa ra
nhiều luận đề. Như vậy, trên cùng một đề văn, nhiều đối tượng học sinh khác
trình độ cũng thấy hứng thú.
Có hai đề sau:
a, Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
b, Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”
Trang: 19
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

Với đề a – học sinh tự lựa chọn kiểu bài và phạm vi không hạn chế. Loại
đề này thích hợp với học sinh giỏi.
Với đề b – Học sinh trung bình, khá giỏi đều làm được. Học sinh khá sẽ
chỉ ra được vẻ đẹp của thiên nhiên – vẻ đẹp tinh khôi, trong trẻo, tràn đầy sức
sống của thiên nhiên…đồng thời cũng nêu được cảm xúc của tác giả qua cái
nhìn cảnh thiên nhiên…
Học sinh trung bình chỉ ra được vẻ đẹp chung của thiên nhiên. Còn vẻ đặc
sắc của từng cảnh thiên nhiên các em nói chưa được sâu sắc.
Tóm lại: Những đề văn gợi cho học sinh hứng thú sáng tạo phải là những
đề đảm bảo tính chính xác về nội dung, về diễn đạt, đảm bảo tính khoa học, tính
gợi mở, tạo sức vươn tới cho học sinh. Các em được huy động vốn tri thức đã có
của mình, tự vận động để ngày một hiểu biết hơn. Đó là những phát triển đáng
quý. Kiến thức Ngữ văn được tiếp thu trong trường phổ thông không phải đơn lẻ
rời rạc mà là một hệ thống khá hoàn chỉnh – nếu chúng ta biết khơi dậy ở các em
cách nghĩ, cách tiếp thu và cách biểu hiện tức là chúng ta đã làm cho các em lớn
lên về trí tuệ nhân cách và phẩm chất tư duy.
CHƯƠNG III
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC NHẰM PHÁT HUY
SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ.
I. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC DÙNG CHO
HỌC SINH LỚP 8, LỚP 9 VÀ ÔN LUYỆN CUỐI LỚP 9.
Đề số 1: Văn thơ cổ, vượt qua nhiều thế kỷ đến với thời đại chúng ta bằng
ánh sáng của niềm tự hào dân tộc và tình yêu quê hương tha thiết.
Dựa vào hiểu biết của em về Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và Nước
Đại Việt ta của Nguyễn Trãi hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề số 2: Khi gặp Phan Lang ở thuỷ cung, Vũ Nương (Truyền kỳ mạn lục –
Nguyễn Dữ) có hứa: “Lập đàn giải oan, tôi sẽ hiện về”. Kết thúc câu chuyện,
nàng lại từ chối trở về nhân gian, sum họp với chồng con mà nàng luôn thương
nhớ.
Em hãy lí giải vì sao Vũ Nương lại không giữ lời hứa?

Trang: 20
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Đề số 3: Có ý kiến cho rằng : “Trong bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy
muốn kể một câu chuyện nhỏ của mình”.
Em có tán thành ý kiến trên không? Hãy bày tỏ quan điểm của em.
Đề số 4: Có người nhận xét: “Ông giáo (Lão Hạc – Nam Cao) đã chuyển
cái nhìn Lão Hạc từ bằng mắt sang nhìn bằng cả tâm hồn”
Em hãy làm sáng tỏ chuyển biến đó ở ông giáo Thứ.
Đề số 5: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng của Kim Lân để
thấy được tình yêu tha thiết làng quê hoà quyện với tình yêu nước và tinh thần
kháng chiến chống Pháp của người nông dân Việt Nam.
Đề số 6: Người thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long
đã để lại cho em những ấn tượng tốt đẹp gì về người thanh niên mới trên mặt
trận xây dựng đất nước.
Đề số 7: Chân dung người lính trong “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của
Phạm Tiến Duật hiện lên như một thông điệp về lòng quả cảm. Là bạn đọc, em
tiếp nhận được gì từ thông điệp trên?
Đề số 8: Xúc cảm về tình thương yêu bao la của Bác, Tố Hữu viết:
“ Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta
Thương cuộc đời chung thương hoa cỏ…”
Dựa vào một số bài thơ của Bác (đã học, đã đọc) trong chương trình trung
học cơ sở, hãy làm sáng tỏ ý thơ trên của Tố Hữu.
Đề số 9: Bài thơ “Tĩnh dạ tứ” (Cảm nghĩ trong đêm yên tĩnh) của Lý Bạch
làm xao xuyến người đọc hàng trăm năm qua. Em cảm nhận được điều gì thấm
thía nhất ở bài thơ đó.
Đề số 10: “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một khúc tráng ca về
thiên nhiên và con người lao động. Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến
trên.
Đề số 11: Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ luôn phải chịu một số
phận bất hạnh, đầy oan trái.

Qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, em hãy làm
sáng tỏ nhận định trên.
Đề số 12: Có ý kiến cho rằng: “Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi là bài ca
yêu nước chứa chan niềm tự hào dân tộc”. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đề số 13: Đọc đoạn trích “Trong lòng mẹ” (Những ngày thơ ấu – Nguyên
Hồng) ta thấy bé Hồng có một tình cảm yêu thương mẹ thật là thắm thiết.
Em hãy chứng minh nhận xét trên.
Đề số 14: Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn là “Bài
văn sôi sục nhiệt huyết, tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng. Đó là tác phẩm
tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất của thời đại chống Nguyên
Mông”.
Phân tích Hịch tướng sĩ để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đề số 15: Phân tích vẻ đẹp hào hùng của nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn
thơ:
“ Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Trang: 21
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Kêu rằng bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào lại dám lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mày
Truyền quân bốn phía bổ vây bịt bùng
Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đường chạy ngay
Phong Lai chẳng kịp trở tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”

(Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu)
II. THUYẾT MINH BỘ ĐỀ THỂ NGHIỆM
1. Những đề văn trên đã bám sát trọng tâm chương trình.
Những vấn đề trên phù hợp với kiến thức văn học về làm văn. Các đề đó tập
trung vào các tác phẩm, tác giả có giá trị lớn: Nguyễn Du, Hồ Chí Minh… Một
số tác giả tiêu biểu, đại diện cho các khuynh hướng văn học: Nam Cao, Nguyễn
Dữ… Những đề văn đó đã đề cập đến giá trị nhân đạo, lòng yêu nước của văn
học Việt Nam và văn học thế giới.
Các đề văn đã dựa theo kiểu đề quy định trong chương trình. Lớp 8 có kiểu
bài: Chứng minh, phân tích đặc điểm nhân vật. Lớp 9 có kiểu bài: Bình luận và
phân tích tác phẩm, phân tích đặc điểm nhân vật. Đối với lớp 9, tuy chỉ học nghị
luận xã hội, nghị luận tác phẩm nhưng phần văn học ở trung học cơ sở khá
phong phú. Do đó các em có điều kiện thực hành các kiểu bài trên một số tác
phẩm tiêu biểu và một số giai đoạn văn học.
2. Đề cố gắng bám sát chuẩn kiến thức.
Kiểu bài giải thích được học ở lớp 7, nhưng với đề yêu cầu giải thích một
vấn đề văn học là quá khó với các em. Vì vậy, trong bộ đề không có đề giải thích
văn học. Đề văn đã ra nằm trong khuôn khổ chương trình văn học 7, 8, 9. Do đó,
học sinh được ôn luyện, phục vụ nhiệm vụ thi chuyển cấp đồng thời vận dụng
kiến thức của cấp học, tránh hiện tượng “Chữ thầy trả thầy”.
3. Đề văn bám sát chủ điểm giáo dục.
Nội dung kiến thức trong các đề trên phù hợp với chủ điểm giáo dục. Từ
những tình huống cụ thể, học sinh trình bày tư tưởng, tình cảm, nhận thức, đánh
giá thuộc về các chủ điểm: Lòng yêu quê hương đất nước, tình yêu đồng loại,
lòng yêu thương con người, phẩm chất người lao động mới.
Đề đề cập tới phẩm chất người cộng sản, đức hi sinh, lòng vị tha…có đề
văn đề cập đến tội ác chế độ thực dân, nỗi bất hạnh người hướng thiện trong chế
độ cũ, để từ đó giáo dục các em học sinh biết yêu quý chế độ mới.
4. Đề làm văn chú ý tính vừa sức với học sinh trung học cơ sở.
Các đề văn đề xuất đã chú ý tới dạng đề hỗn hợp để học sinh ở nhiều trình

độ cùng làm. Trong những đề nhiều tầng các đối tượng có năng lực văn học khác
Trang: 22
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
nhau đều làm bài nhưng việc khai thác đề không đồng nhất về yêu cầu. Điều đó
khuyến khích học sinh khá giỏi vươn lên vừa không gây bi quan cho học sinh
trung bình.
5. Đề văn đã nhằn khơi gợi hứng thú sáng tạo cho học sinh.
Các đề văn trên đều dựa vào vốn kiến thức văn học (văn học sử, tác phẩm,
ngôn ngữ, kiến thức văn bản…) mà học sinh được học khá bài bản trong chương
trình. Nội dung kiến thức tác phẩm, tác giả khá toàn diện nhưng không đòi hỏi
các em nhắc lại mà là vận dụng một cách tổng hợp để giải quyết một vấn đề cụ
thể.
Ví dụ đề số 2: Từ chi tiết Vũ Nương không trở về nhân gian, học sinh cần
lý giải bi kịch cuộc đời nàng. Từ đó có cái nhìn nhân ái hơn với cuộc đời.
6. Đề đã buộc học sinh vận dụng kiến thức đã cũ vào tình huống mới
Đề văn đề cập đến các tác phẩm học sinh đã được học. Nhưng nội dung
kiến thức và kiểu bài đề yêu cầu đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức chứ không
sao chép. Đề số 4 học sinh vận dụng những hiểu biết về Lão Hạc (kiến thức văn
học) soi qua cái nhìn của ông giáo. Tình cảm của ông giáo tăng dần lên khi lão
Hạc ngày càng ráo riết vun vén cho ý định của mình. Hành động của lão Hạc
được lý giải bằng động cơ: giữ mảnh vườn cho con trai…Những hiểu biết của
các em về lão Hạc trong giờ văn nay được hệ thống, đối chiếu, suy luận theo góc
nhìn khác mang lại nhận thức toàn diện, mới mẻ hơn.
7. Đề văn đã mang màu sắc thẩm mĩ nhằm gợi cảm hứng làm bài cho học
sinh.
Cảm nhận đánh giá cái đẹp là điều lứa tuổi trung học cơ sở đã hướng tới.
Các đề văn đề cập tới vẻ đẹp con người: Lòng nhân ái, tình yêu quê hương hay
đức hy sinh cao cả hoặc vẻ đẹp đa dạng của thiên nhiên…
8. Đề văn chú ý tới lời đề dẫn sinh động ít công thức khô cứng.
Lời đề dẫn của đề văn là hình thức tạo tâm thế cho học sinh, gợi hứng thú

với đề. Đề số 1, đề số 7, đề số 10, đề số 14…đã chú ý tới điều đó.
Kết quả khảo sát: Chúng tôi đã tiến hành cho học sinh đại trà khối lớp 8(8C,
8B), 9 (9C, 9D) của trường tham gia viết các bài tập làm văn cho các đề số 1, đề
số 7, đề số 10, đề số 14.
Kết quả khảo sát cho thấy: Khi giáo viên ra được những đề văn hay đã kích
thích được tư duy của học sinh, khuyến khích các em trong việc bộc lộ khả năng
cảm thụ văn chương và khả năng viết văn của các em.
- Với những đề văn số 1, đề số 7, đề số 10, đề số 14 vấn đề nghị luận đã
được các em trình bày rõ ràng và thuyết phục hơn rất nhiều (Điểm trên trung
bình là 90% trong đó điểm khá giỏi chiếm tới 60%)
III. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN:
Bộ đề được đề xuất cho phần nghị luận văn học nói trên đã căn cứ vào quan
điểm tôn trọng tính năng động của từng chủ thể học sinh. Mục đích cao nhất của
chúng tôi là rèn luyện năng lực tư duy, năng lực diễn đạt và nhất là hình thành
nhân cách học sinh.
Trang: 23
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
Trong một năm học sinh được viết hoàn chỉnh 8 đề. Qúa trình xây dựng lý
thuyết và kỹ năng cho mỗi kiểu bài kéo dài trong nhiều tuần (mỗi tuần 1 tiết). Để
hình thành thao tác tư duy phải có một quá trình chứ không phải chỉ dựa vào một
số tiết làm văn. Vì vậy, phải đánh giá học sinh qua từng bước tiến bộ của các em
chứ không thể áp đặt một mẫu chuẩn mực từ đầu cho học trò để đánh giá.
Việc rèn tư duy, kỹ năng cho học sinh còn phụ thuộc cả vào quá trình học
văn, học từ ngữ, ngữ pháp. Đối với học sinh trung học cơ sở, ngữ pháp văn bản
rất quan trọng với các em. Đó là những bậc thang nhỏ dẫn đưa các em phát triển
dần. Đây là bước chuyển từ tư duy sang trình bày bằng văn bản. Nếu quá trình
học Tiếng Việt bị đứt quãng ở một khâu nào đó cũng đủ gây ảnh hưởng đến môn
làm văn.
Điều nan giải cuối cùng là học sinh chịu nhiều tác động phức tạp trong quá
trình hoàn thiện kỹ năng. Không ít thầy cô vì lo cho chất lượng đã trở nên nóng

vội, muốn bài làm của các em phải tốt đẹp hoàn thiện ngay. Bởi vậy, để dấu đi
sự ngây ngô của mình, học sinh đã sử dụng các bài văn mẫu như một giải pháp
tình thế. Điểm số cao lên nhưng năng lực thật của các em lại mòn dần chưa kể là
phẩm giá con người.
Giáo viên cũng gặp khó khăn lớn: Trong cùng một lớp học nhưng tâm lý
và trình độ học tập của học sinh cũng khác nhau. Bên cạnh mục đích giáo dục
toàn diện, việc bồi dưỡng nhân tài cũng cần thiết nhưng khó được coi trọng.
KẾT LUẬN
1. Bài toán nan giải về cách ra đề đang đặt ra chưa dễ gì giải quyết được vì
lối dạy, vì điểm, vì thi cử đang ngự trị trong nhà trường. Điều này hạn chế cách
đào tạo và đánh giá khả năng sáng tạo của học sinh.
Trang: 24
Cách ra đề làm văn nghị luận văn học theo hướng phát huy sáng tạo cho học sinh Trung học cơ sở
2. Chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn chưa đổi mới đồng bộ. Đặc biệt
sách tham khảo tràn lan, đề thi lại sao chép từ bộ đề bán tràn ngập nên học sinh
lười tư duy.
3. Tuy nhiên, việc thay đổi cách ra đề, xét cho cùng là việc nằm trong tầm
tay của từng giáo viên. Giáo viên có thể tự mình thay đổi quan niệm dạy văn,
đặc biệt thay đổi cách nhìn nhận đánh giá học sinh.
- Giáo viên có thể từng bước hướng dẫn học sinh đi dần vào quỹ đạo học
văn có tính sáng tạo.
- Giáo viên chịu khó tìm tòi suy nghĩ, ra đề cho sát đối tượng mà mình
giảng dạy hàng ngày. Từ đó các em sẽ dần dần hoàn thiện nhân cách một cách
toàn diện.
4. Ra đề chỉ là một khâu nhỏ trong cả quá trình dạy làm văn và giáo dục
văn học. Đổi mới ra đề còn tùy thuộc vào việc đổi mới đồng bộ, toàn diện nhiều
lĩnh vực của dạy học, nếu không mọi ý tưởng đổi mới chỉ là ảo tưởng.
5- Trong quá trình nghiên cứu, do điều kiện thời gian quá ít, vấn đề đặt ra
phức tạp, khả năng kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, cho nên sáng kiến này còn
nhiều khiếm khuyết. Sự khái quát chỉ ở mức độ nhất định vì kiến thức còn nông

cạn, thực nghiệm còn sơ sài. Để ra một bộ đề văn có chất lượng không thể là
công việc của một cá nhân. Nên ở sáng kiến này, tôi chỉ xin đặt ra một câu hỏi
và đề nghị một hướng giải quyết vấn đề với mong mỏi được các bạn đồng
nghiệp cùng tham gia xây dựng để dần dần có thể đưa việc ra đề văn ra khỏi quĩ
đạo hiện nay vốn đã và đang hạ thấp hiệu quả giáo dục văn học trong nhà trường
trong nhiều thập kỉ nay rồi. Mong các đồng chí và các bạn đồng nghiệp giúp đỡ
đóng góp những ý kiến cần thiết để người viết tiếp tục suy nghĩ, có dịp trình bày
hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC TRANG
Phần mở đầu.
I. Lí do chọn đề tài.
II. Mục đích- ý nghĩa của đề tài.
III. Phương pháp nghiên cứu.
1
2
Trang: 25

×