Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Định hướng ra đề làm văn theo hướng mở ở cấp trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.33 KB, 20 trang )

1

Định hướng ra đề làm văn theo hướng mở ở
cấp trung học phổ thông
Orientation of giving literature exam questions with the open trend at High School”
NXB H. : ĐHGD, 2012 Số trang 92 tr. +


Ngô Văn Nghĩa


Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS ngành: Lý luận và phương pháp dạy học( bộ môn Ngữ văn); Mã số:601410
Cán bộ hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Trình bày cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài định hướng ra đề làm văn theo hướng
mở ở cấp trung học phổ thông. Đề xuất các hướng ra đề môn ngữ văn theo hướng mở: đề truyền
thống và những thành tựu và hạn chế của đề truyền thống; quan niệm về đề văn theo hướng mở;
các hướng ra đề theo hướng mở. Thiết kế thực nghiệm.

Keywords: Phương pháp giảng dạy; Ngữ văn; Trường trung học phổ thông

Content.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin và sự hội nhập. Con người
muốn tồn tại muốn hội nhập, muốn tự khẳng định mình thì nhất định phải là những thành viên năng động,
tích cực, sáng tạo, có óc quan sát nhạy bén tinh tế, trí tuệ linh hoạt, có thái độ lựa chọn thông tin và hiểu
thông tin một cách sáng tạo nhanh nhạy.


Để đáp ứng yêu cầu đó của con người và đòi hỏi xã hội, nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo là vô
cùng quan trọng. Trong đó, hiện đại hoá giáo dục đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra như một
nhiệm vụ quan trọng của công tác phát triển giáo dục. Việc đổi mới nội dung phương pháp dạy và học là
vấn đề then chốt trong chiến lược như một lẽ tồn tại: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy-học, bảo đảm điều kiện và
thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh nhất là sinh sinh viên đại học”. (Văn kiện Hội nghị lần thứ
Hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997, tr4). Trên tinh
thần đó trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX khi nói về giáo dục đào tạo đã nhấn mạnh: “Tiếp
2

tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học phát huy tinh thần
độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn ”.
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia 2001, tr108, 109).
Môn Ngữ văn trong nhà trường cũng không thể không có những thay đổi về nội dung và phương
pháp học tập để đáp ứng được những yêu cầu về sự đổi mới, một trong những biểu hiện của sự đổi mới ấy
là thực hiện giảm tải, đưa văn học gắn liền với thực tiễn đời sống và mang tính nhật dụng cao.
Trong sự đổi mới dạy và học bộ môn Ngữ văn việc đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới
ra đề kiểm tra, đánh giá là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định bởi kiểm tra như thế nào sẽ yêu cầu
dạy và học như thế ấy.
Môn Ngữ văn là môn học công cụ. Đây môn học sẽ trang bị cho học sinh những kiến thức công cụ
để học sinh học tập, sinh hoạt và có nhận thức đúng đắn về xã hội, con người từ đó bồi dưỡng tư tưởng
tình cảm và nhân cách cho chính bản thân người học. Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực giáo dục thẩm
mĩ từ đó bồi dưỡng năng lực tưởng tượng sáng tạo làm giàu xúc cảm thẩm mĩ, định hướng thị hiếu thẩm
mĩ lành mạnh nhằm hoàn thiện, phát triển nhân cách cho chính bản thân mình và từ đó lan toả ảnh hưởng
tới những người xung quanh và cộng đồng xã hội.
Với vị trí và mục tiêu quan trọng như vậy môn Ngữ văn luôn tìm tòi để đổi mới từ chương trình
sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với xu thế thời đại, của hội nhập mở cửa và xu
thế toàn cầu hoá hiện nay.
Thực trạng việc dạy và học môn Ngữ văn những năm gần trong nhà trường phổ thông còn bộc lộ

nhiều vấn đề cần trao đổi như: tình trạng học sinh không còn hứng thú với môn học, chán học, học mang
tính đối phó, học chỉ nhằm mục đích thi cử sau đó quên ngay. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng theo
chúng tôi có một nguyên nhân cơ bản là người thầy giáo dạy văn chưa thắp lửa được cho học sinh, chưa
thổi bùng lên ngọn lửa yêu văn chương trong mỗi học sinh, chương trình còn nặng nề thiếu tính thực tiễn,
chậm đổi mới phương pháp giảng dạy, dạy theo lối mòn nhắc đi nhắc lại những điều đã cũ. Ra đề kiểm
tra, đánh giá theo lối mòn cũ, lối học còn nặng tính hàn lâm, ít tính thực tiễn dẫn đến học sinh không còn
hứng thú với môn học này.
Trước thực trạng ấy, vấn đề đổi mới chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy và học
tập đã được đặt ra. Chúng ta đã thực hiện sự đổi mới ấy và ít nhiều đã đem lại hiệu quả tích cực cho môn
Ngữ văn. Từ đó môn học này ít nhiều đã lấy lại được vị trí của mình như nó vốn có và phải có.
Trong văn chương, kiến thức và kĩ năng không phải là mục đích cuối cùng mà chỉ là phương tiện
giúp chủ nhân của nó biết cảm nhận cuộc sống ở một mức độ cao hơn và lựa chọn cách sống tốt hơn. Nói
cách khác, văn chương là phương tiện để học sinh phát huy tiềm năng chứ không phải tái hiện những gì
được trang bị.
3

Trong quá trình nâng cao chất lượng dạy và học ở trường phổ thông, việc đổi mới chương trình và
sách giáo khoa cũng như cách dạy và ra đề thi là vấn đề then chốt cần được tiến hành đồng bộ giữa mục tiêu,
nội dung, phương pháp và kiểm tra đánh giá để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
Việc ra đề thi, đề kiểm tra luôn có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đánh giá xếp loại phân
loại học sinh. Ở các nước có nền giáo dục phát triển như Mĩ, Pháp, Trung Quốc họ luôn có ý thức ra đề ở
bộ môn Ngữ văn theo hướng mở. Đề mở là dạng đề mà học sinh có cơ hội bày tỏ quan điểm thái độ của
mình trước một vấn đề nào đó, từ đó người dạy có điều kiện đánh giá năng lực tư duy, khả năng thẩm mĩ
kĩ năng vận dụng kiến thức kĩ năng của học sinh, thái độ tâm tư tình cảm của học sinh một cách khách
quan chính xác.
Hiện nay, xu thế ra đề văn theo hướng mở đang được sự quan tâm của dư luận xã hội, của các nhà
trường, của người dạy và người học, các cấp quản lí giáo dục Vì những lẽ trên chúng tôi chọn đề
tài:“Định hướng ra đề làm văn theo hướng mở ở cấp trung học phổ thông”. Qua đó muốn góp một
tiếng nói bàn sâu hơn, rộng hơn về vấn đề ra đề văn theo hướng mở, ít nhiều góp tiếng nói vào việc đổi
mới phương pháp dạy và học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu
Nhìn lại việc ra đề kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn những gần đây và chương trình sách giáo khoa
thì việc ra đề văn theo hướng mở không phải là hoàn toàn mới mẻ. Điểm lại chương trình sách giáo khoa
Ngữ văn từ cấp THCS cho đến cấp THPT đặc biệt là từ năm 2006 đến nay thì chúng ta có thể nhận ra sự
đổi mới ấy.
Những câu hỏi mở này có câu hỏi mở về nội dung có câu hỏi mở về hình thức. Có cả câu hỏi mở
về nghị luận xã hội, cả câu hỏi mở về nghị luận văn học. Vậy, tính bao quát của dạng đề mở khá rộng và
ai đó vẫn băn khoăn rằng câu hỏi mở chỉ có thể hỏi ở dạng câu hỏi nghị luận xã hội là một cái nhìn phiến
diện thiếu đi cơ sở khoa học của nó.
Những năm gần đây, việc dạy và học môn Ngữ văn ở trường phổ thông cùng với việc ra đề kiểm
tra, đánh giá trong đó có việc ra đề thì sự xuất hiện đề mở không chỉ có tính chất cá lẻ ở một vài trường
vài tỉnh vài địa phương nữa mà nó đã được xuất hiện ở các kì thi mang tính Quốc gia như kì thi TNTHPT,
kì thi tuyển sinh vào các trường Đại học và Cao đẳng trong cả nước. Điều đó được thể hiện khá rõ nhất là
từ năm học 2008 trở lại đây.
Qua khảo sát chương trình sách giáo khoa và các đề thi của cả hai kì thi TNTHPT và ĐH, CĐ
những năm gần đây, chúng tôi cũng thấy rằng việc đổi mới đề thi theo hướng mở đã có những mạnh dạn
và tích cực. Tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở các dạng đề nghị luận xã hội còn nghị luận văn học thì chưa
nhiều. Ở nghị luận văn học vẫn phổ biến chỉ là những câu hỏi tái hiện và cảm thụ. Trước thực tế trên tôi
nhận thấy việc đổi mới ra đề thi môn Ngữ văn theo hướng mở là cần thiết, bởi nhiều lí do:
Thứ nhất, học sinh ở cấp THPT đều đã ở độ tuổi từ 15-18 đây là độ tuổi phát triển mạnh cả về
tâm- sinh lí. Đây là giai đoạn học sinh có nhu cầu có khám phá tìm tòi hiểu biết chính mình và xung
4

quanh và đặt biệt luôn có mong muốn được khẳng định mình, việc ra đề theo hướng mở nhất là những đề
hay sẽ giúp cho học sinh có cơ hội tự bộc lộ mình nói ra những điều các em suy nghĩ các em muốn. Hơn nữa,
văn học bồi dưỡng cho học sinh năng lực cảm thụ cái đẹp, thị hiếu thẩm mĩ. Vì vậy trước một tác phẩm văn học
cụ thể nhất là các tác phẩm văn học có giá trị thì học sinh qua tác phẩm ngoài việc nhận thức được thế giới xung
quanh, hiểu được giá trị giáo dục, giá trị thẩm mĩ thì học sinh còn mở ra nhiều hướng tiếp nhận và cách hiểu
khác nhau về đời sống.
Thứ hai, xu thế hội nhập đòi hỏi người chủ tương lai của đất nước phải có quan niệm thái độ rõ

ràng trước một vấn đề nào đó đồng thời phải có năng lực tư duy sáng tạo, độc lập. Chúng ta đều biết ngôn
ngữ là công cụ của tư duy, ra đề theo hướng mở học sinh sẽ có cơ hội bộc lộ tư duy khả năng hiểu biết
vốn sống và kỹ năng sống của mình. Tất cả những điều ấy phải được thể hiện thông qua ngôn ngữ.
Việc ra đề kiểm tra phục vụ cho kiểm tra định kì, kiểm tra cuối năm, thi hết cấp, thi tuyển sinh là
một khâu rất quan trọng nó là kết quả của cả một quá trình dạy và học đồng thời cũng thể hiện được năng
lực chuyên môn của người giáo viên và là kết quả của cả quá trình đổi mới. Nhưng như đã nói ở trên vấn
đề ra đề văn theo hướng mở ở nước ta hiện nay còn nhiều điều cần phải trao đổi.
Gần đây khi ý thức được vai trò và tác dụng của việc ra đề mở, cơ quan chủ quản là Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã có những văn bản chỉ thị định hướng về việc ra đề theo hướng mở. Cụ thể là chỉ thị năm
học đối với cấp học từ năm học 2006 đến nay.
“Triển khai dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tập
trung chỉ đạo đổi mới phương pháp giảng dạy các môn Ngữ Văn, Lịch sử, Địa lý, Đạo đức, Giáo dục
công dân, gắn kết chặt chẽ với việc mỗi trường nhận chăm sóc và phát huy giá trị một di tích văn hoá, lịch
sử, cách mạng. Tiến hành kiểm tra, đánh giá theo hướng khuyến khích tinh thần tự học và ý thức sáng tạo
của học sinh, giảm yêu cầu học thuộc lòng, nhớ nhiều sự kiện, không làm bài rập khuôn theo bài mẫu; tổ
chức dạy học các môn Mỹ thuật, Âm nhạc, Thủ công, Kỹ thuật, Thể dục, Giáo dục công dân, Công nghệ
và các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp với thực tế địa phương và điều kiện nhà trường; coi trọng việc
thực hành vận dụng, tổ chức hình thức dạy học linh hoạt theo hướng tích hợp; đánh giá sâu môn Thủ
công, Kỹ thuật (ở cấp tiểu học) và môn Giáo dục công dân (ở cấp trung học)”(Chỉ thị về nhiệm vụ trọng
tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp năm học
2008 – 2009).
Điều đó cũng được thể hiện rất rõ ở thông báo số 287/TB – BGDĐT ngày 05/05/2009 của Bộ
Giáo dục và đào tạo, thông báo số 300/TB - BGDĐT ngày 8/5/2009 về kết luận hội thảo đổi mới phương
pháp dạy học.
Đặc biệt gần đây một số tác giả đã cho xuất bản những tuyển tập đề văn nghị luận xã hội có hướng
ra mở như cuốn:
199 bài văn nghị luận xã hội ngắn của Lê Anh Xuân, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
5

Tuyển tập đề bài và bài văn nghị luận (2 tập) của Nguyễn Văn Tùng và Thân Phương Thu - NXB

Giáo dục Việt Nam.
Cuộc thi viết về đề văn theo hướng mở trên tạp chí Văn học và tuổi trẻ do văn học và tuổi trẻ phát
động đã thu hút đông đảo các nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy tham gia…
Trên thế giới việc xuất hiện các đề thi đề kiểm tra theo hướng mở không còn xa lạ nữa. Ví dụ như
đề thi của các nước có nền giáo dục phát triển như Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc.
Với những căn cứ trên, chúng tôi thấy việc ra đề văn theo hướng mở là cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm và chỉ ra được những thành tựu, mặt tích cực, những tồn tại và hạn chế của cách ra đề văn
truyền thống.
- Những ưu điểm của việc ra đề văn theo hướng mở, từ đó đề xuất phương án tối ưu trong việc ra đề mở
môn Ngữ văn đối với cấp THPT hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu tại các trường THPT của Hà Nội
- Chỉ xem xét các vấn đề về việc ra đề kiểm tra đánh giá môn Ngữ Văn trên cơ sở SGK và phương
pháp giảng dạy hiện nay ở cấp THPT.
5. Giả thuyết khoa học
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, bằng việc đề xuất các phương án ra đề làm văn theo
hướng mở sẽ góp phần vào việc đổi mới dạy và học văn hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Đề xuất phương án ra đề làm văn theo hướng mở.
Góp phần đổi mới việc dạy và học văn hiện nay.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê phân loại.
- Phương pháp so sánh phân tích tổng hợp lí giải.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3
chương:
Chương1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Đề xuất các hướng ra đề môn Ngữ văn theo hướng mở

Chương 3: Thiết kế thực nghiệm



6

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1.Thế nào là một đề làm văn
Trước khi đi vào vấn đề thế nào là một đề văn, chúng ta cần phải xác định rõ dạy học là cả một
quá trình gồm có nhiều khâu nhiều công đoạn trong đó có khâu kiểm tra, đánh giá.
Theo từ điển Tiếng Việt, kiểm tra được hiểu là: “xem xét thực chất thực tế” ví dụ như: kiểm tra
chất lượng; kiểm tra sức khoẻ; kiểm tra sổ sách. [16, tr. 843]
Một số nhà nghiên cứu cho rằng:
“Kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động của giáo viên sử dụng để thu tập thông tin về
biểu hiện kiến thức kĩ năng và thái độ học tập của học sinh trong học tập nhằm cung cấp dữ liệu làm cơ sở
cho việc đánh giá”. [19, tr.2]
“Kiểm tra được hiểu theo nghĩa rộng như là theo dõi quá trình học tập và cũng có thể được hiểu
theo nghĩa hẹp là công cụ kiểm tra hoặc một bài kiểm tra trong các kì thi.” [19, tr. 2]
“Việc kiểm tra cung cấp dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá”. [19, tr. 2]
Như vậy việc kiểm tra, đánh giá sẽ cung cấp những dữ liệu, thông số những thông tin cần thiết
làm cơ sở để thấy được kết quả hoạt động học của học sinh.
Trong giáo dục, từ xưa đến nay, người ta vẫn dùng thi cử và điểm của bài thi theo một thang đánh
giá nào đó để đánh giá kết quả học tập của người học (đỗ hay trượt, giỏi hay yếu, đạt hay không đạt).
Cách đánh giá như vậy thực ra mới dừng ở mức đo đạc và xếp loại kết quả học tập. Vì thi và đánh giá là
hai cấp độ khác nhau. Thi là một hình thức cụ thể của đánh giá dùng để phân loại hoặc tuyển chọn người
học theo những yêu cầu khác nhau nói chung. Thi chỉ kiểm tra được một phạm vi kiến thức nhất định của
người học vì thi thường diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định và còn tuỳ thuộc vào mục đích của
từng kỳ thi. Đánh giá là xem xét lại quá trình dạy và học quá trình nhận thức của học sinh. Tuy nhiên, có

không ít người đã đồng nhất đánh giá với cho điểm, xếp loại. Nghĩa là đánh giá kết quả học tập được bao
nhiêu điểm, xếp loại gì, thứ bậc nào qua kết quả làm bài.
Có nhiều khái niệm về đánh giá, được nêu trong nhiều tài liệu khác nhau. Theo Từ điển
TiếngViệt: “đánh giá được hiểu là là nhận định giá trị”.
“Đánh giá là quá trình thu thập và xử lí kịp thời có hệ thống thông tin về hiện trạng khả năng hay
nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu giáo dục làm cho những chủ
trương biện pháp và hành động giáo dục tiếp theo nhằm phát huy kết quả khắc phục thiếu sót”. [19, tr. 3]
“Đánh giá kết quả học tập của học sinh là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả
năng đạt được mục tiêu học tập mà học sinh cùng với tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo
cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường để học sinh ngày một học tập tiến bộ
hơn”. [19, tr. 3]
7

“Đánh giá có nghĩa là thu thập một tập hợp thông tin đủ, thích hợp có giá trị và đáng tin cậy và
xem xét mức độ phù hợp thông tin này và một tập hợp tiêu chí phù hợp với các mục tiêu định ra ban đầu
hay điều chỉnh trong quá trình thu thập thông tin nhằm ra một quyết định”. [19, tr. 3]
“Đánh giá được hiểu là quá trình hình thành những nhận định phán đoán về kết quả công việc dựa
vào sự phân tích những thông tin thu được đối chiếu với mục tiêu tiêu chuẩm đã đề nhằm đề xuất những
quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo
dục”. [19, tr. 3]
Như vậy có thể có những cách định nghĩa khác nhau về kiểm tra, đánh giá nhưng bản chất của nó
có những điểm chung và như vậy đến đây chúng ta có thể rút ra một kết luận: đánh giá gồm 3 khâu chính
là thu thập, xử lí thông tin và ra quyết định.
Kiểm tra đánh giá là khâu cuối cùng trong dạy và học. Đây là khâu then chốt, ở khâu này việc ra
đề kiểm tra đánh giá như thế nào cho phù hợp với mục tiêu chương trình là một vấn đề hết sức quan trọng
từ đó sẽ quyết định mục tiêu chương trình, cách học cách dạy. Ra đề như thế nào sẽ quyết định cách dạy
và cách học như thế. Tuy nhiên việc đánh giá phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Đảm bảo tính khách quan, chính xác
2. Đảm bảo tính toàn diện
3. Đảm bảo tính hệ thống

4. Đảm bảo tính công khai và tính phát triển
5. Đảm bảo tính công bằng
Ra đề là một hoạt động chuyên môn thường nhật, thường niên của người giáo viên Ngữ văn, việc
ra đề làm văn sẽ thể hiện được năng lực chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp, sự đam mê tìm tòi
sáng tạo của người giáo viên.
Đổi mới phương pháp dạy học cần hình thức kiểm tra tương xứng với nó để tạo ra động lực thúc
đẩy đổi mới phương pháp, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Để đáp ứng những mục tiêu mới của giáo
dục, việc kiểm tra, đánh giá cũng phải đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nhằm
phát triển trí thông minh, sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt kiến thức, kỹ năng đã học
vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề được đặt ra
trong cuộc sống phức tạp biến động nhanh chóng hiện nay. Không đổi mới kiểm tra đánh giá thì tất cả trở nên
vô nghĩa.
Do yêu cầu đặc trưng bộ môn nên kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn nhằm mục đích đánh giá
học sinh một cách toàn diện và rèn luyện cho học sinh về hai kỹ năng rất cơ bản là năng lực đọc hiểu văn
bản và tạo lập văn bản, tạo điều kiện cho HS phát triển toàn diện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và xúc
cảm thẩm mĩ. Những năng lực này đã được cụ thể hóa trong chuẩn chương trình môn học với những yêu
cầu cần đạt trên cả ba mặt kiến thức, kỹ năng và thái độ.
Trong đánh giá môn Ngữ văn, cần lưu ý một số điểm sau:
8

Thứ nhất: Việc đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn trước hết cần phải bám sát mục tiêu môn
học, chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đánh giá.
Thứ hai: Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh được căn cứ trên những đổi
mới về nội dung chương trình và sách giáo khoa. Đối với bộ môn Ngữ văn ở trường THPT đánh giá học
sinh ở 3 cấp độ Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng (trong vận dụng thì có vận dụng thấp và vận dụng cao).
Thứ ba: Mở rộng phạm vi kiến thức kỹ năng được kiểm tra qua mỗi lần đánh giá kết quả học tập
môn Ngữ văn của học sinh.
Thứ tư: Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh luôn dựa trên quan điểm tích
cực hoá hoạt động học tập của học sinh (với ý nghĩa học sinh tự giác, chủ động, linh hoạt trong lĩnh hội
và vận dụng kiến thức kỹ năng).

Thứ năm: Cần đa dạng hoá các hình thức kiểm tra, kết hợp các dạng bài tự luận truyền thống với
các dạng bài kiểm tra khác để tăng cường tính chính xác, khách quan trong đánh giá kết quả học tập môn
Ngữ văn…
Thứ sáu: Chú trọng tới tính phân hóa trong khi kiểm tra.
Như vậy đề kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn cũng như đề kiểm tra đánh giá ở các môn học khác
phải đảm bảo được những yêu cầu nói trên.
1.1.2. Quan niệm về một đề làm văn hay
Đúng là yêu cầu đầu tiên quyết định và là cơ sở đánh giá đề văn hay. “Đúng” theo G.S. Phan Trọng
Luận là chuẩn xác về hình thức, chuẩn xác về phát ngôn yêu cầu của đề bài, chính xác về diễn đạt và cách
dùng chữ nghĩa.
Một đề văn hay là một đề không quá khó đối với học sinh, huy động được nhiều đơn vị kiến thức nhưng
lại vừa có tính khoa học, tính chính xác và tính hàm súc, khơi gợi hứng thú làm bài cho học sinh. Ra đề
làm văn để đạt được hay thì phải lao tâm khổ tứ ra đề hay là phải “trúng” trúng ở đây phải hiểu là trúng về nội
dung, trúng đối tượng.
1.1.3.Tính vừa sức của một đề văn
1.1.3.1. Những vấn đề lí luận
Thế nào là tính vừa sức của một đề văn? Ở đây ta phải hiểu tính vừa sức là phù hợp khả năng trình
độ nhận thức và tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh phát huy được năng lực chủ động, tạo được hứng thú
học tập kích thích khả năng sáng tạo hứng thú học tập cho học sinh đồng thời tính vừa sức của một đề văn
là phù hợp với mục tiêu môn học đảm bảo bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học.
Vừa sức là không quá nặng nề, là vừa phải, vừa sức là đảm bảo học sinh có học lực từ trung bình
trở lên có thể làm được bài tất nhiên ở đây là làm được bài ở mức độ trung bình (theo thang điểm đánh
giá hiện nay thì mức trung bình đạt từ 5-6 điểm). Tuy nhiên ở đây cũng cần phải hiểu cho thật đầy đủ vừa
sức không phải là đánh đồng tất cả không phải là theo kiểu bình quân chủ nghĩa. Không phải là các bài
kiểm tra cùng một đề bài thì có điểm số giống nhau. Vừa sức nhưng phải có sự phân hoá, nghĩa là đảm
9

bảo tối thiểu một học sinh có học lực trung bình có thể đạt 5 điểm còn có sự phân loại điểm theo thang
điểm khá giỏi, khuyến khích những học sinh có năng lực có khả năng ở môn học.
Vì vậy muốn có được một đề văn đạt được mục đích đề ra và hay cần phải thực hiện tốt theo quy

trình sau:
Bƣớc 1. Xác định mục đích của đề kiểm tra
Bƣớc 2. Xác định hình thức đề kiểm tra
Bước 3. Thiết lập ma trận đề kiểm tra (bảng mô tả tiêu chí của đề kiểm tra)
Bƣớc 4. Biên soạn câu hỏi theo ma trận
Bƣớc 5. Xây dựng hƣớng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm
Bƣớc 6. Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra
1.1.3.2. Một số đề thể hiện tính vừa sức
Đề bài số 1
Câu 1. (2,0 điểm)
Văn bản là gì? Nêu đặc điểm của văn bản?
Câu 2. (3.0 điểm)
Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn khoảng 300 từ bày tỏ suy nghĩ của mình về vấn đề sử dụng
điện thoại di động của học sinh trung học phổ thông trong trường học hiện nay.
Câu 3. (5,0 điểm)
Anh (chị) hãy phân tích quá trình biến hoá của nhân vật Tấm trong truyện cổ tích“ Tấm Cám”. (SGK
Ngữ Văn 10- Tập 1, chương trình Cơ bản).
Đề bài số 2
Câu 1. (2,0 điểm)
a. Trong truyện ngắn “Người trong bao”(A. P. Sê- khốp), nhân vật Bê- li- cốp có một khát vọng mãnh
liệt và một nỗi lo sợ thường trực. Đó là gì?
b. Những chi tiết trên góp phần bộc lộ chủ đề nào của tác phẩm?
Câu 2. (3,0 điểm)
Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn khoảng 400 từ bày tỏ suy nghĩ của mình về câu nói: “Trong
mắt người khác, bạn có thể thất bại vài ba lần, nhưng với bản thân, bạn không được phép trở nên mềm
yếu vì đó là sự thất bại thảm hại nhất”.
Câu 3. (5,0 điểm)
Anh (chị ) hãy trình bày những cảm nhận của mình về đoạn thơ sau đây trích trong bài thơ “Vội
vàng” của thi sĩ Xuân Diệu. Từ đó, hãy chỉ ra những đóng góp mới mẻ của Xuân Diệu với thơ ca đương
thời?

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
10

Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ của;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
(Trích“Vội vàng”- Xuân Diệu)
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Dạy và học văn được diễn ra trong phạm vi nhà trường. Đây là hoạt động thường niên, thường
nhật. Môn Ngữ văn là môn học cơ bản là môn học công cụ chính vì thế nó không thể thiếu trong nhà
trường phổ thông. Kết quả giảng dạy bộ môn Ngữ văn được thể hiện qua việc kiểm tra đánh giá nhận thức
của học sinh, kết quả giảng dạy của thầy cô.
Tuy nhiên từ trước cho đến những năm gần đây, việc kiểm tra đánh giá ở môn Ngữ văn thường
dập khuôn máy móc chủ yếu quanh đi quẩn lại chỉ hỏi ở một vài tác phẩm dẫn đến chỉ sau vài năm liên
tiếp học trò có thể đoán định được thầy cô sẽ ra đề vào vấn đề gì, ra cái gì và ra như thế nào.
Trước thực tế ấy Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản hướng dẫn chỉ đạo định hướng cho việc ra
đề môn Ngữ văn nói riêng và các môn khoa học xã hội nói chung. Căn cứ vào các chỉ thị cho từng năm
học của Bộ, đặc biệt là từ năm học 2006 trở lại đây, nhất là trong thông báo số 287/TB - BGDĐT, ngày
5/5/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bộ đã khẳng định: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục” và gắn với phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích
cực”. Coi trọng việc phân tích kết quả kiểm tra qua đó giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy học hướng dẫn

giúp đỡ học sinh phát huy điểm mạnh khắc phục điểm yếu trong học tập; các cấp quản lí cũng điều chỉnh
các hoạt động dạy và học kiểm tra đánh giá một cách kịp thời. Quán triệt đặc trưng môn học để tăng
cường hiệu quả giảng dạy học các môn KHXH - NV. Khắc phục tình trạng thiên về kiểm tra ghi nhớ tăng
cường ra đề “mở” nhằm kiểm tra mức độ thông hiểu và vận dụng tổng hợp tri thức để giải quyết vấn đề,
rèn luyện các kĩ năng và học sinh được tự do biểu đạt chính kiến khi trình bày, hiểu biết và tôn trọng các
giá trị lịch sử văn hoá của quê hương đất nước.
Đối với môn Ngữ văn: coi trọng kiểm tra, đánh giá kĩ năng biểu đạt trình bày một chủ đề bằng lời
nói chữ viết, bồi dưỡng tình cảm hứng thú học tập, thái độ trân trọng tiếng mẹ đẻ, yêu di sản văn hoá của
nhân loại và truyền thống văn hoá dân tộc, biết coi đó là vốn văn hoá tối cần thiết đối với mỗi con người.
11

“Đối với một số môn khoa học xã hội và nhân văn như: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công
dân, cần coi trọng đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng hạn chế yêu cầu học sinh chỉ ghi nhớ máy móc,
không nắm vững kiến thức, kỹ năng môn học. Trong quá trình dạy học, cần từng bước đổi mới kiểm tra
đánh giá bằng cách nêu vấn đề mở, đòi hỏi học sinh phải vận dụng tổng hợp kiến thức, kỹ năng và biểu
đạt chính kiến của bản thân”. (Số: 4718/BGDĐT-GDTrH ngày 11 tháng 8 năm 2010 về việc hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ năm học 2010-2011).
Những năm qua, việc ra đề kiểm tra, đánh giá, thi cử ở bộ môn Ngữ văn thường tập trung ở một số
loại câu hỏi, phạm vi nội dung nghị luận, hình thức thao tác nghị luận chính (xem bảng thống kê dưới
đây) (Đây được xem là dạng đề truyền thống).

BẢNG 1.1.THỐNG KÊ LOẠI ĐỀ, PHẠM VI, HÌNH THỨC NGHỊ LUẬN
Loại đề
Phạm vi nội dung nghị luận
Hình thức thao tác
nghị luận chính

Hiểu và cảm tác
phẩm văn học
Bình giảng một bài thơ, một đoạn

thơ, văn hay
Phân tích bài thơ
Phân tích một vấn đề nào đó của tác
phẩm văn xuôi
Phân tích nhân vật
Phân tích một hình tượng
Phân tích một hình ảnh
Phân tích một tâm trạng
So sánh hai tác phẩm văn học
Phân tích hoặc Bình
giảng

Văn học sử
Đề về một nền văn học
Đề về một giai đoạn văn học
Đề về một khuynh hướng văn học
Đề về một tác gia văn học
Đề về một tác phẩm văn học
Phân tích giải thích
chứng minh bình luận
Lí luận văn học
Đặc trưng văn học
Cấu trúc tác phẩm văn học
Các giá trị văn học và tiếp nhận văn
học
Giải thích chứng minh
bình luận
Nghị luận
Một vấn đề đạo đức nhân sinh
Giải thích chứng minh

12

xã hội
Một vấn đề chính trị
Một vấn đề văn hoá tư tưởng
Một vấn đề kinh tế
Một vấn đề lịch sử
Một vấn đề địa lí môi trường
bình luận

CHƢƠNG 2
ĐỀ XUẤT CÁC HƢỚNG RA ĐỀ THEO HƢỚNG MỞ
2.1. Đề truyền thống - những thành tựu và hạn chế của đề truyền thống
Dạng đề truyền thống là dạng đề thường kèm theo những câu mệnh lệnh, gợi dẫn về thao tác lập
luận như: “hãy chứng minh, hãy phân tích, hãy giải thích, hãy bình luận”, hoặc phương thức biểu đạt
như: “hãy phát biểu cảm nghĩ, hãy kể”…
Phải nói rằng cách ra đề kiểm tra đánh giá này có những ưu điểm như kiểm tra được khả năng
nắm bắt các tác phẩm văn chương đã học. Học sinh tái hiện lại những kiến thức và kĩ năng mà thầy cô đã
truyền thụ cho các em, giúp học sinh ghi nhớ một cách chính xác khoa học các tác phẩm văn học, các vấn
đề về Tiếng Việt đã được học đã học, ghi nhớ những điều thầy cô đã dạy và kiến thức trong bài kiểm tra
sẽ mang tính hàn lâm bác học. Về cơ bản cách ra đề như thế này sẽ tránh được những sai sót như lệch
chuẩn, sai lệch về mặt kiến thức. Học sinh có điều kiện để củng cố kiến thức đã được học và thực hiện
đúng phương châm học gì thi nấy.
Tuy nhiên, việc ra đề kiểm tra như vậy cũng sẽ dẫn đến cách ra đề của chúng ta còn khá khô cứng,
những vấn đề văn học như tác phẩm, tác giả, nhân vật văn học, đoạn trích văn học cũng như yêu cầu đặt
ra trong đề thường sẽ trùng nhau bởi số lượng các tác phẩm trong chương trình là có hạn phạm vi kiến
thức bị đóng khung bởi một số văn bản nhất định. Kỹ năng vận dụng của học sinh sẽ bị hạn chế. Các bài
kiểm tra chỉ tập trung kiểm tra được những điều ghi nhớ học thuộc (nội dung học tập từ SGK, từ GV) hơn
là vận dụng sáng tạo những hiểu biết này vào các tình huống thực tiễn (các kĩ năng thực hành vận dụng).
Việc cho điểm của GV không thống nhất và có sự khác biệt lớn giữa các GV khi đánh giá HS do chưa

đảm bảo tính khách quan, chưa hạn chế được tính chủ quan áp đặt trong đánh giá. Học sinh không biết
(hoặc chưa quan tâm) đến các kĩ năng và năng lực quan trọng khác (ví dụ năng lực vận dụng những gì
học được ở nhà trường vào thực tiễn giải quyết những vấn đề của đời sống hằng ngày, năng lực tự học
thêm những gì ngoài SGK, năng lực tự khẳng định mình vì những điều này không được đánh giá).
Và như vậy thì học gì thi nấy đã khiến cho thầy giáo sáng tạo cũng chỉ “trong hành lang hẹp.”
(Nguyễn Minh Châu).
Thực tế ở nước ta, có điều tưởng như nghịch lý mà đã thành quy luật: thi thế nào sẽ dạy và học thế
ấy. Vì thế, muốn thay đổi cách dạy và học Ngữ văn, theo tôi cần tác động vào khâu then chốt thay đổi
13

cách thi và ra đề thi đề kiểm tra. Cách dạy học và thi như thế tất sẽ dẫn đến tình trạng chán học văn của số
đông học sinh.
Theo TS Nguyễn Văn Long: “cần có ngay những sự thay đổi trong cách ra đề, trong việc đánh
giá kết quả học tập về môn học này, đó là điểm then chốt sẽ tác động lại toàn bộ hệ thống, từ dạy, học,
đến biên soạn sách giáo khoa, chương trình môn học”.
Sự thay đổi ít ra cũng cần thể hiện ở hai hướng sau:
- Một là, cần tăng cường các đề thi gắn với thực tiễn đời sống (đề nghiêng về các vấn đề xã hội).
- Hai là, với loại đề nghị luận văn học thì cần coi trọng đánh giá năng lực vận dụng chứ không phải là
nhớ và thuộc bài. Đánh giá cao các năng lực đọc hiểu văn bản sử dụng ngôn ngữ khả năng diễn đạt.
2.2. Quan niệm về đề văn theo hƣớng mở
- Trong những năm trước đây đề kiểm tra môn Văn nghiêng hẳn về nghị luận xã hội.
- Trong giai đoạn cải cách giáo dục, các đề thi lại nghiêng hẳn về nghị luận văn học mà không yêu
cầu viết bài nghị luận xã hội.
Nghị luận xã hội là hình thức để rèn luyện rất tốt khả năng độc lập suy nghĩ của HS trước một vấn
đề của xã hội, cuộc sống; là một hình thức giáo dục tư tưởng, tình cảm trực tiếp khá hiện hữu; đặc biệt có
thể khắc phục được tình trạng sao chép và học thuộc văn mẫu hiện nay. Hơn nữa đề văn thuộc dạng nghị luận
xã hội sẽ là những đề văn để học sinh có cơ hội được bộc lộ trình bày quan điểm suy nghĩ của chính bản trước
một vấn đề xã hội nào đó. Thực tế đòi hỏi của xã hội hiện nay thì kĩ năng mền đang là đòi hỏi bức thiết, kĩ
năng mềm là kĩ năng xử lí tình huống, kĩ năng ứng xử và năng lực ứng xử của học sinh trước các vấn đề xã
hội, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với xu thế và thực tiễn xã hội. Việc học sinh được bày tỏ quan điểm thái

độ lập trường trước các vấn đề xã hội, các vấn đề được dư luận xã hội quan tâm là hết sức cần thiết vậy ra đề
làm văn thuộc lĩnh vực xã hội sẽ phát huy được những yêu cầu và đòi hỏi bức thiết này.
Bởi vậy, CT và SGK Ngữ văn mới có nhiều thay đổi nhằm điều chỉnh lại thực tiễn dạy học. Đó là
cân đối lại tỉ lệ giữa nghị luận văn học và nghị luận xã hội. SGK Ngữ văn THPT hiện nay, tình trạng mất
cân bằng giữa nghị luận xã hội và nghị luận văn học đã được khắc phục.
Ngoài xu hướng chú trọng nghị luận xã hội, cân đối nghị luận xã hội và nghị luận văn học, hiện
nay, ra đề theo hình thức trắc nghiệm khách quan cũng rất được ủng hộ. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan
giúp kiểm tra được nhiều đơn vị kiến thức hơn và cũng đảm bảo tính khách quan, chính xác hơn. Tuy
nhiên, trắc nghiệm khách quan chỉ có thể áp dụng ở mức nhất định.
Có thể khái quát những xu hướng ra đề theo hướng mở như sau:
Ra đề theo hướng mở: Chỉ nêu vấn đề cần bàn luận trong bài nghị luận hoặc chỉ nêu đề tài.
Tùy thuộc vào nội dung vấn đề, đề tài được nêu ra trong đề bài mà người viết lựa chọn và quyết
định sử dụng các thao tác nghị luận phù hợp. Đề mở yêu cầu cao ở HS sự sáng tạo, linh hoạt, những suy
nghĩ cảm thụ độc lập, khó có thể lệ thuộc vào các tài liệu tham khảo. Đề mở không những kích thích khả
năng tư duy sáng tạo cho HS mà còn có thể phân loại được HS.
14

Đề văn mở nhưng xuất phát từ văn học để mở cho HS một vấn đề nào đó về cuộc sống cũng như
văn chương.
Sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo tính đại trà
Đề thi văn vẫn là đề thi của một môn học nên dù mở vẫn phải là đề của bộ môn Văn trong đó HS
phải dùng kiến thức văn học để luận giải các vấn đề của đề bài. Những đề mở mà vẫn xuất phát từ kiến
thức văn học đã được tích lũy của HS mở ra không gian rộng lớn cho các em suy nghĩ, tưởng tượng sáng
tạo, kích thích được trí thông minh văn học và hứng thú làm bài của các em.
Đề mở là dạng đề chỉ nêu ra yêu cầu về nội dung vấn đề cần nghị luận mà không yêu cầu bắt buộc
về thao tác nghị luận cũng như phạm vi nội dung của vấn đề nghị luận. Dạng đề này đòi hỏi người viết
phải chủ động trong nhận thức nội dung đề cũng như nhận thức về thao tác nghị luận sẽ sử dụng khi làm
bài. Dạng đề mở sẽ cơ bản đáp ứng được những yêu cầu trong việc kiểm tra, đánh giá môn học này, nói
một cách khác là có thể hiện thực hoá được những yêu cầu trong việc kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn.
Trước hết là quan niệm về đề thi môn Văn?

Đề thi môn nào cũng phải có yêu cầu sáng tạo, nhưng đề thi môn Văn yêu cầu sáng tạo lại càng
phải được chú ý. Vì đây là sáng tạo thường thức nghệ thuật. Những đề văn mở sẽ khởi động trong học
sinh hứng thú làm bài, tạo ra một không gian mở cho các em mặc sức bay bổng tưởng tượng và sáng tạo.
Kiến thức văn học trong nhà trường được tích luỹ, giờ đây có dịp được phát biểu ra cảm nhận và suy nghĩ
riêng của mình mà chúng ta đã biết “Văn học là nhân học”. Học văn là để học làm người. Học văn không
chỉ là để hiểu mình mà còn để hiểu người. Bài văn lúc đó sẽ là đích thực là một tác phẩm nhỏ của từng
em là tiếng nói riêng của từng em, không ai giống ai như một vườn hoa nhiều hương sắc, chứ không phải
là một bông hoa theo khuôn mẫu cho sẵn. Chỉ có điều cần có một quan niệm đúng đắn về đề văn mở: mở
như thế nào, mở đến đâu, điều quan trọng là các đề văn mở phải gắn bó với kiến thức văn học như thế nào
chứ không thể thoát ly hoặc tách rời với những điều đã học trong chương trình Ngữ văn ở bậc phổ thông.
Đây là yêu cầu và cũng là thách thức không nhỏ đối với những người làm công tác biên soạn đề thi, đề
kiểm tra của các kì thi mang tính và tầm quốc gia và là thử thách lớn đối với các thầy cô đang trực tiếp
làm công tác giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THPT.
Trong dạy học có rất nhiều nghịch lý diễn ra: thời gian có hạn, tri thức thì khôn cùng, môn học thì
quá tải mà thời gian và sức học của học sinh có giới hạn học sinh phải tiếp thu quá nhiều môn học. Tác
phẩm văn chương nhất là những tác phẩm xuất sắc, có giá trị khai thác mãi mà không hết ý sâu xa mà thời
gian trên lớp lại rất hữu hạn. Vì vậy thắp sáng khát vọng cho học sinh qua mỗi giờ giảng văn là điều quan
trọng hơn là cung cấp nhồi nhét cho học sinh một mớ kiến thức.
Đối với môn Văn trong nhà trường có điều kiện để thức đậy khát vọng trong học sinh. Đó là khát vọng
sống cao đẹp mà mỗi giờ giảng văn từ vẻ đẹp hình tượng, ngôn ngữ của người thầy có thể tạo được một không
khí văn chương, không khí ngự trị cái đẹp thức dậy trong các em học sinh biết bao khát vọng sống.
15

Như vậy ai đó nói rằng việc ra đề văn theo hướng mở chỉ có thể áp dụng đối với phần nghị luận xã
hội, chúng tôi cho rằng ý kiến ấy là khiên cưỡng và có lẽ cũng cần xem xét lại cách đặt vấn đề. Tuy nhiên
chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra trong những tác phẩm văn học được học trong chương trình Ngữ
văn cấp THPT thì có những tác phẩm dễ dàng trong việc ra đề theo hướng mở, có những tác phẩm phải
tìm tòi khơi gợi, đặc biệt các thầy cô giáo phải lao tâm khổ tứ phải nhọc công phải đổ mồ môi trên trang
sách trang giáo án thì mới có thể có được những đề mở hay.
Những đề mở vẫn phải xuất phát từ kiến thức văn học đã được tích luỹ của học sinh để mở ra một

không gian rộng lớn cho các em suy nghĩ, tưởng tượng sáng tạo kích thích được trí thông minh, khả năng
văn học và hứng thú làm bài của các em. Đó là những đề hay.
2.3. Các hƣớng ra đề theo hƣớng mở
Khi nói đến đề kiểm tra ra theo hướng mở thì sẽ có rất nhiều cách hiểu khác nhau về việc ra đề
theo hướng mở từ nội dung kiến, vùng kiến thức đến hình thức kết cấu bố cục
Dưới đây chúng tôi xin trao đổi một số cách mở cơ bản
- Mở nội dung:
Mở về mặt nội dung.
Ở đây chúng ta cũng cần chia ra mở về mặt nội dung ở dạng câu hỏi nghị luận văn học và dạng
câu hỏi về nghi luận xã hội.
Câu hỏi ở dạng văn học là câu hỏi xuất phát từ những vấn đề thuộc văn học như tác giả văn học, trào
lưu, xu hướng văn học, tác phẩm văn học, lí luận văn học. Câu hỏi ở dạng văn học vừa tồn tại ở dạng tái hiện
và dạng nghị luận. Làm thế nào để ra đề kiểm tra có tính mở như đã nói ở trên là vấn đề cần trao đổi.
“Mở” về câu hỏi nghị luận văn học, trên cơ sở những tác phẩm văn học đã được học trong
chương trình chúng ta cũng có thể có nhiều cách hỏi mở khác nhau.
“Mở” ở câu hỏi nghị luận văn học theo chúng tôi nên có sự so sánh đối chiếu giữa các tác phẩm văn
giữa các nhân vật hoặc có cách hỏi là yêu thích hoặc tâm đắc nhất đoạn trích nào, tác phẩm nào, nhân vật
nào, hay tác giả tác phẩm văn học nào có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến bản thân, ra câu hỏi để học sinh tự trình
bày những suy nghĩ phát biểu kiến giải riêng về vấn đề nghị luận, câu hỏi chỉ nêu vân đề nghị luận mà không đòi
hỏi thao tác nghị luận cụ thể.
Đối với câu hỏi về nghị luận xã hội “mở” về mặt nội dung có thuận lợi hơn. Bởi vì nghị luận xã
hội là dạng nghị luận bàn bạc trao đổi thảo luận bày tỏ chính kiến của người viết về một vấn đề xã hội nào
đó trên một lập trường quan điểm nhất định.
- Mở về yêu cầu của đề:
Đây chính là mở về hình thức của đề, yêu cầu về thao tác nghị luận. Nó chính là câu lệnh của đề bài.
Từ trước cho đến nay câu lệnh vẫn được hiểu là thao tác nghị luận chính mà học sinh phải vận dụng. Trước
đây thường hay có các lệnh như: “hãy phân tích, bình giảng, chứng minh, giải thích”. Những câu lệnh này
được xem là những câu lệnh có tính chất đóng.
16


Vậy mở thế nào để học sinh không bị gò bó trong quá trình làm bài thì theo chúng tôi có thể thay
câu lệnh ấy bằng các câu lệnh như: cảm nhận, suy nghĩ, quan điểm thái độ của anh chị về vấn đề đó hoặc
chỉ nêu vấn đề.
- Mở về cách tiếp cận:
Từ những yêu cầu mở trên sẽ mở cho học sinh các vấn đề như: nhận thức suy nghĩ hành động tích cực.
Hạn chế học thuộc học một cách máy móc, tự tin bày tỏ quan điểm thái độ trước một vấn đề (văn học và xã hội).
Mở về cách tiếp cận nghĩa là qua môn học Ngữ văn học sinh sẽ được trang bị những kiến thức cơ bản
những kĩ năng cơ bản để có thể tiếp cận được các vấn đề tương tự. Đây là dạng câu hỏi hỏi ở những tác phẩm
văn học hoặc những vấn đề tương tự nghĩa là học sinh cần phải có kĩ năng cơ bản trong việc cảm thụ suy nghĩ về
một vấn đề văn học từ đó mà cảm thụ một tác phẩm tương tự hay những vấn đề văn học mà dư luận xã hội đang
quan tâm.
CHƢƠNG 3
THIẾT KẾ THỰC NGHIỆM
3.1. Các vấn đề chung
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Kiểm tra khả năng thực thi của đề tài
3.1.2. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng
Đối tượng: học sinh cấp THPT
3.1.3. Địa bàn thực nghiệm
- Trường THPT Vạn Xuân - Long Biên - Hà Nội
- Trường THPT Lý Thường Kiệt - Long Biên - Hà Nội
3.1.4. Nội dung thực nghiệm
- Thiết kế đề và đáp án
- Phân tích ưu điểm từ kết quả
3.1.5. Phương pháp thực nghiệm
Tổ chức theo khối lớp có đối chứng
3.1.6.Những khó khăn khi tiến hành thực nghiệm
Đây là vấn đề không còn hoàn toàn mới nhưng vẫn chưa trở thành chính thống. Khi tiến hành thực
nghiệm với tư cách là tổ trưởng chuyên môn tôi đã mạnh dạn đề xuất với Ban Giám hiệu nhà trường và
cam kết chịu trách nhiệm về kết quả kiểm tra bộ môn, tôi đã tiến hành thực nghiệm ở cả 3 khối lớp.

3.3. Kết quả thực nghiệm và đánh giá
Chúng tôi ra đề cho kiểm traở cả 3 khối lớp, cả ban Cơ bản và Nâng cao. Chúng tôi áp dụng và
thực nghiệm tại hai trường THPT của Quận Long Biên: THPT Lý Thường Kiệt và THPT Vạn Xuân. Tiến
hành thực nghiệm chúng tôi đều tiến hành đối chứng nghĩa là cùng song song kiểm tra. Sau đó, chúng tôi
17

tiến hành chấm, pphân loại và đánh giái rút ra nhận xét. Vì thế kết quả thực nghiệm là khách quan và
đáng tin cậy.
Kết quả được thể hiện qua bảng so sánh đối chiếu giữa lớp được thực nghiệm và lớp không thực
nghiệm (lớp không thực nghiệm chúng tôi vẫn ra đề theo lối truyền thống, lớp thực nghiệm chúng tôi ra
đề theo hướng mở)
Kết quả như sau:

Không thực nghiệm
Thực nghiệm
Lớp

số
Số bài
giống
nhau
Số bài
khá
giỏi
Số
bài
TB
Số
bài
yếu

kém
Lớp
Sĩ số
Số bài
giống
nhau
Số
bài
khá
giỏi
Số
bài
TB
Số
bài
yếu
kém
12
135
12
35
83
17
12
135
2
55
74
6
11

90
10
25
49
16
11
90
4
40
42
8
10
90
13
27
44
19
10
90
3
42
37
11

Nhìn vào bảng kết quả thực nghiệm chúng ta có thể dễ dàng nhận ra với việc áp dụng việc ra đề
kiểm tra theo hướng mở ở cấp THPT hiện nay là cần thiết. Vì việc ra đề kiểm tra như vậy đã thức dậy ở
học sinh lòng đam mê học văn khơi dậy ở các em ngọn lửa văn chương. Hơn nữa kết quả thực nghiệm
cho thấy học sinh khá giỏi ở bộ môn Ngữ văn tăng lên đáng kể, số lượng bài giống nhau (có thể chép của
nhau, hoặc ở một tài liệu tham khảo nào đó) giảm một cách đáng kể, số lượng bài viết thể hiện được quan
điểm cá nhân, phát huy được khả năng và năng lực tư duy cũng như ngôn ngữ của học sinh được tăng lên.


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Việc áp dụng đề tài này đã phát huy được vai trò tự học, sáng tạo, khả năng tư duy độc lập của học
sinh. Đặc biệt, qua thực nghiệm chúng tôi nhận thấy năng lực sử dụng ngôn ngữ khả năng cảm thụ
văn học của học sinh khá tốt, quan điểm thái độ của học sinh trước vấn đề xã hội được bộc lộ. Với đề
tài này, thầy cô giáo giảng dạy có điều kiện để hiểu rõ hơn về các năng lực đọc hiểu, khả năng sử
dụng ngôn ngữ, kĩ năng tạo lập văn bản và đặc biệt là thái độ của học sinh trước các vấn đề của cuộc
sống xã hội. Đề tài giúp giáo viên kịp thời bổ sung uốn nắn những thiếu sót của học sinh, khích lệ học
sinh phát huy những điểm mạnh.
18

Với đề tài “Định hướng ra đề làm văn theo hướng mở ở cấp trung học phổ thông” chúng tôi
xuất phát từ mong muốn đề tài sẽ góp một tiếng nói trong đổi mới phương pháp dạy và học môn Ngữ văn
ở trường THPT hiện nay.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi không tham vọng mang đến một bước đột phá về đổi mới về
phương pháp kiểm tra, đánh giá, đổi mới phương pháp dạy học mà chỉ mong muốn được đề xuất và tìm
tòi những biện pháp mới để nâng cao hiệu quả dạy và học, đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở cấp
trung học phổ thông hiện nay.
2. Khuyến nghị
2.1. Đối với giáo viên
Giáo viên Ngữ văn cần thay đổi tư duy khi ra đề, cần có những tìm tòi phát hiện những vấn đề
mới trong chương trình dạy và học, trong từng tác phẩm văn học.
Tự học hỏi bồi dưỡng để nâng cao kĩ năng ra đề của bản thân. Trao đổi, thảo luận, hội thảo trong
tổ nhóm chuyên môn, trong cụm trường về việc ra đề theo hướng mở từ đó xây dựng thư viện đề kiểm tra
của tổ nhóm chuyên môn.
2.2. Đối với các cơ quan quản lý giáo dục và nhà trường
Tuyên truyền phổ biến trong nhà trường, cơ quan quản lí giáo dục và xã hội về chủ trương định
hướng đổi mới mục tiêu nội dung phương pháp giáo dục. Bồi dưỡng giáo viên về kĩ năng ra đề đáp án và
chấm bài thi. Lập dữ liệu nguồn mở các câu hỏi bài tập để mọi giáo viên đều có thể tham khảo trong việc

xây dựng các đề kiểm tra đề thi phù hợp với tiến độ dạy học, đối tượng học sinh và mục đích của mỗi kì
thi, kiểm tra. Bộ, Sở phải đi đầu trong việc đổi mới ra đề thi kiểm tra định kì kiểm tra định kỳ, kiểm tra
học kỳ trong các kỳ thi Olympic, thi tốt nghiệp, thi tuyển sinh, thi chọn học sinh giỏi… Có hình thức
khen thưởng kịp thời thích đáng cho những tập thể và cá nhân tích cực trong việc ra đề kiểm tra theo
hướng mở. Có những tiêu chí cụ thể, xác định môn Ngữ văn là môn học cơ bản trọng tâm có định hướng
để làm sao môn Ngữ văn được trở về đúng vị trí như đã xác định. Đưa môn Ngữ văn vào chương trình thi
tuyển sinh của tất cả các cấp học, bậc học, môn Ngữ văn được xem như là môn điều kiện, bắt buộc.
Bộ mạnh dạn lên kế hoạch thay đổi cho việc kiểm tra thi từ thi TNTHPT đến tuyển sinh vào các
trường Cao đẳng và Đại học: kiểm tra kiến thức bên cạnh kiến thức Văn học, cần tăng thêm kiểm tra khả
năng sử dụng tiếng Việt. Về kiến thức văn học, bên cạnh văn học hiện đại, cần kiểm tra cả văn học cổ
điển để cho học sinh khỏi mất gốc. Hơn nữa để cho học sinh hiểu rằng văn học cổ của ông cha ta sáng tạo
ra là đáng học không kém gì văn học hiện đại là cội nguồn để văn học hiện đại phát triển. Phần nghị luận
văn học ra bài, đoạn trích, vấn đề mới mà học sinh chưa được học để kiểm tra khả năng vận dụng kiến
thức, phương pháp phân tích tác phẩm, khả năng cảm thụ và diễn đạt kĩ năng đọc hiểu vận dụng của học
sinh. Nghị luận xã hội kiểm tra thái độ, năng lực, sự hiểu biết của học sinh về các vấn đề đạo đức nhân
sinh, những vấn đề nổi cộm, vấn đề toàn nhân loại quan tâm.
19

Người thầy chỉ dạy học sinh phương pháp học để học vận dụng vào tác phẩm mới tương tự, những
vấn đề của đời sống xã hội chứ không dạy học sinh học vẹt, học máy móc.
Để đưa ra được những ý kiến của mình chúng tôi đã dựa trên nhiều cơ sở đáng tin cậy của các
quan điểm lý luận nhưng dù sao cũng chỉ là những nghiên cứu bước đầu, chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót.
Kính mong các thầy cô, bạn bè đóng góp cho chúng tôi những ý kiến quý báu.

References.
1. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương. Nxb Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
2. Phạm Văn Đồng (1986), Mấy vấn đề văn học giáo dục. Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Nguyễn Trọng Hoàn (2006), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương.

Nxb Giáo dục.
4. Nguyễn Ái Học (2010), Phương pháp tư duy hệ thống trong dạy học. Nxb Giáo dục Việt Nam.
5. Nguyễn Thuý Hồng (2008), Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ Văn của học sinh
THCS, THPT. Nxb Giáo dục.
6. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng (1998), Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học ở trường THPT.
Nxb Giáo dục.
7. Phan Trọng Luận (2007), Văn học và nhà trường nhận diện tiếp cận đổi mới. Nxb Đại học Sư
phạm.
8. Phan Trọng Luận (2008) (tổng chủ biên), SGK Ngữ văn 10,11,12( 2 tập). Nxb Giáo dục.
9.Phan Trọng Luận (2004), Phương pháp dạy học văn. Nxb Đại học Sư phạm.
10. Nguyễn Quang Ninh (2006), Ôn tập môn Văn theo hướng ra đề thi mới. Nxb Đại học Sư
phạm.
11. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Muốn viết được bài văn hay. Nxb Giáo dục.
12. Nguyễn Văn Tùng (2012), Tuyển tập đề văn và bài văn nghị luận xã hội (2 tập), Nxb Giáo
dục Việt Nam.
13. Đỗ Ngọc Thống (2011), Ôn luyện thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học. Nxb Giáo dục
Việt Nam.
14. Lê Anh Xuân (2011), 199 bài văn nghị luận xã hội ngắn. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
15.Trần Đình Sử (2008), Lí luận văn học tập 1,2,3. Nxb Đại học Sư phạm.
16. Hoàng Phê (2002) ( chủ biên), Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng.
17. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, Nxb Giáo
dục.
20

18. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Các văn bản chỉ thị năm học, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm
học đối với giáo dục trung học.
19. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên về biên soạn
đề kiểm tra, xây dựng thư viện câu hỏi và bài tập(môn Ngữ văn cấp THPT). Nxb Giáo dục Việt Nam.
20. Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Văn học và tuổi trẻ.




×